Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh Để Đối Phó Với Quốc Nạn Công Giáo – Tin Lành.
(Để riêng
tặng hai người đã gợi ý cho tôi viết bài này:
TG., Úc châu và HNL., Thụy sĩ)
Charlie Nguyễn
Tại các
nước Tây phương hiện nay, những công trình
nghiên cứu về Kitô giáo (gồm chung cả Công giáo
lẫn Tin lành) có thể đã lên tới hàng chục ngàn tác
phẩm. Đây chính là những sản phẩm tim óc của
những người trí thức Tây phương thuộc
đủ mọi ngành kiến thức và đặc
biệt là của những tu sĩ cao cấp tỉnh
ngộ. Những công trình nghiên cứu của họ đã
phơi bày thực chất xấu xa tội lỗi của
Kitô giáo nói chung và đặc biệt là của Giáo hội
Công giáo mà cơ quan lãnh đạo tối cao của nó là Tòa
thánh Vatican.
Nhờ đó, ngày 12.3.2000, Vatican đã
phải làm lễ long trọng thú tội trước nhân
loại và cũng nhờ đó mọi người đã
nhận ra rằng: Công giáo La mã không phải là một tôn
giáo chân chính mà thực chất chỉ là một thứ đế
quốc trá hình.
Đạo
Công giáo La mã (Roman catholic) như ta thấy hiện nay hoàn
toàn khác hẳn với đạo Kitô nguyên thủy (The Early
Christianity). Tôi đã trình bày vấn đề này trong
Chương I sách “Thực Chất Đạo Công giáo và Các
Đạo Chúa”, GĐ xuất bản Xuân 2003, dưới
tiểu đề “Thập Giá và Lưỡi Gươm
của Đại Đế Constantine”.
Thật vậy, đạo Công giáo La mã chẳng phải do Jesus
lập ra như nhiều người lầm tưởng.
Chính hoàng đế La mã Constantine
với chủ tâm biến Kitô giáo thành công cụ xâm
lược và thống nhất toàn đế quốc nên y
đã đích thân đạo diễn lập nên các công
đồng (Councils) để từ đó đẻ ra các
tín điều, giáo lý và định chế căn bản
cho giáo hội Công giáo. Tất cả các bản chính của
các sách Thánh kinh Tân ước của Kitô giáo Nguyên thủy
đều bị sửa đổi theo ý của Constantine
và các di tích thật của Jesus ở Jerusalem
đều bị phá hủy. Công giáo La mã đã
được xây dựng trên nền tảng của
những mưu mô bịp bợm và ngụy tạo
để phục vụ cho những tham vọng đen
tối của chủ nghĩa đế quốc.
Bề ngoài,
các tín đồ Công giáo – Tin lành đều suy tôn Jesus lên làm
Thiên Chúa toàn năng, nhưng bọn lãnh đạo tối
cao của các tín đồ đáng thương đó thật
sự chỉ coi Jesus như một hình nộm. Nói đúng
hơn, Jesus chỉ là một tấm bình phong do bọn
đế quốc dựng lên để chúng núp phía sau
lợi dụng trong mưu đồ thâu đoạt
quyền lực và của cải vật chất. Trong các
thế kỷ từ 4 đến 7, đế quốc La mã
Byzantine đã xử dụng Jesus và cây thập giá của ông
ta làm lá cờ xâm lược Âu châu và Bắc Phi. Trong
những thế kỷ kế tiếp, các bạo chúa Công
giáo như Clovis, Charlemagne
đã dùng bạo lực để ép buộc các
nước Âu châu phải theo đạo. Bất cứ ai
bất tuân lệnh đều bị tàn sát dã man. Chính vì
thế mà nhiều nước Âu châu đã trở thành
những nước toàn tòng Công giáo. Tuy nhiên, bắt
đầu từ cuối thế kỷ 18 với sự
xuất hiện của Phong trào Soi sáng (Enlightenment Movement)
các nước Tây phương bắt đầu tỉnh
ngộ và đạo Công giáo cũng bắt đầu
đi vào con đường suy thoái. Tới nay, sự suy
thoái của Công giáo tại các nước Tây phương
đã trở nên hết sức trầm trọng đến
nỗi Vatican đã phải tìm đất sống tại Á
châu với ảo vọng sẽ cải đạo cho
khối người khổng lồ của lục
địa này là 3.5 tỷ người!
Với
bản chất đế quốc bất biến, Vatican
không bao giờ từ bỏ tham vọng xâm lược
văn hóa và chính trị nước ta.Vatican luôn luôn tỏ
thái độ xấc xược ngạo mạn và bọn
Việt gian làm nhiệm vụ gián điệp cho Vatican
vẫn đã và đang ra sức phá hoại nền văn
hóa Việt Nam. Bảy triệu tín đồ Công giáo hầu
hết vẫn giữ nguyên bản chất phản quốc
cố hữu và họ chỉ chờ có cơ hội
sẽ vùng dậy để thực hiện khẩu
hiệu “Phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm”!
Bảy
triệu tín đồ Công giáo tại quốc nội là
đạo quân thứ năm bản địa dưới
sự lãnh đạo của Hội đồng Giám mục
Việt Nam.
Hội đồng này do Vatican tuyển
chọn và phong chức nên. Hội đồng Giám mục
Việt Nam
hiện nay gồm toàn những cán bộ tuyệt
đối trung thành với Vatican.
Họ sẵn sàng phản bội tổ quốc Việt Nam
vì tổ quốc thật của họ là “nước Chúa Vatican”!.
Tại
miền Nam Việt Nam dưới thời Nguyễn văn
Thiệu, Công giáo chỉ chiếm khoảng 7% dân số
nhưng tại quốc hội của miền Nam thời
đó Công giáo đã chiếm tới 2/3 tổng số các dân
biểu nghị sĩ! Điều đó cho thấy
khối lượng 7 triệu giáo dân là một lực lượng
chính trị quan trọng không thể xem thường. Khi có
biến động, lực lượng chính trị này
rất dễ dàng biến thành lực lượng quân
sự như đã từng xảy ra tại Bùi Chu, Phát
Diệm dưới sự lãnh đạo của Giám
mục Phạm ngọc Chi và Giám mục Lê hữu Từ,
hoặc tại Kiến Hòa, Vĩnh Long dưới sự
lãnh đạo của đại tá Le Roy trong những
năm 1949-1954.
Một khi có
biến động xảy ra, lực lượng Công giáo
tiềm ẩn trong nước sẽ được
sự hỗ trợ mạnh mẽ của trên 200.000
người Việt Công giáo tại hải ngoại
để tạo nên thế “nội công ngoại kích”
ngoạn mục, ấy là chưa kể đến sự
trợ lực của các “đồng minh quốc tế” !
Bên cạnh
hiểm họa Công giáo còn có một hiểm họa khác không
kém phần nghiêm trọng, đó là hiểm họa Tin lành.
Mặc dầu Tin lành không phải là một giáo hội
thuần nhất như Công giáo (hiện nay trên thế
giới có khoảng 300 giáo phái Tin lành khác nhau) nhưng có
một số giáo phái Tin lành hiện nay đã phát triển
thành những tổ chức tôn giáo rất lớn với
số tín đồ đông đảo lên tới hàng
chục triệu người. Các giáo phái này có tổ
chức qui mô và có tài sản khổng lồ do sự
đóng góp của các tín đồ từ 2 đến 10%
tổng số lợi tức hàng năm. Đáng kể
nhất là giáo phái Tin lành Baptist, giáo phái Cơ đốc
Phục lâm và nhân chứng Jehovah.
Trong thập
niên 1980, giáo phái Baptist đã có 3000 nhân viên hoạt
động truyền giáo trong 94 quốc gia. Tổ chức
Tin lành “Thanh niên Truyền giáo Quốc tế” (International
Youth for a Mission) có 12.500 nhân
viên truyền giáo hoạt động tại 130 quốc gia.
Tham vọng xâm lược văn hóa chính trị của các
giáo phái Tin lành qua con đường truyền giáo rất
hung hãn không kém gì tham vọng của Vatican.
Từ thập niên 1980, tổ chức Tin lành của mục
sư Pat Robertson đã đưa ra một khẩu hiệu
hết sức kiêu ngạo là “Chương trình Thay
đổi Thế giới” (Program to change the World). Họ
chủ trương dùng các phương tiện truyền
thanh và truyền hình để giảng đạo bằng
nhiều thứ tiếng, ưu tiên hàng đầu nhắm
vào Trung quốc và Nhật bản.
Năm 1991,
sau khi nước Nga mở cửa tự do và công bố
chính sách tự do tôn giáo, một tổ chức Tin lành
tại tiểu bang Texas đã dùng một chiếc tàu
lớn để chở 232 tấn Kinh thánh Tin lành bằng
Nga ngữ để xâm nhập nước Nga. (Tất
cả số liệu này đều được rút ra
từ tác phẩm “Salvation for Sale” của Gerard Thomas Straub,
Prometheus Book xuất bản năm 1996).
Công giáo và Tin
lành hoạt động riêng biệt và có những mục
tiêu riêng nhưng cả hai đều là những hiểm
họa cho sinh mệnh của dân tộc. Tất cả
đều đưa đến một hậu quả là
làm phân tán đại khối dân tộc, phá nát truyền
thống văn hóa nhân bản lâu đời của tộc
Việt và nhất là làm suy yếu tiềm lực quốc
gia trong mọi nỗ lực dựng nước và giữ
nước.
Mọi
người Việt Nam yêu nước, dù đang sống
tại quốc nội hay tại hải ngoại và dù cho xu
hướng chính trị khác biệt nhau ra sao, cũng
cần phải cảnh giác trước thứ vũ khí
văn hóa hiểm độc của chủ nghĩa
đế quốc đội lốt tôn giáo (Công giáo, Tin
lành).
Dân tộc
Việt Nam
đã từng đánh thắng nhiều tên xâm lược
lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần về
mặt quân sự, nhưng dân tộc ta đã “thất
trận” khi địch xâm lược nước ta
bằng thứ vũ khí văn hóa đội lốt tôn
giáo! Chúng ta đã thất bại chủ yếu do những
đoàn quân thứ năm hùng hậu làm nội ứng cho
địch. Cũng chính đạo quân thứ năm này
đã là con bài chủ lực trong chính sách “chia để
trị” để kéo dài sự thống trị của
chúng.
Từ
đầu năm 2001 đến nay, những biến
động xảy ra do người Thượng Tin lành
ở Pleiku và ở miền thượng du Việt Bắc
đã thực sự là những hồi chuông báo động
về mối hiểm họa Tin lành. Kinh nghiệm Trung
quốc cho thấy Công giáo phát triển rất chậm so
với Tin lành: Sau nhiều thế kỷ truyền
đạo tới năm 1982 số tín đồ Công giáo
Trung quốc chỉ có 3 triệu người trên 900
triệu dân. Trong khi đó, Tin lành mới xâm nhập vào Trung
quốc từ đầu thế kỷ 20, nhưng
đến năm 1982 số tín đồ Tin lành là 7
triệu người, tức gấp hơn hai lần tín
đồ Công giáo!
Hướng
về tổ quốc Việt Nam,
giới trí thức hải ngoại nặng tình dân tộc
không khỏi lo ngại trước tình hình hiện nay:
Dường như người Việt trong nước
chưa đánh giá đúng mức mối hiểm họa Công
giáo – Tin lành. Có thể còn nhiều người vẫn
lầm tưởng Công giáo – Tin lành đồng nghĩa
với “văn minh Tây phương”. Thực sự Công giáo
là thủ phạm đã tiêu diệt nền văn minh khoa
học của Hy lạp trong thế kỷ 5, đàn áp các
phong trào tư tưởng tiến bộ tại Âu châu trong
nhiều thế kỷ khiến cho nền văn minh chung
của nhân loại đã bị thụt lùi tới hơn
một ngàn năm! Công giáo không phải chỉ là kẻ thù
của dân tộc Việt Nam
mà còn là kẻ thù chung của cả loài người chúng ta.
Tổng
số người Việt ở hải ngoại hiện
nay khoảng trên hai triệu người. Số
người Việt Công giáo chỉ có khoảng 200.000 người
nhưng là sở hữu chủ của phần lớn các
cơ sở báo chí và truyền thanh truyền hình.
Người Việt Công giáo hải ngoại luôn luôn lớn
tiếng kết tội những người “Cộng
sản vô thần” vi phạm đủ thứ nhân quyền
và đặc biệt là đàn áp tôn giáo. Nhưng trong
thực tế chính họ là những người về
thăm Việt Nam
nhiều nhất và mang tiền về xây nhà thờ, nhà
xứ nhiều nhất. Hiện nay có nhiều người
về thăm quê hương đã phải sửng sốt
ngạc nhiên thấy những thánh đường và nhà
xứ nguy nga lộng lẫy được xây cất sau
1975!
Nếu chính
quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo, tại sao Công giáo có
thể tổ chức “Lễ hội La vang” qui tụ trên
một trăm ngàn tín đồ trong năm 1999? và tại
sao các giám mục và linh mục được phép xuất
ngoại nườm nượp như đi chợ?
Phải chăng chính quyền Việt Nam
đã quá tin tưởng vào sự phản tỉnh dân
tộc của 7 triệu tín đồ Công giáo nên đã quá
lơ là cảnh giác và quá buông lỏng dễ dãi với
họ?
Trên trang nhà
Giao Điểm (giaodiem.com và giaodiem.net) tháng 3-2003 có
đăng bài viết tựa đề: “Việt Nam
phải cẩn thận về một tập đoàn
cực kỳ hiếu chiến”, hai tác giả của bài
viết này là Đào duy Toàn và Hồng Hà Lý trọng Võ đã
khẩn thiết lên tiếng kêu gọi chính quyền
Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến
vấn đề cấp bách là phải diệt trừ tham
nhũng để không cho đạo quân thứ năm
của địch xâm nhập các cơ cấu chính
quyền để lũng đoạn. Hai tác giả bày
tỏ nỗi niềm tha thiết của mình đối
với mối lo chung của cả dân tộc: “Đây là
lời cảnh báo chí tình của những người
Việt xa quê!”.
Trong tháng
2/2003, trang nhà Giao Điểm có đăng bài tham luận
rất giá trị mang tựa đề: “Đối trị
với sách lược của Vatican” của Nhật Nam và
Phạm phú Bổn. Hai tác giả nhấn mạnh
đến tính chất đế quốc bất biến
của Vatican là luôn luôn xâm lăng văn hóa chính trị trên
toàn cầu và Việt Nam là kẻ thù lịch sử của
Vatican.
Theo hai tác giả thì Giáo hội Công giáo có
bốn thuộc tính:
1. Luôn luôn khống chế thế quyền
để phát triển giáo quyền.
2. Tu sĩ cũng như giáo dân Công giáo luôn
luôn tìm cách “mở mang nước Chúa” dù phạm tội ác.
3. Trong hiện tại, Công giáo VN có thể
lợi dụng các cánh tay nối dài của Tây
phương (như Kinh tế thị trường, thông tin
đại chúng) để khuynh loát chính quyền nhằm
tạo lợi thế.
4. Giáo hội Công giáo VN là đạo quân
thứ năm (của Vatican)
có tính chất chuyên nghiệp, bản địa. Đây là
một lực lượng chính trị quần chúng có
tổ chức chặt chẽ và có lãnh đạo quy mô.
Trong trường hợp có biến động, lực
lượng tiềm ẩn này sẽ nối kết chặt
chẽ với Công giáo VN hải ngoại thành một
thế “nội công ngoại kích” nguy hiểm.
Để kết thúc bài tham luận trên, hai
tác giả đưa ra một số biện pháp để
đối trị với sách lược của Vatican, tôi
đặc biệt quan tâm và nhiệt liệt tán thành hai
biện pháp sau đây:
Thứ nhất: Trong đoản kỳ, chúng
ta chấp nhận sự hiện diện của Giáo
hội Công giáo VN như một thành phần dân tộc.
Nhưng chúng ta cần phải ý thức dứt khoát
rằng: Bảy triệu tín đồ Công giáo VN là một
loại ung thư cực kỳ nguy hiểm trên cơ
thể quốc gia, do đó cần phải tìm cách cô lập
chặt chẽ để giới hạn tối đa
sức bành trướng của nó và hạn chế tối
đa sức công phá để kéo dài cuộc sống
của nó.
Thứ hai: Cần có một chính sách thích
đáng đối với Công giáo VN đặt trên cơ
sở giáo dục nhằm giúp họ phản tỉnh
để sớm trở về với dân tộc.
Đồng thời cần phải giới hạn tối
đa mọi liên hệ giữa họ với Vatican
để dần dần đi tới sự hình thành giáo
hội Công giáo VN tự trị.
Hai
điều nói trên rất xác đáng nhưng đã
được nêu lên như những nguyên tắc tổng
quát có tính cách chỉ đạo. Tôi viết bài viết này
với mục đích đề xuất một số
đề nghị cụ thể và chi tiết để góp
ý với các giới chức có trách nhiệm về tôn giáo
ở Việt Nam trong vấn đề khó khăn hiện
nay là vừa phải đối phó với sách luợc
của Vatican, vừa phải đối phó với
những cụ biến loạn do những người Tin
lành gây ra.
Những
biện pháp tôi đề xuất chủ yếu nhằm
thực hiện sự cô lập chặt chẽ để
giới hạn tối đa sức bành trướng
của Công giáo và Tin lành, chú trọng công tác giáo dục qua
sách báo để giúp họ phản tỉnh và sau hết là
tạo mọi điều kiện để sớm hoàn
thành một giáo hội Công giáo tự trị của
người Việt Nam. Đó là một giáo hội Công giáo
độc lập, tự quản và hoàn toàn tách rời
khỏi sự thống trị độc đoán của
bọn lưu manh quốc tế đội lốt thày tu
ở Vatican.
Trước
khi đi vào vấn đề chính yếu này, chúng ta hãy dành
một ít thời gian để duyệt qua bài học kinh
nghiệm của Trung quốc trong việc đối phó
với sách lược của Vatican trong
hơn nửa thế kỷ qua. Những bài học quí giá
của Trung quốc chắc chắn sẽ đem lại
cho chúng ta nhiều điều bổ ích.
Những kinh nghiệm quí giá của Trung
quốc từ 1949 đến nay:
Giáo sư
sử học Michael Mi Chengfeng, thuộc trường
Đại học Nhân dân Bắc kinh, đã viết một
bài đặc biệt về “Quan hệ ngoại giao Trung
quốc – Vatican”. Bài viết bằng Anh ngữ
đựơc đăng trên tờ Tripod tháng 10-1996,
được dịch sang Pháp ngữ đăng trên
tạp chí Giáo hội tại Á châu (Église de l’Asie). Bản
dịch Việt ngữ được đăng trên
Nguyệt san “Công giáo và Dân tộc” (không rõ số báo và ngày
tháng phát hành).
Tác giả
điểm qua vài nét chính của lịch sử giáo hội
Công giáo tại Trung quốc: Đạo Công giáo đã có
mặt rất sớm tại Mông cổ từ cuối
thế kỷ 13. Tại lục địa Trung quốc,
công cuộc truyền giáo thực thụ được xác
định là năm 1583 khi linh mục dòng Tên người Ý
Matteo Ricci đặt chân lên đất nước này. Matteo
Ricci tự ý đổi tên thành Mã Lợi Đậu, ăn
mặc theo kiểu Trung quốc, giảng đạo
bằng ngôn ngữ địa phương và viết
nhiều sách bằng chữ Hán. Ricci sống liên tục
tại Trung quốc đề giảng đạo trong 27
năm, gây được nhiều ảnh hưởng
lớn tại triều đình Trung quốc và trong giới
nho sĩ. Khi qua đời vào năm 1610, Ricci đã
được triều đình Trung quốc làm lễ
quốc táng.
Đầu
thế kỷ 18, tức cuối đời nhà Minh, Trung
quốc có 1 triệu tín đồ Công giáo. Luo Wenzao là
người Hoa đầu tiên được Vatican
phong chức giám mục cai quản giáo phận Nam Kinh.
Năm 1949,
Chủ nghĩa Cộng sản chiến thắng và nắm
quyền cai trị toàn lục địa Trung hoa. Vào
thời điểm đó giáo hội Công giáo Trung quốc có
3 triệu tín đồ, chiếm tỷ lệ 0.58% dân
số toàn quốc. Tuy tỉ số giáo dân rất nhỏ
nhoi nhưng giáo hội Công giáo Trung quốc là sở hữu
chủ của nhiều trường đại học và
học viện và bệnh viện rải rác khắp nơi
trong nước.
Ngày 30.11.1949, giáo hội Công giáo Trung quốc
tuyên bố cắt đứt quan hệ với Vatican
để biến thành Giáo hội Tự trị với
khẩu hiệu “Tam Tự”:
1. Tự chủ về lãnh đạo (hoàn
toàn độc lập với Vatican)
2. Tự chủ về quản trị tài
chánh
3. Tự chủ về nhân sự và họat
động (không cần thừa sai và các tu sĩ nam nữ
ngoại quốc).
Ngày 4-9-1951,
chính phủ Trung quốc trục xuất khâm sứ Tòa thánh
Antonio Riberi, chính thức chấm dứt mọi quan hệ
ngoại giao với Vatican.
Năm 1955,
chính phủ Trung quốc trục xuất tất cả các tu sĩ ngoại
quốc (bao gồm 1/3 tổng số nữ tu, ½ tổng
số linh mục và 4/5 tổng số giám mục). Trong
biến cố này chúng ta cần đặc biệt lưu ý
đến Hội đồng Giám mục Trung quốc.
Hội đồng này được Vatican
thiết lập ngày 11-4-1946
gồm có 3/4 giám mục là người ngoại quốc và
chỉ có 1/5 là người Trung quốc mà thôi. Việc
trục xuất các giám mục ngoại quốc năm 1955
trong thực tế chính là sự giải tán Hội đồng
Giám mục Trung quốc do Vatican lập
nên. Kể từ 1955 đến 1958, chính phủ Trung
quốc tuyển chọn và phong chức cho 13 giám mục
mới không cần sự ưng thuận của Vatican.
Đến năm 1962, tổng số giám mục
được tấn phong lên tới 42 người.
Năm 1980, chính phủ Trung quốc chính thức lập ra
hai tổ chức cho giáo hội Công giáo:
1. Hội đồng Giám mục Trung quốc
chuyên lo việc đạo
2. Ủy ban Hành chánh Công giáo Trung quốc
đảm trách việc liên lạc giữa giáo hội Công
giáo với chính quyền.
Năm 1982,
Hiến pháp mới của Trung quốc có điều
khoản: “Trung quốc chống lại sự thống
trị của bên ngoài đối với các giáo hội trong
nước”.
Trong
đầu thập niên 1980, giáo hoàng John Paul II đã
nhiều lần lên tiếng “hòa giải’ với Trung
quốc, tuy nhiên chính quyền Trung quốc đã đáp
lại bằng “Văn bản số 3” của Hội
đồng Nhà nước trong tháng 2-1989 với tựa
đề “Chỉ thị của Đảng về cách
thế điều hành giáo hội Công giáo trong tình hình
mới” : Người Công giáo Trung quốc có thể nhìn
nhận giáo hoàng là thủ lãnh tinh thần của mình
nhưng tu sĩ và tín đồ Công giáo Trung quốc không
được phép trực tiếp liên hệ với Vatican
và giáo hội Trung quốc vẫn tiếp tục lựa
chọn và tấn phong các giám mục của mình. Giáo hội
Trung quốc không thể bị đặt dưới
quyền cai trị của bất cứ tổ chức hay
cá nhân nào ở ngoài Trung quốc. Trung quốc không chấp
nhận việc người nước ngoài thao túng
chủ quyền Trung quốc hặoc thực thi một hình
thức kiểm soát hành chánh nào trên lãnh thổ Trung quốc.
Đề nghị
một số biện pháp cụ thể để cứu
nguy dân tộc khỏi nạn Công giáo – Tin lành.
Biện pháp một: Trước hết, chúng
ta cần có một Tu chính Hiến Pháp xác định
chủ quyền quốc gia là chủ quyền tối
thượng. Mọi sự thống trị của bên ngoài
đối với giáo hội trong nước đều là
những hình thức xâm phạm chủ quyền tối thượng
của quốc gia. Giáo hội Công giáo VN và các tổ
chức “Hội thánh Tin lành” không thể bị đặt
dưới quyền cai trị hoặc khống chế
bời một tổ chức hay cá nhân nào ngoài Việt Nam.
Tu chính án
hiến pháp sẽ là một điều khoản luật
pháp tối cao như ngọn lửa hải đăng
hướng dẫn và điều chỉnh mọi văn
kiện luật pháp cũng như mọi định
chế của tôn giáo hay của chính phủ nầu không phù
hợp sẽ đều phải được
điều chỉnh lại. Tinh thần của Tu chính án
Hiến pháp nói trên sẽ được đưa
đến hệ quả trực tiếp là phải đưa
Giáo hội Công giáo VN ra khỏi sự thống trị
của Vatican như hiện nay để tiến tới
sự hình thành một “Giáo hội Công giáo VN Tự trị”.
Vatican là một tên đế quốc
đầu sỏ lâu đời nhất và nguy hiểm
nhất. Nó đã được giới học giả Tây
phương gọi là “Con Bạch tuộc của
Đức Chúa Trời” (Octopus Dei). Về thần quyền
nó là thủ đô tinh thần của gần một tỉ
thần dân là các tín đồ Công giáo trên khắp thế
giới. Về thế quyền, nó là một quốc gia
riêng biệt, có lãnh thổ riêng, quốc kỳ, quốc ca
riêng. Giáo hoàng là quốc trưởng đứng
đầu một nội các gồm có nhiều bộ.
Quốc gia Vatican có quan hện ngoại
giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới
trên cấp bậc đại sứ. Chúng ta nên theo
gương Trung quốc cắt đứt mọi liên
hệ ngoại giao với tên đế quốc đầu
sỏ này. Cái đầu của con Bạch tuộc
đế quốc ở tại Rome,
nhưng mỗi cái vòi của nó chính là giáo hội công giáo
tại mỗi quốc gia. Giáo hội Công giáo VN hiện nay
rất trung thành và tuyệt đối vâng lời Vatican.
Tập thể bảy triệu tín đồ Công giáo VN là
một cái vòi lớn của con Bạch tuộc Công giáo La mã
. Nói cách khác, đó chính là đạo quân thứ năm
của chủ nghĩa đế quốc nằm vùng
thường trực trong lòng dân tộc VN. Muốn bảo vệ sinh mạng
dân tộc, chúng ta không có cách nào khác hơn là phải cô
lập hoàn toàn tâp thể tín đồ Công giáo VN với Vatican.
Cần có một đạo luật xác định: không
một tu sĩ hay giáo dân nào được phép liên hệ
trực tiếp với Vatican (tương tự như
Văn bản số 3 của Hội đồng Nhà nước
Trung quốc tháng 2-1989). Về điểm này có một
điều đáng chú ý là tỉ số giáo dân Trung quốc
chỉ có 0.58% so với dân số cả nước.
Tại VN, tỉ số giáo dân Công giáo rất cao khoảng
7%, tức tỉ số giáo dân Vn cao gấp trên 10 lần
tỉ số giáo dân Trung quốc nhưng luật pháp
Việt Nam hiện nay gần như thả nổi
đối với Công giáo và Tin lành. Điều đó
chứng tỏ Việt Nam
chưa đánh giá đúng mức sự nguy hiểm của
con Bạch tuộc Công giáo La mã. Hiến pháp và luật pháp
của Trung quốc đối với Công giáo trong hơn
nửa thế kỷ qua thật sự là một tấm
gương sáng đáng cho chúng ta học hỏi.
Biện pháp hai: Việc cấp thiết
cần được thực hiện một cách kiên
quyết là giải tán Hội đồng Giám mục VN.
Hội đồng này được thành lập do Sắc
chỉ ngày 24-11-1960
của Giáo hoàng Gioan XXIII. Ngày 18-12-1960,
HĐGMVN và toàn bộ các thành viên chính phủ Việt Nam
Cộng hòa do Ngô đình Diệm lãnh đạo đã tổ
chức lễ tạ ơn Tòa thánh tại Vương cung
Thánh đường Sài gòn. Tại buồi lễ này,
Hội đồng Giám mục và chính phủ Diệm đã
long trọng làm lễ “Dâng Tổ quốc Việt Nam
cho Đức Mẹ Maria”.
Trong thực tế bè lũ Việt gian vong bản
đã dâng tổ quốc Việt Nam
cho đế quốc Vatican!
Hội
đồng Giám mục hiện nay gồm các hồng y,
tổng giám mục và giám mục do Vatican
tuyển chọn kỹ càng. Hội đồng này là cơ
quan lãnh đạo đầu não của giáo hội Công giáo
VN, đồng thời cũng là ban tham mưu tối cao
của đạo quân thứ năm nằm vùng trong
nước, luôn luôn sẵn sàng tuân hành mọi chỉ
thị phát ra từ Vatican.
Muốn vô hiệu hóa cái vòi xâm lược
của con Bạch tuộc vatican, việc cần thiết
phải thực hiện là giải tán Hội đồng
Giám mục VN. Tất cả các hồng y, tổng giám
mục và giám mục đều phải bị cưỡng
bách cởi bỏ áo dòng để trở về cuộc
sống thế tục. Toàn bộ tài sản và cơ sở
của các giám mục phải được tịch thu.
Tất cả các hồng y, tổng giám mục và giám mục
hoàn tục có thể làm lễ trong phòng riêng một mình
nhưng không được phép làm lễ cho giáo dân coi.
Giải tán
Hội đồng Giám mục là bước đầu tiên
phải có trước khi tiến tới việc thành
lập Giáo hội Công giáo VN tự trị. Nói cách khác, Giáo
hội Công giáo Việt Nam
tự trị sẽ trở nên vô nghĩa khi Hội
đồng Giám mục do Vatican lập nên
vẫn còn tồn tại và vẫn tiếp tục lãnh
đạo giáo hội.
Giải tán Hội đồng Giám mục chính là
một hành động thực tiễn phá bỏ cái mắt
xích trọng yếu trong guồng máy xâm lược của Vatican
để bảo tồn sinh mạng dân tộc Việt Nam.
Giáo hội
Công giáo VN từ xưa đến nay chưa bao giờ
từ bỏ truyền thống phản quốc cố
hữu của họ. Đúng như hai tác giả Nhật Nam
và Hồng Hà LTV nhận xét trong các bài tham luận nói trên :
“Bảy triệu tín đồ Công giáo là một loại ung
thư cực kỳ nguy hiểm trên cơ thể quốc
gia, do đó cần phải tìm cách cô lập chặt chẽ
để giời hạn tối đa sức bành trướng
của nó”. Đúng vậy, nếu không có phương cách
ngăn chận sự bành trướng của căn
bệnh ung thư Công giáo và Tin lành thì căn bệnh nguy
hiểm này có thể gây tử vong cho Tổ quốc
Việt Nam.
Phương cách tốt nhất để cô
lập hóa giáo hội Công giáo VN với Vatican
gồm có hai bước:
- Bước thứ nhất là giải tán
Hội đồng Giám mục hiện nay.
- Bước thứ hai là mỗi giáo phận
Công giáo sẽ triệu tập một hội nghị các
linh mục trong giáo phận để tuyển chọn
một tân giám mục thay thế giám mục trước
đây do Vatican bổ nhiệm. Khi các
địa phận đã bầu xong các tân giám mục, chúng
ta sẽ có một Hội đồng Giám mục mới
của một Giáo hội Công giáo VN tự trị. Việc
điều hành giáo hội của Hội đồng Giám
mục này ra sao và các sinh hoạt của giáo hội tự
trị như thế nào v.v.... thiết tưởng về
những vấn đề này chúng ta có thể học
hỏi nhiều điều cụ thể và hữu ích
từ những bài học kinh nghiệm quí giá của Trung
quốc.
Đối với Tin lành, biện pháp cần
thiết để ngăn chận sức bành trướng
của nó là phải ngăn chận sự xâm nhập
của bọn truyền giáo. Về điểm này, chúng ta
có thể áp dụng những biện pháp của Do thái và Nam
dương :
- Năm 1978, quốc hội và chính phủ Do
thái đã ban hành đạo luật “Chống Truyền giáo”
(Anti-Missionary Law). Luật này
qui định mọi cuộc truyền đạo Kitô
tại Do thái là bất hợp pháp. Người truyền
giáo sẽ bị phạt 5 năm tù và bị phạt
tiền tương đương 3.200 Mỹ kim.
- Tại Nam dương, luật pháp buộc
mọi người truyền giáo nhập cảnh Nam
dương phải khai báo nghề nghiệp của mình.
Nếu khai nghề nghiệp truyền giáo thì Sở
Ngoại vụ Nam
dương cho phép họ được lưu trú tối
đa 6 tháng. Trong trường hợp không khai báo mà hành
nghề truyền giáo tại Nam
dương bất hợp pháp, người vi phạm
sẽ bị án tù hoặc trục xuất.
Biện Pháp ba: Cần đặt nặng
vấn đề giáo dục để cải hóa 7
triệu tín đồ Công giáo VN nhằm giúp họ phản
tỉnh trở về với dân tộc.
Đây là
một công tác có ý nghĩa hết sức cao cả và
đầy tính nhân đạo vì công tác này được
xử dụng để thay thế cho biện pháp tiêu
diệt đẫm máu. Tuy nhiên, giáo dục để
cải hóa 7 triệu tín đồ Công giáo không phải là
việc đơn giản. Công tác này đòi hỏi chính
quyền phải sáng suốt và có quyết tâm cao,
đồng thời cần có sự cộng tác của
mọi tầng lớp nhân dân, nhất là giới trí
thức yêu nước, bằng cách đóng góp công sức và
những sản phẩm tim óc của mình vào công cuộc giáo
dục này.
Muốn cho
công cuộc giáo dục đạt hiệu quả cao, chính
quyền cần ban hành một số văn bản luật
pháp để loại bỏ những hiện tượng
tiêu cực còn tồn đọng:
1. Loại
bỏ những bài kinh nguyện (prayers) có nội dung
phản quốc như “Kính dân đất nước
Việt Nam cho Trái tim Chúa”, “Kinh cầu cho kẻ ngoại”
hoặc có nội dung nhục mạ Phật giáo như “Kinh
cầu ông Thánh Phanxicô” hoặc nhục mạ 92% dân tộc
Việt Nam không-Công-giáo-La-mã: “Kẻ dữ là kẻ
chẳng có đạo” (Kinh
Bổn).
2. Chấm
dứt tình trạng thả lỏng hiện nay để
cho các tu sĩ Công giáo tự do thuyết giảng ở nhà
thờ. Hiện tượng này có thể sẽ vô hiệu
hóa mọi kết quả của công tác giáo dục. Cần
có điều luật buộc mọi tu sĩ phải
nạp bản thuyết giảng cho cơ quan hữu trách
trước vài ngày thuyết giảng và chỉ
được phép nói với giáo dân những điều đã
được cho phép mà thôi.
3. Chấm
dứt các lễ hội lớn được tổ
chức trên qui mô toàn quốc như “Lễ hội La vang”
năm 1998. Các lễ hội này thực chất chỉ là
những cuộc xuống đường trá hình để
biểu dương lực lượng và uy hiếp chính
quyền. Tác dụng tiệu cực của các lễ
hội này là lòng mê tín của quần chúng tín đồ
được kích thích cao độ.
4. Các tu sĩ
Công giáo và các người truyền giáo Tin lành phải
bị cấm dạy học hoặc mở trường
học.
5. Đóng
cửa các dòng tu nam nữ vì sự tồn tại của
các dòng tu này là những cản trở lớn cho sự giáo
dục. Hầu hết các dòng tu đều có nhiệm
vụ chính yếu là truyền giáo nhưng mỗi dòng tu
đều có một tôn chỉ riêng và phương cách
truyền đạo riêng. Các dòng tu nam quan trọng là dòng Tên
(Dominician / Nhà thờ Ba Chuông), dòng Chúa Cứu Thế, dòng
Đồng Công, dòng Phanxicô, Antôn, Don Bosco, Phước Sơn... Các dong nữ tu quan trọng là dòng
Mến Thánh Giá, dòng Saint Paul,
dòng Tu Kín....
Toàn bộ công cuộc giáo dục cần
phải qui hoặch để đạt được 3
mục tiêu sau đây:
- Mục tiêu thứ nhất: Xét theo bề ngoài thì 7 triệu
đồng bào Công giáo không khác gì với những
người Việt Nam
bình thường khác. Nhưng thật sự 7 triệu
người Công giáo hiện đang sống trong tình
trạng hết sức mọi rợ về tâm linh.
Trước hết, họ luôn luôn mang tâm cảm là một
bày súc vật thuộc quyền chăn dắt tuyệt
đối của các vị chủ chăn ở Vatican.
Người Công giáo thường hay kết án chính quyền
Việt Nam
vi phạm nhân quyền, nhưng trong thực tế chính
họ đã tự rứt bỏ quyền làm người
của họ để xin được làm một bày súc
vật của ngoại bang. Trong kinh ‘Dâng cõi Đông
Dương cho Đức Nữ Đồng Trinh Maria’ có
câu: “Vì công nghiệp Đức Mẹ chuyển cần, xin
cho dân cõi Đông Dương nhờ có máu châu báu của con
Đức Mẹ đã đổ ra mà cứu chuộc,
thảy đều nên một ràn cùng một kẻ chăn”
(kinh Nhựt khóa trang 172). Danh từ “một ràn” trong bài kinh
có nghĩa là một bày súc vật (cừu non / con chiên) và
danh từ “một kẻ chăn” chính là giáo hoàng ở Rome!
Trong các sách kinh Công giáo không thiếu gì những lời kinh
tương tự, hậu quả tai hại là Giáo hội
Công giáo VN đã tự biến mình thành một giáo hội
súc vật hèn hạ. Cho nên, mục tiêu thứ nhất
của công cuộc giáo dục phải đạt tới là
giải cứu bảy triệu đồng bào Công giáo thóat
khỏi cái “mặc cảm súc vật” để từ
đó họ tự khôi phục nhân phẩm và quyền làm
người của chính họ. Sự giáo dục tạo
cơ hội cho người Công giáo trải qua một quá
trình khó khăn nhất là quá trình tiến từ súc vật
trở thành người (human being)!
- Mục tiêu thứ hai: Người Công giáo có một thói
tật rất xấu xa và ngu xuẩn, đó chính là thói
tật thích “ăn thịt uống máu Chúa!” Dù chỉ là ăn thịt uống
máu tưởng tượng một cách ngớ ngẩn qua
cái nghi lễ quái đản được gọi là “Phép
bí tích Mình Thánh Chúa”, nhưng trong đáy sâu tâm hồn họ
đích thực là một lũ mọi ăn thịt
người (Cannibals). Dù bề ngoài, người Công giáo có
thể có dáng vẻ học thức văn minh sang trọng,
nhưng xét về bản chất tâm linh họ vẫn là
những tên mọi ăn thịt người man rợ
thuộc thời kỳ bán khai của dòng tiến hóa nhân
loại. Công cuộc giáo dục phải đạt tới
mục tiêu cải biến bảy triệu tên “mọi
ăn thịt người” trở thành bảy triệu người
bình thường.
- Mục tiêu thứ ba: Trong sách “Thực
chất đạo Công giáo và các đạo Chúa” do GĐ
xuất bản Xuân 2003, trong chương 5 phần I,
dưới tựa đề “Vai trò Chính quyền trong
tương quan Công giáo – Dân tộc” (50 trang) tôi đã trình
bày cặn kẽ hai vấn đề:
1.
Người Công giáo không thể cùng một lúc vừa trung
thành với Vatican vừa trung thành với
Tổ quốc. Bất cứ một tín đồ nào trung thành
với Vatican đều đương
nhiên trở thành kẻ phản quốc. Đây là một
sự thật hiển nhiên có thể được
kiểm chứng dễ dàng bằng lịch sử thế
giới và bằng lịch sử Việt Nam.
2. Bất
cứ ai có lòng yêu nước thật sự và có tinh
thần tự trọng dân tộc đều không thể
chấp nhận sự cai trị của Vatican
đối với một thành phần dân tộc Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh từ xưa
đến nay cộng đồng Công giáo VN luôn luôn hành
động nhằm phục vụ “nước Chúa” Vatican
và hoàn toàn đi ngược lại quyền lợi của
dân tộc. Có thể nói, giáo hội Công giáo VN là một
tập thể Việt gian lớn nhất trong lịch
sử dân tộc và có truyền thống phản quốc lâu
đời nhất từ trước đến nay.
Mục tiêu
thứ ba của công cuộc giáo dục là phải nhằm
cải tạo tư tưởng để biến bảy
triệu tên Việt gian nằm vùng hiện nay trở thành
bảy triệu công dân lương thiện trong lòng dân
tộc.
Trong hiện
tại, giáo hội Công giáo VN vẫn thống thuộc
sự lãnh đạo của Vatican thông qua Hội
đồng Giám mục do chính bọn chúng tuyển chọn
và phong chức. Giáo hội Công giáo VN hiện nay vẫn
giữ nguyên vẹn các đặc tính cố hữu là
một giáo hội súc vật, một bộ lạc của
lũ mọi ăn thịt người và vẫn là bảy
triệu tên Việt gian chính hiệu nằm vùng trong
đạo quân thứ năm của chủ nghĩa
đế quốc.
Tôi rất
ngạc nhiên trước sự liện mới đây nhà
nước VN cho phép Công giáo tổ chức “Đại
hội những người Công giáo VN xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Trong khi đó Tổng Giám mục
Mẫn vẫn ca ngợi nền thần học dối trá
bịp bợm của Công giáo và vẫn xác nhận thái
độ của Công giáo VN là “quên mình trong vâng phục Vatican”! Bảy triệu người Công
giáo hiện nay chưa được giáo dục và chưa
được chuẩn bị tâm tư đầy
đủ để tham gia công cuộc “xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Tôi đề nghị chính
quyền VN hãy tạm thời hủy bỏ “Đại
hội những người Công giáo VN xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Hoàn
cảnh thích hợp nhất để tổ chức
những đại hội này chỉ có thể có sau khi
Hội đồng Giám mục VN hiện nay bị giải
tán để hình thành Giáo hội Công giáo VN Tự trị.
Biện pháp bốn: Nhằm mục tiêu
hạn chế tối đa sức bành trướng
của giáo hội Công giáo hiện nay và để thúc
đẩy nhanh việc thành lập Giáo hội Công giáo VN
tự trị, chính quyền cần sớm ban hành quyết
định tịch thu toàn bộ tài sản của giáo hội
Công giáo.
Sau khi
Hội đồng Giám mục hiện hữu đã bị
giải tán, chính quyền sẽ dần dần trả
lại tài sản cho “Giáo hội Công giáo VN tự trị”
chiếu theo các nhu cầu chính đáng của từng giáo
xứ hoặc tùy theo các sinh hoạt cần thiết
của giáo hội.
Tuy nhiên,
đối với các tài sản của giáo hội có
nguồn gốc thủ đắc bất chính hoặc
đã là cơ sở gây tội ác đối với dân
tộc thì cần phải được tịch thu
vĩnh viễn, không hoàn trả. Trong số các nhà thờ
nổi tiếng như nhà thờ Lớn Hà nội, nhà
thờ Đức Bà Sài gòn và nhà thờ La vang đều là những tài
sản ăn cướp của nhà chùa Phật giáo từ
cuối thế kỷ 19. Tên Huyện Sĩ dựa vào thế
lực của Pháp cướp đất của
đồng bào miền Nam
trở thành đại điền chủ hết sức
giàu có. Tên Việt gian Công giáo này đã dùng một phần
tài sản ăn cướp đi xây nhà thờ Huyện
Sĩ. Do đó, nhà thờ Huyện Sĩ cần
được tịch thu để biến thành một
cơ sở phục vụ công ích, chẳng hạn như
biến nhà thờ Huyện Sĩ thành một viện
bảo tàng triển lãm tội ác của Công giáo từ
xưa đến nay.
Nhà thờ
Phát Diệm là sào huyệt của bọn Việt gian
trải qua nhiều thế hệ: khởi đầu
từ Trần Lục, qua Nguyễn bá Tòng, Lê hữu Từ
đến Hoàng Quỳnh. Chính quyền nên tịch thu nhà
thờ Phát Diệm như một hình thức trừng
phạt bọn Việt gian này.
Tất cả
những điều trình bày ở trên đây chỉ là
những ý kiến cá nhân, chắc chắn không thể tránh
khỏi nhiều thiếu sót do chủ quan và do sự
hiểu biết hạn hẹp của người
viết. Rất mong nhận được sự chỉ
giáo của các bậc thức giả cùng có nỗi ưu
tư về quốc nạn Công giáo - Tin lành. Tôi xin chân thành
cảm tạ.
Charlie Nguyễn
Tháng 4.2003