Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng Khoa Học Khảo Cổ
Charlie Nguyễn
Trải qua
4000 năm lịch sử, nhân vật Abraham đã được coi là biểu tượng cho niềm khát vọng
của con người muốn thiết lập một mối giao ước (covenant) với Thượng đế.
Nói đúng ra, đó là khát vọng tâm linh
của phần đông các dân tộc Tây phương, bao
gồm Âu châu, Do thái và các chủng tộc Ả rập. Đố với các dân
tộc Á châu, ý niệm về sự thiết lập
một giao ước với Thượng đế là hoàn
toàn xa lạ, nếu không muốn nói là kỳ quặc!
Chúng ta không thể tưởng tượng
nổi là cái ý tưởng kỳ quặc đó đã xâm
chiếm tâm linh của hơn một nửa dân số loài
người. Hiện nay có tới
trên 3 tỉ người tôn vinh nhân vật Abraham là Thánh
tổ phụ về huyết thống (Father) hoặc Thánh
tổ phụ của đức tin (Spiritual Ancestor of Faith).
Một điều đáng chú ý là hai tỉ
người Ki-tô giáo, 1.3 tỉ người Hồi giáo và 15
triệu tín đồ Do thái giáo từ xưa đến nay
luôn luôn thù nghịch nhau, nhưng tất cả đều
đồng nhất tự xưng mình là tín đồ
độc thàn chân chính của Abraham (True Abrahamic monotheists). Dù là một nhân vật có thật
trong lịch sử hoặc hcỉ là một nhân v6ạt
thần thoại, Abraham đã hiển nhiên là một “giáo
chủ” có đông tín đồ nhất từ xưa
đến nay. Có thể nói, Abraham là giáo chủ của các
giáo chủ Tây phương, bời lẽ không có một tôn
giáo nào của Tây phương mà không tôn vinh Abraham là tổ
phụ đức tin của tôn giáo mình.
Cuốn sách đầu tiên của Bộ Thánh
kinh Do thái là sách Sáng thế ký (Genesis II: 27-28) cho biết :
Noah sinh ra Shem, Shem sinh ra Terah, Terah sinh ra Abraham. Abraham lấy
Sarah sinh ra Isaac, Isaac sinh ra Jacob là tổ tiên của 12 bộ
lạc Israel.
Abraham lấy cô đầy tớ gái Ai cập sinh ra Ismael là
tổ tiên của các giống Ả rập. Kinh thánh Do thái
kể lý lịch của Abraham như trên để xác
định Abraham chẳng những là ông tổ lập
đạo Chúa mà còn là ông tổ của dân tộc Do thái
về huyết thống.
Do thái thuộc dòng dõi chính thức của
Abraham còn các dân tộc Ả rập đều thuộc dòng
dõi thấp kém vì chỉ là “con rơi con rớt” của
Abraham mà thôi.
Trong sách Phúc âm Tông đồ Công vụ
của Ki-tô giáo có bức thư của Phao-lồ gửi
cho các tín hữu ở Rome,
trong đó có câu: “Đức tin của chúng ta là đức
tin của Tổ phụ Abraham”
(Epostle to the Romans: Our faith is that faith of our Fatther Abraham). Phao-lồ là “vị đại
thánh” có công hàng đầu trong việ lập đạo và
truyền đạo ki-tô, vì vậy các nhà chuyên nghiên cứu
tôn giáo Tây phương đã gọi Ki-tô giáo là “thần
học của Phao-lồ” (The Pauline theology). Phao-lồ
đã xác nhận Ki-tô giáo là đạo của Abraham. Ngòai
ra, vì Phao-lồ là người Do thái nên ông ta đã gọi
Abraham là Tổ phụ (Father).
Công giáo Việt Nam
tránh né không gọi Abraham là “tổ phụ” nhưng cũng
tôn vinh Abraham là một vị thánh cao cả ngồi cạnh
Đấng chí tôn. 92% dân số Việt-nam ngoại
đạo đều là những kẻ chưa biết
đến “đạo thánh” của Abraham! Người Công
giáo Việt-nam cảm thấy xót thương đồng
bào mình nên đã sáng tác bài kinh bất hủ mang tựa
đề :
“Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt-nam
Trở Lại Đạo Thánh”:
“Lạy Chúa, thuở Chúa mới giáng sinh, Chúa
đã kêu gọi ba vua phương Đông đến
thờ lạy Chúa. Chúa đã phán rằng : Ngày sau có nhiều
kẻ bởi Đông Tây sẽ đến nghỉ ngơi
cùng Thánh Abraham trên nước thiên đàng. Nay nước
Việt-nam cũng là một cõi Đông Phương đang
còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy chưa hề
biết Đấng chí tôn. Xin Chúa hãy làm cho nó tìm đến
cùng Chúa hầu ngày sau
đặng nghỉ ngơi (cùng thánh Abraham) trên nước
thiên đàng, chúc tụng ngợi khen Chúa đời
đời kiếp kiếp.”
(Kinh Nhựt khóa 143-146).
Vị giáo chủ sáng lập đạo
Hồi là Muhammad viết kinh Koran vào đầu thế
kỉ 7 đã tôn vinh Abraham là tín đồ Hồi giáo.
“Abraham chẳng phải là người Do thái, cũng
chẳng phải người Ki-tô nhưng ngài là một
người công chính, một người Hồi giáo.” (Abraham was not a Jew nor a Christian but he
was upright man, a Muslim – Koran 3:67). “Chúng ta tin Thiên chúa và tin
những gì đã được Thiên chúa mặc khải cho
Abraham và Ismael” (We believe in Allah
and waht eas revealed to Abraham and Ismael – Koran 3:84).
Nói tóm lại, tất cả các đạo
thờ Chúa gồm có Do thái, Ki-tô và hồi đều dành
nhau làm “con cái của Abraham” (The children of Abraham). Nhưng
điều mỉa mai là từ nhiều thế kỷ qua
đến nay, lịch sử của đám con cái Abraham luôn
luôn là lịch sử của một cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn liên miên bất tận! Vấn đề đựơc
đặt ra 12 nguyên nhân nào đã dẫn đến sự
nghi kỵ hận thù không thể hàn gắn giữa những
người tự nhận là anh em cùng cha là Abrahan?
Nhà khảo cổ chuyên về Thánh kinh (Biblical
archaeologist) Tad Szulc, tác giả bài “Abraham, cuộc hành trình
của niềm tin” (Abraham,
Journey of faith) đăng trên tạp chí National geographic tháng
12/2001 (trang 90-129), đã trả lời một phần cho
vấn đề nêu trên. Tác giả đến Jerusalem
quan sát và chụp hình nhiều nhóm tín đồ độc
thần. Tất cả đều dùng Thánh kinh như
những kịch bản bi kịch (drama). Các người
thuyế giảng đều tự coi mình như những
diễn viên (actors). Lúc đầu các nhóm đều kể
chuyện Thánh kinh giống nhau, nhưng về sau họ
rẽ sang những chi tiết của câu chuyện khác nhau.
Chính sự khác nhau về những chi tiết này đã làm
các tôn giáo và các chủng tộc thù nghịch nhau, mặc dù
tất cả đều cùng tôn vinh Abraham làm tổ phụ.
Màn bi kịch được diễn
nhiều nhất tại Jerusalem
là chuyện Thiên chúa dựng lên trời đất cạn
vật trong 7 ngày, Chúa đuổi tổ tiên loài
người là Adam và Eva ra khỏi vười Địa
đàng, Chúa tạo nên trận Đại hồng thủy
trong đời Noah. Con út của Noah là Shem sinh ra Terah. Terah
sinh ra Abraham và Thiên chúa ra lệnh cho Abraham thực hiện
một sứ mạng lịch sử. Đến đây câu
chuyện bắt đầu khác : Người Hồi giáo
tin rằng sứ mạng lịch sử của Abraham
đã được mặc khải cho loài người qua
Muhammad thuộc dòng dõi Ismael, con của Abraham. Trong khi
những người Do thái và Ki-tô giáo tin rằng họ
được Thiên chúa mặc khải và ban cho nhiều ân
sủng thiêng liêng qua dòng dõi Jacob, con của Isaaac, tức
cháu nội của Abraham.
Đối với các nhà nghiên cứu tôn giáo
đứng bên ngoài quan sát đều đưa ra nhận
xét : Tất cả các chuyện kể trên đều là
bịa đặt, đả đựơc viết ra
để tự vinh danh bộ lạc của mình! (these stories are pure fiction, written for
tribal self-glorification – Journey of faith, National Geographic 12/2001, page
90).
Chúng ta hãy duyệt qua Kinh thánh Do thái và Kinh
Koran của Hồi giáo để xem hai tôn giáo này đã
xử dụng truyền thuyết Abraham để tôn vinh
dân tộc của họ như thế nào. Cuối cùng, qua
kết quả của các công trình khảo cổ, chúng ta
sẽ có một giải đáp khoa học khách quan về
truyền thuyết Abraham.
1. Truyền thuyết Abraham qua Kinh thánh
Cựu ước Do thái:
Sách Sáng thế ký 11: 27-31 cho biết Abraham sinh
tại thành phố Ur
ở phía Nam
xứ Babylon (nước Iraq
hiện giờ). Căn cứ vào sự xác định này
của Thánh kinh Cựu ước, vào đầu thập
niên 1920 hàng ngàn nhà khảo cổ từ khắp mọi
nới trên thế giới đã đổ xô đến
Ur
để khai quật tìm hiểu về sinh quán của
Abraham. Ur là một nới
tiều điều bụi bặm, khô cằn sỏi đá
và không có một người nước nào cả. Hiện
chỉ còn một số ụ đất hình kim-tự-tháp,
một số ngọn tháp Zigguart được xây
để thờ thần Mặt trăng (Sin) vào khoảng
năm 2100 TCN (Trước Công nguyên). Toàn cảnh thành
phố Ur rộng
khoảng 120 mẫu (acres) được tạo dựng
lên khoảng 5000 năm TCN. Thành phố Ur được
khai quật đợt đầu trong thập niên 1920 và sau
đó vào thập niên 1930, dưới sự lãnh đạo
của nhà bác học khảo cổ trứ danh người
Anh là Leonard Woolley.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại
Ur nhiều ngôi mộ cổ của các vua chúa và
di tích của nhiều dãy phố. Đặc biệt là
những đồ trang sức bằng vàng, bạc và đá
quý rất tinh xảo. Điều đó chứng tỏ
Ur
là một thành phố giàu có và đạt tới trình
độ văn minh cao. Theo các giáo sư chuyên khảo
cứu về văn minh Babylon thuộc trường
Đại học Michigan thì Ur là thủ đô của vùng
Lưỡng Hà châu (Mesopotamia) và là thương cảng
của sông Euphrate sát gần với Vịnh Ba tư. Thành
phố Ur có tới 12.000
dân và đạt tới điểm cực thịnh vào
khoảng năm 2100 TCN.
Sau đó, bờ biển của Vịnh Ba
tư được đất bồi và tiến xa ra
biển, đã để thành phố Ur ở lại phía sau
cách bờ biển tới hơn một trăm dặm.
Ur
dần dần biến thành sa mạc hoang vu. Các công trình khai
quật thành Ur không
phải là vô ích vì nó đã đem lại cho các nhà khảo
cổ hàng ngàn tấm đất sét phơi khô (sun-dried clay
tablets) có những hàn chữ giống như nêm cối
gọi là “Cuneiform”. Lối
viết chữ này đã được phát minh từ
năm 3200 TCN bởi giống người Sumerians là
những cư dân đầu tiên ở vùng Lưỡng Hà
châu này.
Giáo sư Michalowski, chuyên viên khảo cổ
về Luỡng Hà châu thuộc Đại học Michigan và
là chủ bút tờ báo nghiên cứu về chữ Cuneiform
(Kournal of Cuneiform Studies) cho biết : Thành phố Ur là trung tâm
thương mại trong vùng Lưỡng Hà châu vào khoảng
2100 TCN, tương đương với thành phố Venice
của Ý sau này vì tại UR người ta dùng nhiều
thuyền bè chạy trên sông Euphrates, sông Tigris và nhiều sông
đào thông qua các con sông lớn này. nếu Abraham là một
nhân v6ạt có thật vào thời điểm này và nếu
được đi học thì Abraham phải biết toán
học, sử học, kế toán và văn chương
của người Sumerians. Tại Ur có rất nhiều
đền thờ thần Sin, tức thần Mặt
trăng (The Moon God). Rất có thể những suy nghĩ
về thần Mặt trăng đã dẫn Abraham
đến ý tưởng thờ một Thiên chúa duy
nhất.
Sác Sáng thế ký mô tả thành phố Ur
thuộc xứ Chaldes là một điều sai lầm vì các
nhà khảo cổ có đầy đủ bằng cớ xác
nhận Chaldes là một địa danh xuất hiện
ở vùng Lưỡng Hà châu vào thiên niên kỷ I TCN, tức
sau thời đại của Abraham tới một ngàn
năm.
Giáo sư Do thái Finkelstein, chủ nhiêm ngành
khảo cổ thuộc Đại học Tel Aviv, cho
biết : “Trong 20 năm qua, khoa học khảo cổ đã
trở thnàh một công cụ chính yếu để khảo
cứu các giai đoạn quá khứ của Do thái Cổ. Sau nhiều năm
nghiên cứu , ngành khảo cổ chưa xác định
được có hay không có Abraham, nhưng sách Sáng thế ký
(Genesis) viết về ông ta được ước tính
đã được viết trong thế kỷ 7 TCN.” (National Geograpic, p.106-107). Như vậy, sách Sáng thế ký
đã được viết để kể chuyện
một nhân vật đã sinh ra trước đó tới 13
thế kỷ. Diều này cho thấy chuyện Abraham khó có
thể là một chuyện thật.
Tuy vậy, các nhà khảo cổ vẫ
đọc sách Sáng thế ký và lần mò theo từng trang
sách để đi tìm dấu vết của Abraham. Sách Sáng
thế ký viết : “Họ rời thành phố Ur
để đi về Canaan với Terah,
Abraham, Sarah và Lot. Họ đến Haran
và định cư tại đây.”
- Các tài liệu ghi chép bằng chữ Cuneiform
ghi nhận vào khoảng năm 2000 TCN có một trận
chiến tranh lớn gây ra bời giống người
Elamite (tức Iran ngày nay) đến tàn phá thành phố Ur.
Đây có thể là lý do khiến gia đình của Abraham
phải dời đi nơi khác.
- Từ thành phố
Ur
đến Canaan là cuộc hành trình dài 600
dặm (965 km). Nếu đi đường bộ với
đoàn lữ hành có ngựa, lừa, lạc đà ...
củng phải mất nhiều tháng hặoc cả năm.
Sáng Thế ký cho biết Abraham không đến th8ảng Canaan
mà đến định cư tại thành phố Haran
một thời gian. Thành phố Haran
ngày nay là một ngôi làng
thuộc Thổ nhĩ kỳ với 500 cư dân. Các
ngôi nhà của dân làng này đều làm bằng đất
sét giống như tổ ong. Thuở xa xưa, làng này là
một thành phố thương mại sầm uất vì nó
nằm trên bờ sông Balikh, phía Bắc thung lũng sông
Euphrates và là ngã tư quan trọng của vùng Lưỡi
Liềm Cận Đông (The firtile crescent of the Near East).
Tại đây có nhiều đền thờ thần Mặt
trăng giống như ở Ur.
Dân cư trở nên thưa thớt vì khí hậu thay
đổi càng ngày càng nóng. Hiện tại nhiệt
độ trung bình ở đây lên tới 120 độ F.
Điều đặc biệt đáng chú ý là
ở giữa làng Haran có
một ngọn đồi, trên đó có một căn nhà mà
dân làng này tin rằng đó là căn nhà khá rộng lớn
như nhà của những
người khá giả. theo chuyện dân gian lưu
truyến ở vùng này thì Abraham làm nghề chăn nuôi và
thường bán lông cừu cho nông dân trong vùng để
đổi lấy nông sản và thực phẩm.
Những chuyện về Abraham ở
Haran
chỉ có thế nhưng cũng thu hút khá nhiều du khách
từ những vùng lân cận đến bằng xe buýt (bus)
vào cuối tuần để viếng thăm những “di
tích” của Abraham !
Ở gần làng
Haran
có thành phố Urfa cới
dân số gần nửa triệu người. Từ xa
xưa thành phố này đã được coi là sinh quán
của Abraham. Hàng năm người ta tổ chức
những đại hội lớn gọi là “Đại
hội Abraham” thu hút rất đông du khách từ thập
phương kéo tới.
Truyền thuyết địa phương
kể rằng : Abraham sinh ra trong một cái hang đá ở
phía nam của thành phố Urfa.
Khi mới sinh ra được một ngày, Abraham đã
lớn bằng đứa trẻ đầy tháng và sau
một năm, Abraham lớn bằng đứa trẻ 12
tuổi. Khi trưởng thành, Abraham đập nát các
ảnh tượng của các thần cà khuyên mọi
người chỉ thờ một Thiên chúa mà thôi. Vua Nimrod
ra lệnh nắt Abraham và xử tử bằng cách thiêu
sống. Nhưng khi ngọn lửa mới bùng lên thì tự
nhiên có một vòi nước đổ nước xuống
dập tắt ngọn lửa và những thanh củi
đang cháy biến thành những con cá, nhờ thế mà
Abraham được cứu sống.
Hiện nay, mỗi tuần có nhiều
chuyến xe bus chở khách hành hương từ Iran
qua viếng hang đá mà họ tin là nơi sinh của Abraham. Trước khi vào hang
đá họ phải đi qua một ngôi đền Hồi
giáo có một ngọn tháp nhỏ. Họ ở đây ít phút
cầu nguyện Thượng đế trước khi vào
viếng thăm hang đá, nơi sinh ra của Abraham,
vị thánh tổ vĩ đại của tất cà các
đạo thờ Chúa !
Đối với dân chúng ở khắp vùng này thì sinh
quán của Abraham là Urfa
chứ không phải Ur
như sách Sáng thế ký của đạo Do thái đã nói.
Dù cho Abraham sinh ra tại Ur
hay Urfa cũng không quan
trọng, điều quan trọng là sách Sáng thế ký
(cuống sach đầu tiên của bộ Kinh thánh Do thái)
đã mô tả chi tiết về Haran
: Tại Haran, Chúa nói với Abraham hãy tiếp tục lên
đường đi đến Đất hứa. Lúc
đó Abraham đã 75 tuổi, vợ là Sarah đã 65 tuổi.
Abraham lên đường cùng với vợ và người
cháu trai tên là Lot.
Họ mang theo nhiều tài sản gồm súc vật và
đồ đạc. Từ haran
đến đất hứa Canaan,
Abraham phải đi qua nước Syria.
Đất hứa Canaan chính là dải
đất của xứ Ai cập. Sáng thế ký mô tả
vùng Đất hứa Canaan “chảy ra
sữa và mật” (flowing with milk and honey) ngụ ý miền
đất này rất phì nhiêu. Trong thực tế vùng
đất Canaan khô cằn sỏi đá
nên từ hai ngàn năm trước Công nguyên đa số
cư dân ở Canaan phải sinh sống
bằng nghề buôn bán. Vì thế, từ thuở đó
chữ “Canaanites” đã có nghĩa là thương gia
(merchants).
Sách Sáng thế ký kể tiếp: Abraham
đến vùng Đất hứa, trước hết
cư ngụ tại thành phố Sechem. tại đây Chúa
hiện ra với Abraham và phán rằng: “Ta sẽ cho dòng dõi
của con vùng đất này” (To your seed I will give this land).
Sechem là tên của một thành phố cổ
tại Trung đông đã có từ 2000 năm TCN, tọa lac
ở phía tây sông Jordan.
Nay thành phố mang tên Nablus,
có 130.000 dân và đặt dưới quyền kiểm soát
của chính quyền Palestine.
Hiện tại thành phố này đang là một bãi chiến
trường giữa Palestine
và Do thái. Cũng như hàng ngàn năm về trước,
nơi đây đã từng là chiến trường
giữa hai dân tộc con cháu của Abraham : Do thái và Ả
rập !
Sách Sáng thế ký không nói Abraham ở tại
thành phố Sechem bao lâu, chỉ nói Abraham đi về phía nam
đến sa mạc Negrev. Ngày nay, vùng Negrev đã
được dẫn thủy nhập điền nên
nghề nông phát triển. Vào thời Abraham, mỗi khi
gặp mùa hạn hán vùng này thường bị lâm vào
nạn đói trầm trọng. Chính vì vậy Abraham đã
phải bỏ Đất hứa Canaan
để đi Ai cập. Nhờ có sông Nil và vùng
đồng bằng phì nhiêu màu mỡ nên dân Ai cập có
một cuộc sống no đủ thịnh vượng.
Mục đích của Abraham đến Ai cập kiếm
ăn để khỏi bị chết đói. Khi mới
tới biên giới Ai cập , Abraham căn dặn Sarah (lúc
đó 65 tuổi) : “Em là một người đàn bà
đẹp, nếu em nói là vợ ta thì người Ai
cập sẽ giết ta. Vậy em hãy nói là em gái của ta”.
Quả nhiên, các cận thần của vua Pharaon thấy
Sarah quá đẹp nên đã dẫn nàng “dinh” (“harem”) của nhà vua.
Sự việc vua Pharaon cướp vợ
của Abraham làm cho Thiên chúa rất tức giận nên ngài
đã gây ra nạn dịch tàn phá Ai cập. Vua Pharaon
thấy vậy sợ quá nên gọi Abraham đến
để quở trách : “Tại sao ngươi không nói
thật với ta Sarah là vợ ngươi? Vì ngươi
nói nàng là em gái nên ta mới
lấy nàng làm vợ. Thôi, bây giờ ngươi hãy nhận
lại nàng và cút khỏi đây”.
Sau đó, Abraham trở lại Canaan
và chính thức định cư tại đây.
Tại Canaan, Chúa lại hiện ra với
Abraham và xác định lãnh thổ Đất hứa : “Ta
sẽ cho dòng dõi của con lãnh thổ từ sông Nil của
Ai cập đến sông Euphrates” (nay
thuộc Iraq).
Nhưng Abraham lo lắng nghĩ về tương lai vì
hiện tại Abraham không có một đứa con nào
cả. Abraham oán trách Chúa :
“Chúa cho tôi những thứ đó để làm gì vì tôi già
sắp chết rồi mà vẫn không có con?” (Oh my Lord, what can you give me when I am
going to my end childless?). Chúa
trả lời : “Con hãy nhìn lên bầu trời và đếm
các vì sao. Dòng dõi của con sau này cũng sẽ đông
như vậy”.
Lúc đó, Sarah tin rằng mình không thể nào
sinh con được vì đã 75 tuổi nên thuyết
phục chồng ăn nằm cới cô đầy tớ
gái Ai cập tên Hagar. ít lâu sau, Hagar sinh cho Abraham đứa
con trai đầu lòng, đặt tên là Ismael. Khi có
đứa con đầu lòng thì Abraham tròn 86 tuổi !
Mười ba năm sau, tức vào lúc Abraham
99 tuổi, Chúa hứa với Abraham rằng ông ta sẽ là
tổ phụ của nhiều quốc gia (father to a multitude
of nations). Abraham và Sarah đều phá lên cười và hỏi
lại Chúa “Có lẽ nào một ông già trên 100 tuổi và
một bà già 90 tuổi sinh con?”.
Đúng một năm sau, Sarah sinh ra một bé trai
được hai vợ chồng đặt tên là Isaac, có
nghĩa là tiếng cười (theo tiếng Hebrew). Sau khi có con, Sarah ghen với Hagar và
Ismael nên thuyết phục Abraham đuổi họ ra
khỏi nhà. Abraham đưa Hagar và Ismael đến một
nơi trong sa mạc. Những người Hồi giáo tin
rằng nơi đó chính là Mecca
hiện nay.
Sách Sáng thế ký kể tiếp : Sarah
chết năm 127 tuổi tại Quiryat gần Hebron,
Abraham đem xác vợ về chôn tại hang Machpelah,
thuộc tỉnh Hebron
ở gần Biển Chết (the Dead Sea).
Sau đó, Abraham đến
Haran
kiếm vợ cho Isaac tên Rebekah. Cưới vợ cho con
trai xong, Abraham đi Hebron để kiếm một cô
vợ cho riêng ông, lúc này ông đã 137 tuổi. Cô vợ
trẻ của Abraham tên Keturah sinh cho ông 6 đứa con. Sách
Sáng thế ký cho biết Abraham chết vào năm 175
tuổi. Isaac va Ismael đem xác cha về chôn bên cạnh
mộ của bà Sarah tai hang Machpelah. Ngày nay hang này là thánh
địa của đạo Do thái va đạo Hồi.
2. Truyền thuyết về Abraham trong
đạo Hồi
Truyền thuyết về Abraham trong
đạo Hồi được thuật lại một
cách sơ lược qua 25 câu thơ rải rác trong các
chương khác nhau của kinh Koran:
- Adam là tổ tiên của loài người và
là vị tiên tri thứ nhất của Thiên chúa (Koran 3:33)
- Trận Đại hồng thủy tiêu diệt cả loài
người, chỉ ngoại trừ những người
và vật trên tàu của ông Noah được cứu thoát
mà thôi. Noah là tiên tri thứ hai của Chúa (Koran 7:59-64)
- Sau đó loài người sinh sôi nảy
nở và thờ nhiều thần nhảm nhí nên Chúa cho tiên tri
thứ ba xuất hiện, đó chính Abraham. Với sứ
mạng lập đạo thờ một Chúa tức
Độc thần giáo (Monotheism), Abraham chống lại cha
ruột của minh là Azar (tức Terah) vì ông này làm ra rất
nhiều tượng thần để tôn thờ. Abraham
chất vấn cha : “Cha sẽ thờ những ảnh
tượng này thay vì thờ Chúa sao? Hiển nhiên là cha và
những người theo cha là những kẻ sai
lầm!” ( Koran 6:74-84 ).
Đạo Do thái và đạo Hồi
đều tự nhận là đạo chân chính của
Abraham vì không thờ ảnh tượng.ai đạo này
kết án đạo Công giáo và Chính thống giáo là những
tà đạo vì hai giáo phái Ki-tô này đều thờ rất
nhiều ảnh tượng của Chúa và các thánh!
Trong thế kỷ I, “thánh” Phao-lồ của
Ki-tô giáo gọi Abraham là “tín đồ Ki-tô giáo trước
Phúc âm” ( a Christian before Gospel). Đến thế lỷ 7,
Muhammad gọi Abraham là “tín đồ hồi giáo
trước kinh Koran” ( a Muslim
before Koran ).
Truyền thuyết của Hồi giáo về
Abraham trong phần đầu cũng tương tự
như trong sách Sáng thế ký của đạo Do thái.
Nhưng từ khi bà Sarah nổi ghen và buộc Abraham
phải đuổi hai mẹ con Ismael ra khỏi nhà thì câu
chuyện bắt đầu đổi khác : Bà Hagar dẫn
con đến một nơi ở sa mạc Syro-Arabia,
nơi đó chính là địa điểm của thành phố
Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay.
Năm Ismael lên 13 tuổi, Abraham cắt da qui
đầu của con trai và sau đó ông tự cắt da qui
đầu của mình, mặc dầu lúc đó ông đã 99
tuổi. Đây là hành vi tỏ ý tuân phục Thiên chúa
tuyệt đối. Tục lệ cắt bì (circumcision)
bắt đầu từ đó và dần dần biến
thành một nghi lễ
(tương tự như lễ rủa tội của Ki-tô
giao) áp dụng cho mọi tín đồ nam giới của
đạo Do thái và đạo Hồi.
Khi Isamel trưởng thành, Chúa thử lòng
Abraham bằng cách ra lệnh cho ông phải giết
đứa con trai yêu quí của mình và đốt nó bằng
củi lửa như những vật hy sinh khác ( Koran
37:102-112 ). Abraham tuân lệnh Chúa nên dẫn Ismael lên núi Arafat
(cách Mecca 16 dặm)
để giết. Nhưng khi Abraham vừa mới vung
đao lên để giết
con thì Thiên chúa ngăn lại. Chúa hứa cho Ismael sau này
trỏ thành tổ phụ của một dân tộc lớn.
về sau, Ismael có 12 người con trai là tổ tiên của
12 giống dân Ả rập. (Điều này cũng
tương tự như Kinh thánh Cựu ước Do thái
chép rằng : cháu nội của Abraham là Gia-cóp có 12 con trai là
tổ phụ của 12 bộ lạc Do thái. Kinh thánh Tân
ước cũng chép : Chúa Jesus chọn 12 tông đồ
để lãnh đạo 12 bộ lạc Do thái chứ không
phải để truyền đạo khắp thế
gian.)
Trong thời gian bà Hagar và Ismael sống
tại sa mạc, Abraham thường xuyên đến
thăm. Giữa chốn sa mạc hoang vu này Chúa đã
khiến cho một dòng nước từ dưới
những lớp cát phun lên. Đó chính là giếng
nước thiêng ở Mecca
gọi là giếng Zamzam. Cả hai cha con Abraham đã cùng nhau
xây một đền thờ
Chúa đầu tiên trên trái đất. Đó chính là
đền thờ Kaaba ở Mecca
hiện nay. Tiếng Ả rập Kaaba có nghĩa là Tòa nhà
hình khối (the Cubic
Building). Ismael thọ 137 tuổi.
Ngày nay, mỗi năm có tới hàng chục
triệu người Hồi giáo từ khắp nơi trên
thế giới đổ về Mecca
hành hương. Địa điểm chính yếu là
đền thờ Kaaba. Trước khi tới đền
thờ này, người ta phải đi bộ qua các
đại lộ Abraham, Hagar, Ismael và Muhammad. Sau đó, các
khách hành hương đi thăm giếng nước Zamzam
đã nuôi sống hai mẹ con Ismael ở sa mạc. Cuối cùng họ kéo nhau lên núi
Arafat, cách Mecca 16 dặm,
giết những con cừu làm lễ tế sinh (animal
sacrifice offering) để tưởng niệm Abraham toan
giết Ismael làm lễ hy sinh tế lễ Thiên chúa !
3. Quan điểm của Vatican
về Abraham:
Mặc dầu chỉ đọc qua những
truyền thuyết về Abraham của đạo Do thái hay
đạo Hồi, chúng ta cũng nhận thấy trong
những câu chuyện có đầy dẫy những chi
tiết huyền hoặc nhảm nhí. Tuy nhiên, Giáo hoàng John
Paul II là người lãnh đạo tối cao của
gần một tỉ tín đồ Công giáo tin rằng Abraham
là một nhân vật có thật. Năm 1994, John Paul II công
bố ý muốn làm một cuộc hành hương đến
thành phố Ur để
vinh danh thánh tổ phụ Abraham. Giáo hoàng tuyên bố :
“Nếu không khởi đầu từ thành phố Ur thì
mọi cuộc thăm viếng các vùng đất của
Thánh kinh sẽ không thực hiện được, bởi
vì mọi sự bắt đầu từ đó” (No visit to the lands of the Bible is
possible without a start in Ur, where it all began – national geographic,
12/2001, page 98).
Vatican đã vận
động Saddam Hussein cho phép giáo hoàng đến thăm
Ur
vì thành phố cổ này hiện thuộc lãnh thổ phía nam
của Iraq.
Cuối năm 1999, Saddam Hussein dứt khoát bác bỏ lời
yêu cầu của Vatican.
Giáo hoàng bèn quyết định tổ chức một
đại lễ tại đại giảng
đường ở Vatican.
Ngày 23-2-2000, 6000
người tụ họp tai đại giảng
đường Vatican để dự
đại lễ tưởng niệm Abraham do giáo hoàng
chủ lễ. Nghi thức chủ yếu trong buổi
lễ này là giáo hoàng châm lửa đốt một
đống củi nhỏ trên bàn thờ để
tưởng nhớ hành vi giết con của Abraham làm
vật hy sinh tế lễ Thiên chúa!
Khói và mùi hương lan tỏa khắp đại
giảng đường. Dĩ nhiên, đối với Do
thái giáo và Ki-tô giáo, đứa con trai mà Abraham định
giết để tế Chúa là Isaac chứ không phải
Ismael. Bà Hagar và Ismael của Hồi giáo hoàn toàn bị quên
lãng trong hai tôn giáo này.
4. Quan điểm của cá nhà khoa học
khảo cổ về Abraham
Sách Sáng thế ký là sách đầu tiên của
Bộ Thánh kinh Do thái đã chép : “Terah sinh ra Abraham tại
Ur.”
Các cuộc khai quật khảo cổ trong thế kỷ 20
đã xác định sự hiện hữu của thành phố
Ur, nhưng các kết quả thu lượm được
chứng tỏ Abraham chỉ là một nhân vật thần
thoại.
Cuộc khai quật thành phố
Ur
lần đầu tiên đuợc thực hiện năm
1917 bởi nhà khảo cổ trứ danh người Anh là
Sir Leonard Wooley. Con số những hiện vật đào
được rất nhiều và rất đa dạng
khiến cho các nhà khoa học dễ dàng xác định được hạn tuổi và
tìm hiểu các khía cạnh của đời sống người xưa. Báo National
Geographic số tháng 5 năm 1999 đã viết về vấ
đề như sau: “Những
tài liệu khổng lồ thu thập được
về những thành tựu của con người đã xác
định được lịch sử của
Lưỡng Hà châu, nơi sinh quán theo truyền thuyết
của một nhân vật cả ba tôn giáo Do thái, Ki-tô giáo và
Hồi”.
“Nơi sinh quán theo truyền thuyết về
Abraham là thành phố Ur đã bị bỏ hoang từ
thế kỷ 4 trước Công nguyên do sự đổi
dòng của con sông Euphrate khiến cho Ur bị vây hãm bởi
sa mạc” (Traditional birthplace of
Abraham, the city of Ur, was abandoned is the fourth century BC. after the
Euphrate changed course, leaving Ur enclosed by desert).
Các cuộc khai quật khảo cổ tại
Ur và các vùng khác thuộc
Babylon
đã đem đến cho các nhà khoa học hàng chục ngàn
tấm đất sét phơi khô có ghi chữ ‘Cuneiform’.
Đó là những cuốn sách ghi chép đủ thứ,
từ sử liệu, thơ văn, tôn giáo, tóan học, khoa
học và rất nhiều chuyện thần thoại. Trong
kho chuỵên thần thoại của thành phố Ur
có chuyện về Abraham.
Nhà khảo cổ Mellersh (tác giả
Archeological Section của Bộ Đại từ diện
Bách khoa Great Encyclopedic Dictionary) cho biết : Tại thành
phố Ur có chuyện
thần thoại về vị Thần đất Terah.
Thần đất sinh con trai đặt tên là Abraham, có
nghĩa là một vị nam thần (male god) và một con gái
đặt tên là Sarai, có nghĩa là nữ thần (female god).
Về sau hai người lớn lên, Abraham đã lấy em
gái làm vợ.
Năm 322 TCN, Hoàng đế Hy lạp là
Alexander the Great chiếm Do thái và vùng Lưỡng Hà châu và
thiết lập sự cai trị vùng này trong 180 năm (322
TCN – 152 TCN). Các chuyện thần thoại của Do thái và
Lưỡng Hà châu đều được dịch sang
tiếng Hy lạp và phổ biến tại Âu châu. ngôn
ngữ la tinh đã mượn tên thần đất Terah
(cha của Abraham) để làm nguyên ngữ cho dnah từ
TERRA có nghĩa là đất. Sau đó, Pháp ngữ dùng
chữ Terra làm nguyên ngữ cho danh từ của Pháp là La
Terre. Như vậy, theo kết quả khảo cổ,
Abraham chỉ là tên đọc trại ra từ tên thần
thoại. Abraham trong chuyện
thần đất Terah của thành phố Ur
mà thôi. Abraham là một nhân vật không có thật.
Chuyên gia Do thái về khảo cổ tại
Đại hoc Tel Aviv tuyên bố : “Abraham là vấn
đề không thể truy tìm được. Không có một
bằng chứng nào về sự hiện hữu của ông
ta. Đi tìm một nhân vật Abraham lịch sử còn khó
hơn nhiều so với việc đi tìm một Jesus
lịch sử. Điều quan trọng là chúng ta hãy giả
định Abraham chỉ là một ý tưởng
được nhân cách hóa mà thôi.”
(Abraham is beyond recovery. Without any prooof of the patriarch’s
existence, the search for a historical Abraham is even more difficult than the
search for a historical Jesus. The important thing is to assess the meaning and
legacy of the ideas of Abraham came to embody. National geographic Dec. 2001,
page 96).
Ý tưởng chính yếu của Abraham là
“chỉ tôn thờ một Chúa mà thôi”. Nhà khảo cổ Tad
Szule, tác giả bài viết “Abraham, cuộc hành trình của
niềm tin” (Abraham Journey of faith – N. Geographic, Dec 2001) kết
luận: “ Các tín đồ
độc thần nói lên niềm tin của Abraham vao
một Thiên chúa, chính niềm tin đó đã làm thay
đổi thế giới từ xưa tới nay” (They
spell out his fundamenta belief that there is one Gos. That belief changed the
world forever).
Người đưa ra chủ thuyết
“chỉ thờ một Chúa” có thể đã có một
mục tiêu vĩ đại là thống nhất các bộ
lạc, hoặc các dân tộc trong niềm tin một Thiên
chúa Duy nhất.
. Họ kỳ vọng các bộ lạc và các
dân tộc sẽ coi nhau như anh em và sống trong hòa bình.
Trong thực tế, các đạo độc thần cùng
thờ một Chúa và cùng chung một ông tổ Abraham đã
không ngừng chém giết nhau trong những thế kỷ
qua. Thực tế phủ phàng đã hùng hồn minh
chứng rằng : “Độc thần Thiên Chúa giáo, tức
lý tưởng Abraham, đã hoàn toàn bị phá sản" !