Trở Lại Vấn Đề: Alexandre de Rhôdes và Chữ Quốc Ngữ
(Riêng tặng tập thể Thánh Gia Ninh Cường -
Bùi Chu)
Charlie Nguyễn
Mấy
điều sơ lược về lịch sử chữ
viết và nguồn gốc chữ quốc ngữ
Các nhà nhân chủng học cho biết loài người
đứng thẳng (homo erectus) đã có mặt trên trái đất
từ 2 triệu năm trước. Loài người khôn
ngoan (homo sapiens) mới xuất hiện 160 ngàn năm và tiến
hóa thành loài người chúng ta hiện đại. Chắc
chắn là loài người khôn ngoan (homo sapiens) đã biết
dùng tiếng nói để thông tin với nhau từ nhiều
chục ngàn năm trước,
nhưng
chữ viết của loài người thì chỉ mới được
phát minh cách đây hơn 5000 năm mà thôi.
Theo các nhà khảo cổ thì chữ viết đầu
tiên của loài người là chữ viết của dân tộc
Sumer ở Babylon (phía nam Iraq ngày nay) được phát minh năm
3150 TCN , tức cách đây 5153
năm. Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra
loại chữ tượng hình (pictographic / giống như
chữ Hán) nhưng họ chỉ dùng loại chữ này một
thời gian ngắn rồi bỏ đi vì loại chữ này
bất tiện, khó nhớ, học chữ nào biết chữ
đó nên mất rất nhiều thời gian học đọc
và học viết. Họ sáng chế ra 18 ký hiệu thay cho
18 âm căn bản, rồi dùng các ký hiệu đó để
ghi âm cho mọi tiếng khác. Các ký hiệu này trông giống
như nêm cối (cunei) nên họ gọi loại chữ này
là cuneiform (chữ viết hình
nêm cối). Sự xuất hiện
loại chữ Cuneiform năm 3150 TCN trở thành một dấu
mốc quan trọng của lịch sử nhân loại, bởi
vì tất cả những gì xảy ra trước năm
3150 TCN đều được gọi là thời tiền
sử (prehistoric). Những người viết sử
Sumerians là những người viết sử đầu tiên
trên thế giới. Các tu sĩ Sumerians thu thập các chuyện
thần thoại dân gian, viết thành sách, trong đó có các
chuyện về Vườn Địa Đàng Gan-Eden (Archeology in the Land of the Bible –
Abraham Negrey Shoken Books, NY 1977). .Trong
nhiều thế kỷ trước Công nguyên, chữ
Cuneiform và ngôn ngữ Sumerian trở thành ngôn ngữ giao
dịch trong toàn vùng Trung Đông và Cận Đông, nền
văn hóa của dân tộc Sumer được nhiều dân
tộc quanh vùng theo Điển
hình là đạo thờ bò El (Elohim) của Abraham (sinh trưởng
tại UR thuộc Babylon) trở nên một tôn giáo phổ biến
ở Do Thái và các nước Ả Rập. Câu chuyện thần
thoại Vườn Địa Đàng của người
Sumer trở thành rường cột của đạo Kitô
và từ đó phát sinh ra lý thuyết về Tội Tổ Tông,
về ơn cứu chuộc của chúa Kitô, về tín điều
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, vân vân và vân vân…Chuyện
thần thoại Tamuz của Babylon là cha đẻ ra ý niệm
về Chúa Cứu Thế của đạo Kitô (Babylon
Mystery Religion – Ancient and Modern – Ralph Woodrow Evangelistic Association
– Riverside, CA). Sự phát minh ra
chữ viết là một biến cố vô cùng quan trọng
trong lịch sử văn hóa nhân loại. Chữ viết là
phương tiện chuyển tải phổ biến tư
tường tới mọi người và lưu truyền
tư tưởng qua nhiều ngàn năm. Nếu không có chữ
viết, loài người sẽ không có lịch sử, không
có văn hóa, không có triết học, khoa học, không có tiến
bộ và thế giới ngày nay hoàn toàn khác ! Hơn 14 thế kỷ sau, đến
đời nhà Thang (1700 TCN), người Trung Hoa phát minh ra chữ
viết tượng hình, hình tròn, sau đó được đổi
sang hình vuông và được hoàn chỉnh (thành chữ viết
thông dụng ngày nay) trong thời nhà Hán (206 TCN – 220 sau CN), do đó được
gọi là chữ Hán (Hán tự)
Năm 1600 TCN, người Hy Lạp phát minh
ra một hệ thống ký hiệu ghi âm (a phonetic system of
writing). Một thế kỳ sau, vào năm 1500 TCN, người
Latinh (tức người La Mả cổ) mô phỏng ký hiệu
ghi âm của Hy Lạp để sáng chế ra mẫu tự A,B,C,D,… (ta gọi là mẫu tự
la tinh).
Những
người đầu tiên có ý nghĩ la-tinh-hóa ngôn ngữ
Á châu (gồm có tiếng Nhật, tiếng Tàu và tiếng
Việt) là các tu sỉ dòng Tên (Jesuists) Bồ Đào Nha giảng
đạo tại Á châu trong thề kỷ 17. Đây là một
sự thật lịch sử hiển nhiên mà hầu như
các nhà nghiên cứu văn hóa và giáo hội Công giáo Việt
Nam, cũng như các giới chức thực dân Pháp (trước
1945) đã vô tình hay cố ý bỏ quên để chỉ đề
cao một mình Alexandre de Rhôde như vị thánh tổ duy nhất
đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó sưu tầm
các tài liệu còn lưu trữ tại văn khố Dòng Tên
tại La Mã, Madrid, Lisbone (“Nguồn
Gốc Chữ Quốc Ngữ” – trang 21 của Huỳnh Ái Tông
– so sánh các bản lưu trữ mới thấy Alexandre de Rhôde
chưa định chuẩn được cách phiên âm tiếng
Việt. Các tài liệu khác của các bậc thầy Bồ
Đào Nha của Alexandre de Rhôde như Christoforo Baris, Jao Ruiz,
Gaspa Louis, Antonio de Fontes, Gasparo d’Amiral mới thấy phiên âm
tiếng Việt của họ đã định chuẩn
như chúng ta viết ngày nay – www.saomai.org).
Như vậy, việc
tôn vinh Alexandre de Rhôde lên tận mây xanh hoàn toàn là một chuyện
thần thoại hoang đường. Chữ quốc ngữ
Việt Nam
cũng không phải là chữ duy nhất “la tinh hóa” tại Á
Châu ngày nay. Chữ Mã Lai và Indonesia
(Nam Dương) cũng được La Tinh hóa trong thời
kỳ thuộc địa. Tiếng Tagalog là một trong 168
ngôn ngữ của người Phi Luật Tân đã được
la-tinh-hóa. Điều đáng
chú ý là các chữ quốc ngữ la-tinh-hóa của
Mã
Lai, Nam Dương
và Tagalog đều không có dấu rắc rối như chữ
quốc ngữ của ta.
Vấn đề chữ quốc ngữ Việt
Nam, các nhà văn
hóa Việt Nam
thực sự chưa thống nhất quan điểm xác nhận ai là tác giả đã phát
minh ra nó. Ngoài ra còn một vấn đề khác không kém quan
trọng, đó là: chữ quốc ngữ là một món quà tặng
của ngoại nhân cho dân tộc Việt Nam
hay chỉ là một chiến lợi phẩm do ta tịch
thu của địch ?
Tôi đã viết bài bày tỏ ý kiến của
tôi về những vấn đề trên dưới tựa
đề “Dòng Tên, thánh Phanxico
Xavier, cố đạo Đắc Lộ và chữ Quốc
Ngữ”, tức chương 2, phần III trong cuốn
“Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn
– Giao Điểm xuất bản Hè 2001 (trang 297-320). Phần
cuối của bài viết này (từ đoạn viết về
Phanxico Xavier) đã được đăng trong cuốn
“Alexandre de Rhôde, người đầu tiên vận động
Pháp chiếm Việt Nam
và chữ Quốc Ngữ” gồm 9 tác giả - Giao Điểm
xuất bản năm 1998 (trang 160-166).
Tôi thiết nghĩ những điều trình
bày trong các bài viết trên đã biểu lộ trọn vẹn
quan điểm của tôi về chữ quốc ngữ, nên
tôi tự thấy không còn điều gì để nói thêm về
vấn đề này nữa. Tuy nhiên, gần đây có hai sự
việc vừa mới xuất hiện trong giới gọi
là “trí thức” Việt Nam làm tôi phải buộc lòng trở
lại với vấn đề “Alexandre de Rhôde và chữ Quốc
Ngữ”:
I.- Vấn đề thứ
Nhất : Phải chăng
các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Tống Nho là những
người có công lớn với văn hóa Việt Nam ?
Houston, thành thố lớn thứ tư tại
Hoa Kỳ, với trên 100 ngàn người Việt định
cư, ngày 15 tháng 6 năm 2003 vừa qua, tại nhà hàng Ocean
Palace, một tổ chức mệnh danh là “Trung Tâm Văn Hóa
Việt Nam – Houston” long trọng tổ chức buổi lễ
“VINH QUI” theo nghi lễ cổ
truyền Việt Nam, để vinh danh 58 sinh viên nam nữ
Việt Nam cư ngụ tại Houston đã tốt nghiệp
trong năm 2003 tại các trường đại học Mỹ
( gồm đủ các phân khoa các ngành và thuộc các trường
đại học ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ).
Điểm danh 58 tân khoa có hình in trên từng
trang của tập kỷ yếu “VINH QUI – Vietnamese Traditional Ceremony Honoring Graduates 2003”
(dày 114 trang khổ lớn, in trên giấy láng đẹp ngày
15-6-2003), tôi nhận thấy phần lớn là những thanh
niên nam nữ trẻ tuổi, nét mặt khôi ngô rạng rỡ
tươi vui với tinh thần lạc quan hướng về
tương lai. Phần lớn họ đã tốt nghiệp
thành bác sĩ y khoa, tiến sĩ dược khoa, kỹ sư
các ngành, tiến sĩ âm nhạc. tiến sĩ sinh vật
học, tiến sĩ sử học,… Nhiều người
khác đậu bằng BBS, BBA về quản trị tài chánh,
ngân hàng, v.v…
Nói chung, họ là những người đáng
được cộng đồng chúng ta vinh danh. Tuy nhiên, trong số họ có một
tên bất xứng lộn sòng không đáng vinh danh chút nào, đó
là tên linh mục Đỗ Văn Lực, tốt nghiệp
tiến sĩ thần học (PhD of Theology – 2003 - tại trường
Houston Graduate School of Theology).
Tên Đỗ Văn Lực hiện đang hành
nghề linh mục tại giáo xứ Đức Mẹ La
Vang tại Houston. Thần
học Công Giáo một môn học đáng khinh bỉ dựa
trên một thần thuyết loạn luân cực kỳ ngu
xuẩn, phản khoa học. Vậy việc vinh danh tên linh
mục “tiến sĩ thần học” Đỗ Văn Lực
thuộc giáo xứ La Vang trong lễ Vinh Qui ngày 15-6-2003 vừa
qua của TTVHVN-Houston phải được coi là một sự
lầm lẫn đáng tiếc. Đó
là một vết đen văn hóa của cái tổ chức
tự xưng là TTVHVN-Houston, nhưng thật sự nó đang
nhằm phá hoại văn hóa Việt Nam.
Hành vi phá hoại văn hóa Việt Nam
thứ hai là thuyết trình viên của TTVHVN-Houston đã nhắc
đi nhắc lại nhiều lần trong buổi lễ là:
“Các giáo sĩ thừa sai và các học
sĩ Nho học là những người có công với văn
hóa Việt Nam !!!”
A.- Các giáo
sĩ thừa sai là ai ? TTVHVN-Houston hết lời ca ngợi
những giáo sĩ thừa sai dã sáng tạo ra chữ quốc
ngữ. Thật sự qúi vị đã nghiên cứu về
chữ quốc ngữ rất phiến diện. Qúi vị đã
không suy xét rốt ráo về tội
ác của bọn giáo sĩ thừa sai là phá hủy văn hóa
cổ truyền Việt Nam để thay bằng văn hóa
Công giáo độc tôn. Linh mục Trần Thái Đỉnh
đã đưa ra một nhận định rất sáng suốt
như sau: “Tiêu diệt các tôn giáo khác để tôn giáo mình độc
trị, tiêu diệt văn hóa bản địa cho văn hóa
Công giáo độc diễn, tiêu diệt sinh lực của các
dân tộc chậm tiến để các thế lực đế
quốc thực dân xâm lăng. Đó là truyền thống của
Vatican” (Xin đọc
“Cái nhìn về Phật Giáo trong Phép Giảng Tám Ngày” – Kitô giáo
từ thực chất đến huyền thoại - nhiều
tác giả, nxb Văn Hóa – USA 1996)
Nghiên cứu lịch sử thế giới, học
giả Mac Kher đã viết : “Sự tiến tới của
Kitô giáo tại Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và phần lớn Phi
Châu luôn luôn dẫn tới sự
tiêu diệt hoàn toàn các tôn giáo đa thần và các nền văn
hóa tiền-kitô” (The advent of Christianity in Europe, America,
Australia and large parts of Africa always led to the elimination of the
pre-Christian polytheistic religions and cultures)
Bọn truyền giáo Tây Ba Nha là thủ phạm
tiêu diệt các nền văn hóa Aztec, Inca của người
Da Đỏ tại Mỹ Châu trong thế kỷ 16 và 17.
Tội ác lớn nhất về văn hóa của
giáo hội Công giáo La Mã là đã hủy
diệt toàn bộ các sách khoa học, triết học, toán học
rất tiến bộ của Hy Lạp trong các thế kỷ
3~5 khiến cho nền văn minh của nhân loại bị
lùi lại 10 thế kỷ (Deceptions and Myths of the Bible – by
Lloyd Graham – A Citadel Press Book 1991 - pp. 294, 448, 450).
Riêng đối với
lịch sử Việt Nam, Alexandre de Rhôde phải được
coi là kẻ thù số một vì chính y là kẻ đầu tiên
có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là
người đầu tiên vận động Pháp chiếm
Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy, tác giả cuốn
“Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội
năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong
việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa
giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng
kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người
Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương
– pages 16-17. (“Sự Du Nhập
đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến
thế kỷ 19” của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm
- Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam – Hà Nội
2000 – trang 123). Phê bình về Alexandre de Rhôde và các giáo sĩ thừa
sai, giáo sư Kiệm (sách dẫn chiếu, trang 300-301) viết:
“Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, dẵ
gây nên một cú sốc lớn đối với đời
sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm băng
hoại nền tảng của cộng đồng. Họ
mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo
là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bầt cứ tôn giáo nào khác
…. Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa
đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch
để thay thế bằng Cơ Đốc giáo. Sự cấm đạo của
nhà cầm quyền Việt Nam và tâm lý bất hòa giữa lương
giáo trong dân chúng còn kéo dài đến ngày nay chính là những
phản ứng tất nhiên chống lại sự xúc phạm
đó và đồng thời là một hành động tự
vệ chính đáng của một dân tộc đã có một
nền văn hóa định hình và một ý thức tự
tôn dân tộc cao.
Trên đây chỉ là mấy nét đại cương về tội ác của bọn giáo
sĩ Tây phương đối với dân tộc Việt Nam
nói chung, và đối với văn hóa của dân tộc ta
nói riêng. Xin đọc thêm tác phẩm “Alexandre de Rhôde, người
đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và
chữ Quốc Ngữ” 9 tác giả - Gia Điểm xuất
bản 1998 – và bài viết “Hồ Sơ Tội Ác của hội
Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch
sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19”
của Charlie Nguyễn - tháng 8, 2003 (www.giaodiem.com).
B.- Các Học Sĩ
là ai ? Học sĩ là những
người đỗ đạt những bằng cấp
Hán học ngày xưa tại nước ta, thịnh hành từ
đời Hậu Lê (1428-1527). Kể tử thời Hậu
Lê, chính sách của triều đình Việt Nam là loại bỏ
tinh thần “tam giáo” để chỉ đề cao vai trò độc
tôn của Nho giáo và Hán học mà thôi. Do chính sách đó, xã hội
Việt Nam
xuất hiện một giai cấp trí thức Hán học được
gọi là Học sĩ. Họ trở thành những phần
tử trí thức với tinh thần vọng ngoại, luôn
luôn coi các bậc thầy Trung Quốc là những khuôn vàng thước
ngọc cho mọi vấn đề trong cuốc sống của
họ. Từ tinh thần vọng ngoại, họ rất dễ
dàng trở thành những kẻ “ỷ ngoại”, thích dựa
vào sức mạnh của ngoại bang và cuối cùng họ
đã đi theo giặc phản bội tổ quốc (trường
hợp Lê Chiêu Thống). Chính sách sai lầm về văn hóa
của thời Hậu Lê đã mau chóng đưa dân tộc
ta đến chỗ suy tàn. Đó chính là quốc nạn “Trịnh
Nguyễn phân tranh” kéo dài 259 năm (1527-1786) đưa đất
nước đến gần thảm họa diệt vong với
bao cảnh điêu linh loạn lạc, với núi xương
sông máu của thảm cảnh nồi da sáo thịt.
Giới học sĩ Tống nho tiếp tục
là một giai cấp trí thức rường cột của
các triều đình nhà Nguyễn. Chế độ độc
tài văn hóa và tư tưởng giáo điều gò bó của
tầng lớp học sĩ thống trị xã hội Việt
Nam từ thời
Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức
cho đến Bảo Đại. Chính sách này đã tạo
ra những bọn “học sĩ bán nước” như cha
con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm. Họ đều
là những quan đại thần của nhà Nguyễn rất
nặng đầu óc Tống nho cổ hủ, lại cộng
thêm tinh thần giáo điều độc tôn của Công giáo
thời Trung Cổ. Cho nên chính sách của Diệm (1954-1963)
là chính sách độc tài, phi nhân và phi dân tộc.
Tinh thần học
sĩ Tống Nho là tinh thần nô lệ tư tưởng
ngoại lai. Từ “vọng ngoại” đến “sợ ngoại”
và cuối cùng là đem mạng sống toàn dân trao cho ngoại
bang. Ngày 18-12-1960, Hội đồng
Giám mục Việt Nam và toàn thể chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm cầm đầu đã
long trọng tổ chức Lễ “Dâng Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Đức Mẹ”, thực chất là dâng tổ
quốc Việt Nam cho Vatican, con bạch tuộc của chủ
nghĩa Đế Quốc Tinh Thần. Một việc làm
thật ngu xuẩn của nhà Ngô và Hội đồng Giám mục
Việt Nam, mặc dầu họ biết rõ là hơn 90% dân
chúng không theo tôn giáo của họ.
Ngày nay, ông Nguyễn Trần Qúi, tổng thư
ký và nhóm chủ trương “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam”
(gồm 13 người tại Houston) đã lưu manh núp dưới
danh nghĩa Văn Hóa Việt Nam để phá hoại Văn
Hóa Việt Nam bằng cách đầu độc tinh thần
giới trẻ Việt Nam trong buổi lễ Vinh Qui vừa
qua bằng cách gieo vào đầu óc họ cái ý tưởng
sai lầm nguy hiểm: “Giáo sĩ thừa sai và học sĩ
Tống Nho là những người có công với văn hóa Việt
Nam”. Điều đáng buồn là trong danh sách Ban Cố Vấn
của TTVHVN-Houston có tên: bác sĩ Hoàng Xuân Chỉnh, cựu
giáo sư Đại Học Y Khoa Saigon và Huế; giáo sư
Mai Văn Lễ, cựu giáo sư Đại Học Luật
Khoa Saigon và Huế; nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cựu giáo
sư Đại Học Văn Khoa Saigon.
Qúi vị đều là những khuôn mặt văn
hóa nổi tiếng tại Việt Nam
trước 1975 và tại hải ngoại sau này. Nhưng điều
đáng tiếc là qúi vị đã vì cả nể nên đã bị
đám học trò bất lương lợi dụng danh nghĩa
qúi vị và đem qúi vị ra làm bình phong che đậy hành
động bất chính của chúng.
Tôi cũng tự hỏi: Phải chăng ông
Tổng Thư Ký Nguyễn Trần Qúi và đa số trong thành
phần của nhóm chủ trương là những tín đồ
Công giáo cuồng tín … nên mới có những hành động
phá hoại văn hóa Việt Nam
một cách mù quáng như vậy. Thật đáng tiếc !
II.- Vấn đề
kế tiếp : Phải chăng
chữ Quốc Ngữ là sự đóng góp vô cùng lớn lao
của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho
dân tộc Việt Nam và
chúng ta phải biết ơn GHCGVN là người đã sáng
tạo ra nó ?
Trong “Thánh Gia Bản Tin” số 41 và trên trang nhà
của Tập Thể Thánh Gia (www.angelfire.com/rnb/thanhgia)
có đăng bài “Cảm Ơn Chữ Quốc Ngữ” của
một thành viên Thánh Gia là anh Nguyễn Dương An ở
Việt Nam. Nguyên văn như sau :
Cảm
ơn chữ Quốc Ngữ !
Tôi
đã đọc nhiều tài liệu chống
đối và bài bác Giáo Hội Công Giáo VN, và gần
đây, tôi cũng đọc được những bài
như vậy trên trang web của Giao Ðiểm. Theo các tác
giả đó, Giáo Hội Công Giáo VN không đem lại cho dân
tộc VN một lợi ích gì, ngược lại, còn làm
hại cho nền văn hóa, cho phong tục, cho đời
sống xã hội của dân tộc VN, tóm lại, chỉ
làm hại mà thôi..
Có
một điều làm tôi rất ngạc nhiên : tất cả những bài đó
đều viết bằng chữ Quốc Ngữ, là
thứ chữ do một linh mục Công Giáo sáng
lập từ mẫu tự Latin. Chính nhờ có thứ
chữ Quốc Ngũ này mà những tác giả đó có
thể viết bài chống đối GHCGVN, cũng
như
dùng chữ Quốc Ngữ này để truyền bá tư
tưởng của mình đến cho đồng bào VN.
Những tác giả này đang tận dụng một trong
những ích lợi lớn lao mà GHCGVN đem lại cho dân
tộc VN. Thế mà họ dám lớn tiếng phủ
nhận sự đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN !!!
Phải chăng những tác giả này không biết
nguồn gốc của chữ Quốc Ngữ ? Do đó,
họ đã tự mâu thuẫn với họ. Nếu
đúng như vậy thì kiến thức của họ còn
non dại quá ! Mỉa mai thay !
Mỗi
khi anh viết một chữ Quốc Ngữ là anh đã
nhắc lại sự đóng góp vô cùng quý báu của GHCGVN
cho dân tộc VN, anh không biết điều đó sao ?
Nếu
muốn phủ nhận những đóng góp của GHCGVN cho
dân tộc VN thì các tác giả đó đừng dùng chữ
Quốc Ngữ nữa, hãy dùng một thứ chữ khác.
Bắt chước các vua nhà Nguyễn, các chiếu chỉ
cấm Ðạo đều được viết bằng
chữ Hán (cũng gọi là chữ Nho), không có cái nào
viết bằng chữ Quốc Ngữ ! Có làm
được như vậy không ? Tôi mong chờ sự
“hiểu biết” một cách hợp lý của các tác giả
đó !
Nguyễn
Dương An
Chúng ta thường nói “cám ơn Trời Phật”, “cám
ơn Chúa”, hoặc cám ơn người này người
khác, chứ không bao giờ lại nói cám ơn một vật
vô tri vô giác như “cám ơn chữ Quốc Ngữ” ! Đáng lý phải nói là cám ơn người
đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ thì mới có ý nghĩa.
Theo Nguyễn Dương An thì chữ Quốc Ngữ là
thứ chữ do một một linh mục Công giáo sáng lập từ mẫu tự
la-tinh. Hẳn ý bạn muốn nói đến linh mục
Alexandre de Rhôde là người đã sáng tạo ra chữ Quốc
Ngữ. Nhưng rõ ràng Alaxandre de Rhôde là một người
Pháp, chứ có phải là một người Công giáo Việt
Nam đâu, mà anh dám nói chữ Quốc Ngữ là công lao của
Giáo hội Công giáo Việt Nam đóng góp cho dân tộc Việt
Nam ?
III.- Chữ Quốc
Ngữ đã được sáng tạo trong khuôn khổ
chiến lược xâm lăng Á Châu của Bồ Đào
Nha trong thế kỷ 17.
Từ thế kỷ 15, kỹ nghệ đóng tầu của
Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã đạt được
nhiều tiến bộ mới. Nhờ có súng hỏa mai và kỹ
thuật hàng hải, nhiều nhà thám hiểm Tây Ba Nha và Bồ
Đào Nha đã thực hiện được những cuộc
viễn du làm thay đổi lịch sử nhân loại:
1.- Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ năm 1492
2.- Vasco de Gama là người đầu tiên vượt
mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi tới Ấn Độ năm
1497.
3.- Alvarez Cavral vượt qua Đại Tây Dương
tìm ra Brazil năm 1500.
4. Alfonso de Albuquerque vượt qua Ấn Độ Dương
năm 1503, chiếm tỉnh Goa của Ấn năm 1510, chiếm
Malacca năm 1511 để mở đường cho Bồ
Đào Nha tiến vào Trung Quốc và Nhật Bản. Chính sự
kiện này đã làm nảy sinh tham vọng của Bồ Đào
Nha là xâm lăng toàn bộ Á Châu.
Chiến lược của Bồ Đào Nha trong thế
kỷ 16 là trước hết phải chiếm Trung Hoa và
Nhật Bản làm thuộc địa, đồng thời
biến hai nước này thành hai nước Công giáo, để
từ đó sẽ chinh phục toàn Á Châu theo thế cờ
domino. Do đó, vào cuối năm 1511, hạm đội Bồ
Đào Nha đã rời Malacca tiến lên phía Bắc gần
Macao để yểm trợ cho các nhà
truyền giáo thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha đang hoạt
động tại Nhật và Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến
lược xâm lăng và truyền đạo của Bồ
Đào Nha tại Á Châu trong thế kỷ 16 và 17 đã không
thành công vì không có một ông vua Nhật hay Tàu nào chịu theo
đạo cả. Năm 1638, người Nhật đã thẳng
tay tàn sát một lúc 37000 giáo dân tại Nagasaki và đánh đuổi
người Bồ Đào Nha ra khỏi nước Nhật.
Mọi ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại
Nhật đến đây là chấm dứt.
Như chúng ta đã biết, từ giữa thế kỷ
15, hai nước Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã dẫn đầu
các cuộc thám hiểm đất mới để xâm chiếm
thuộc địa và truyền đạo. Do các tranh chấp
về đất đai và quyền lợi, Tây Ba Nha và Bồ
Đào Nha có thể trở thành hai quốc gia thù địch.
Do đó hai nước đã thỏa thuận với nhau đưa
vụ tranh chấp này ra trước toà Thánh Vatican để giáo hoàng Alexander VI phân xử.
Do sắc chỉ Inter Coetera
năm 1493, giáo hoàng Alexander VI chia thế giới làm hai phần
qua đường ranh tưởng tượng chạy từ
Bắc cực xuống Nam cực chạy qua quần đảo
Acores. Phía Tây của đường
ranh này thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo
của Tây Ban Nha. Phía Đông đường ranh này bao gồm
toàn vùng Á Châu thuộc độc quyền xâm lăng và truyền
đạo của Bồ Đào Nha. Trong thực tế, kể
từ năm 1615, mọi công cuộc truyền đạo tại
Việt Nam thuộc quyền điều động của
dòng Tên Bồ Đào Nha, có trụ sở tại Nhật Bản,
với sự phối hợp của tòa Giám Mục Bồ Đào
Nha tại Macao.
Cũng do độc quyền truyền giáo mà Tòa Thánh đã
dành riêng cho Bồ Đào Nha tại Á Châu, nên suốt trong các
thế kỷ 15 và 16, các nhà truyền giáo Pháp hoàn toàn vắng
bóng tại Viễn Đông. Năm 1619, Alaxandre De Rhôde lên tàu
từ thủ đô Lisbone của Bồ Đào Nha để
đến giảng đạo tại Việt Nam, không phải
với tư cách là một giáo sĩ Pháp, mà là một giáo sĩ
đặt dưới quyền bảo trợ của triều
đình Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ chiến lược
xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu, Bồ Đào Nha chú ý
đến việc phiên âm theo mẫu tự la-tinh ưu tiên
là tiếng Tàu, tiếng Nhật, và sau đó là tiếng Việt.
Cuốn từ vựng Bồ-Hoa được soạn thảo
sớm nhất vào năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật
được hoàn thành năm 1595. Cuốn giáo lý tiếng
Nhật được la-tinh-hóa năm 1592. Tất cả các
kinh nghiệm về việc la-tinh-hóa chữ Nhật và chữ
Tàu nói trên đều rất hữu ích cho việc phát minh chữ
Quốc Ngữ của Việt Nam sau này.
IV.- Các tu sĩ dòng Tên
Bồ Đào Nha ở Đàng Trong (Quảng Nam)
là những người đã thật sự sáng tạo
chữ Quốc Ngữ trong các năm 1617-1622.
Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha bắt đầu
truyền đạo ở Đàng Trong từ 1615. Từ
1617 họ khởi công la-tinh-hóa tiếng Việt. Người
có công đầu trong việc này là linh mục Francis de Pina. Ông
sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo
tại Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt
Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ sở của dòng Tên
Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của
Nguyễn Phước Nguyên, nay là huyện Điện Bàn,
Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là linh mục Buzomi cũng là
một nhà ngôn ngữ học, và chình ông đã sáng tác một
hệ thống văn phạm tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu
tiên dịch các kinh la-tinh sang tiếng Việt. Đó là kinh Lạy
Cha (Pater Noster), kinh Kính Mừng (Ave Maria). Kinh Tin Kính (Credo),
kinh Sáng Danh (Gloria), ….
Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một
hệ thống ghi âm theo mẫu tự la-tinh thích hợp với
lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm
1624, linh mục Pina mở trường dạy nói tiếng
Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại
Thanh Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến
giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có Alexandre de Rhôde
và Antonio de Fontes.
Alexandre de Rhôde được linh mục Pina dạy tiếng
Việt từ 1624 đến cuối năm 1625 thì chẳng
may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại
bến cảng Đà Nẵng.
Linh mục Pina đóng vai trò quan trọng trong việc sáng
tạo chữ quốc ngữ, nhưng ông không phải là người
duy nhất, vì có nhiều người khác đã đóng góp
những nỗ lực của họ trong việc phân tích văn
phạm, phân tích ngữ âm và thanh điệu của tiếng
Việt. Do đó, công trình sáng tạo chữ quốc ngữ
là một công trình tập thể của các tu sĩ dòng Tên Bồ
Đào Nha giảng đạo tại Á Châu trong thế kỷ
17.
Nhiều người thường căn cứ vào việc
xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La
tại Rome năm 1651 để xác quyết
Alexandre de Rhôde là tác giả đã phát minh ra chữ quốc
ngữ. Sự thật Alexandre de Rhôde không phải là tác giả
của cuốn tự điển này. Ông chỉ là người
viết thêm vào tự điển phần la-tinh mà thôi. Hai phần
quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là tự
điển Việt-Bồ thuộc công lao của linh mục
Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và tự điển Bồ-Việt
của linh mục Bồ Đào Nha Antonio de Barbose. Alexandre de
Rhôde chỉ là một biên tập viên chứ không phải là
tác giả của cuốn tự điển quan trọng này,
nhất là vể phần Việt ngữ, nên ông ta không thể
được coi là cha đẻ của chữ quốc ngữ
được
Nhưng dù cho chữ quốc
ngữ đã được phát minh do Alexandre de Rhôde hay do các
tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17 thì bản
chất của nó vẫn không thay đổi: Chữ Quốc
Ngữ không phải là một món quà tặng do ngoại nhân
có lòng tốt đem lại cho chúng ta. Nó thực sự chỉ
là một thứ vũ khí do địch sáng chế để
truyền vào dân tộc ta một thứ tôn giáo phi nhân, nhằm
mục đích nô dịch nhân dân ta và đưa tổ quốc
ta vào vòng nô lệ của chúng.
Nay chúng ta dung chính vũ khí đó của địch để
đánh địch và tay sai. Đó là công việc mà các tác giả
Giao Điểm đang làm. Các tác giả Giao Điểm đang
noi gương tiền nhân dùng đòn “gậy ông đập
lưng ông” trong mục tiêu xây dựng đất nước
và bảo vệ văn hóa dân tộc: Noi gương Lý Thường
Kiệt xưa kia dùng chữ Hán để viết “Nam Quốc
Sơn Hà, Nam Đế Cư” để
xác nhận chủ quyền của tổ quốc. Trần
Hưng Đạo dùng chữ Hán để viết “Hịch
Tướng Sĩ” động viên toàn dân chống quân Nguyên.
Nguyễn Trãi dùng chữ Hán viết “Bình Ngô Đại Cáo”.
Trong thập niên 1930, các nhà cách mạng yêu nước Phan
Chu Trinh và Phan Bội Châu đã cổ súy việc học chữ
quốc ngữ để mở mang dân trí và phổ biến
tư tưởng cách mạng nhằm đánh đuổi
thực dân Pháp. Đòn “gây ông đập lưng ông” là một
chiến thuật lâu đời trong truyền thống chiến
đấu bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Để cụ thể hóa thái độ của chúng
ta đối với bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ
quốc ngữ, chúng ta hãy hình dung một tên cướp đột
nhập vào nhà chúng ta với một con dao. Khi bị cảnh
sát rượt đuổi, tên cướp đã vứt bỏ
lại con dao tang vật. Hành động đúng nhất là
chúng ta hãy sử dụng con dao tang vật vào những việc
hữu ích, như cắt rau, thái thịt, v.v… Chạy theo
tên cướp để cám ơn nó đã để
lại con dao rõ ràng là một
hành vi ngu xuẩn. Hô hào mọi người phải cám
ơn bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc
ngữ cũng là một hành vi ngu xuẩn tương tự.
Charlie Nguyễn
Sept 2003