MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HUYỀN THOẠI GIÁNG SINH
Charlie Nguyễn
Trải qua 20 thế kỷ, tất cả
những gì chúng ta biết về con người Jesus –
được mệnh danh là Chúa Cứu Thế hoặc
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người – đều
do 4 cuốn sách mỏng được viết bằng
tiếng Hy Lạp trong thế kỷ I gọi là Phúc Âm
(Gospels = Tin Mừng). Nhưng trong số 4
cuốn sách đó thì chỉ có hai cuốn của Matthew và
của Luke viết về sự ra đời của Jesus
mà thôi. Sách của Matthew được
viết vào đầu thập niên 80, sách của Luke
được viết sau đó khoảng 10 năm. Như vậy, cả hai sách Phúc Âm viết về
sinh nhật của Jesus đều đã được
viết ra sau khi Jesus đã sinh ra 80 – 90 năm.
Điều đó cho thấy các sự kiện liên quan
đến sự ra đời của Jesus đều
đã do các tác giả Phúc âm bịa đặt hoặc
chỉ ghi lại theo các lời tuyền
khẩu vô căn cứ mà thôi. Điều
đáng chú ý là cả hai sách Phúc âm này đã đưa ra
những chi tiết về năm sinh, nơi sinh của
Jesus và các sự kiện liên hệ mâu thuẫn nhau, nhưng
người ta đã tổng hợp tất cả các mâu
thuẫn đó để tạo nên huyền thoại Giáng
Sinh như ta thấy hiện nay.
Hàng năm, trong phần lớn các
nước Âu Mỹ, người ta kỷ niệm "Mùa
Giáng Sinh" trong 40 ngày, kéo dài từ 20 ngày trước
đến 20 ngày sau 25 tháng 12. Họ thường bày cây
thông trong nhà, làm giả hang đá Bethlehem bằng giấy
bồi và đặt ở trong đó bộ tượng
Sinh Nhật gồm có máng cỏ với Chúa Hài Đồng,
bà Maria và ông Joseph chắp tay quì lạy đứa con
mới sinh của mình. Sát cạnh hang đá có vài con bò và
lừa đang hà hơi sưởi ấm cho Chúa. Ngoài
cửa hang đá lấp ló 3 ông vua phương Đông
đến thờ lạy Ngài. Trên không trung lúc ấy có
nhiều thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên
trời. Bình an dưới thế cho
người thiện tâm"...
Đó là đại cương
về những hoạt cảnh thường thấy trong
dịp lễ Giáng Sinh của Chúa Ki-tô (Christmas). Chúa
theo niềm tin của người Công giáo chính là vị
Thượng đế đã tạo dựng vũ trụ,
nhưng vì quá thương loài người nên Ngài đã
hạ mình xuống thế mặc xác phàm để chịu
chết chuộc tội thiên hạ. Có thể coi những
điều này là bản tóm tắt về "Niềm tin
Ki-tô" (Christian faith).
Vào đầu thế kỷ 20, thi sĩ Anh
giáo Sir John Betjeman đã làm bài thơ "Christmas", trong
đó có những câu nói lên nỗi thắc mắc của ông
đối với niềm tin truyền thống này:
And is it true? And is it true?
This most tremendous tale of all
Seen in a stained – glass window’s hue
A baby in an ox’s stall
The Maker of stars anh sea
Become a child on earth for me?
(The Oxford Book of prayer)
Xin tạm dịch:
Có thật không? Có thật không?
Đây là chuyện đáng sợ vô cùng
Tôi thấy hình trên kính cửa nhà chung.
Một chú bé trong chuồng bò máng cỏ
Là người sinh ra sao trên trời và
biển cả mênh mông
Chú nhóc cũng chuộc tội
tổ tông cho tôi hả?
Các tín đồ Ki-tô giáo trong đế
quốc La mã bắt đầu làm lễ kỷ niệm Sinh
Nhật của Chúa từ năm 336 do lệnh của hoàng
đế Constantine. Hoàng đế đã
thống nhất các giáo phái Ki-tô thời đó để
lập ra đạo Công giaó nhưng chính hoàng đế
không tin đạo. Bản thân hoàng
đế là giáo chủ của Đa Thần Giáo La mã (Roman
Paganism). Ông ấn định ngày lễ Noel là 25 tháng
12 vì ngày này là ngày mừng Sinh nhật Thần Mặt
Trời Vạn Thắng của Đa Thần Giáo La mã.
Ngày nay, các tín đồ Ki-tô (Công giáo, Tin Lành,
Chính thống giáo) kỷ niệm sinh nhật của Chúa
Jesus thực chất là kỷ niệm sinh nhật thần
Mặt Trời Vạn Thắng của Đa Thần Giáo La
mã (The Explorer’s Guide to Chiristianity – by Marcus Braybrooke – London 1998
- p. 36).
Qua hơn một ngàn năm sống
dưới ách thống trị của đế quốc La
mã và đế quốc Vatican, hầu hết dân chúng các
nước Âu châu đã mặc nhiên chấp nhận
những ngày lễ của Ki-tô Giáo như những tục
lệ xã hội. Từ đầu thế
kỷ 16 đến đầu thế kỷ 20, Âu châu bành
trướng thế lực ra khắp thế giới qua
chủ nghĩa thực dân đế quốc. Ảnh hưởng văn hóa của họ
cũng nhờ đó đã chiếm được một
địa vị trên thế giới. Dù tin hay không tin
Jesus, hiện nay hầu hết các dân tộc trên thế
giới đều xử dụng Dương lịch
được san định bởi tu sĩ Công giaó
Dionysius Exiguus vào thế kỷ 6. Năm sinh
của Jesus là cái mốc của Dương lịch.
Năm 2000 đã được cả thế giới tưng bừng đón chào như buổi bình
minh của thiên niên kỷ thứ ba. Tất
nhiên đó chỉ là một điều qui ước.
Nói đúng hơn thì đó chỉ là một hành vi bá quyền văn hóa của Tây
phương (a function of Western cultural hegemony).
Nhân dịp lễ Noel năm nay,
chúng ta thử đem ra bàn luận một số vấn
đề liên quan đến thân thế của Jesus. Vấn đề ngôi sao lạ xuất hiện
trong đêm Noel đầu tiên có thật không? Đa số dân Mỹ hiện nay nghĩ gì về
Noel? Những biểu tượng về
lễ Noel từ xưa đến nay đã biến
chuyển như thế nào?
Về thân thế của Jusus,
hai vấn đền được nêu lên là Jesus đã
thật sự sinh ra năm nào và tại đâu.
Theo phúc âm của Matthew thì Jesus
sinh ra hai năm trước khi vua Herod qua đời (Matt 2:15). Sử sách Do Thái ghi nhận vua Herod băng
hà năm 4 TCN. Như vậy, Jesus đã sinh ra
năm 6 trước Công Nguyên. Trái lại, Phúc âm
của Luke viết: Jusus đã sinh vào năm có cuộc
điều tra dân số và đúng vào thời Qurinius làm quan
toàn quyền ở xứ Syria
(Luke 2:2). Sử gia Do Thái sống trong thế
kỷ I là Josephus đã ghi nhận hai sự kiện nêu trên
xảy ra năm thứ 7 sau Công Nguyên. Hai
sách Phúc âm đưa ra hai năm sinh khác nhau của Chúa cách
nhau 13 năm. Vì thế ngày nay chúng ta không
thể nào quyết đoán được năm sinh
thật của Ngài. Do đó, năm 2001 không có nghĩa
là năm Jesus 2001 tuổi!
Vấn đề thứ hai
về thân thế là Jesus đã sinh ra tại đâu?
Matthew viết: Chúa đã được sinh ra trong nhà (in the
house). Ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba vua
phương Đông đến thờ lạy Ngài tại
căn nhà này ở Nazareth.
Phúc âm của Luke viết: Chúa sinh ra trong máng
cỏ nuôi súc vật (manger) ở hang núi Bethlehem.
Từ Nazareth đến Bethlehem cách
nhau 90 dặm (tương đương 135 km). Luke
không nói gì tới ngôi sao lạ và ba vua phương Đông!
Hiện tượng Ngôi Sao
lạ đêm Noel được khoa học giải thích
như thế nào?
Năm 1606, nhà thiên văn học trứ danh
Johannes Kepler đã trình bày hiện tượng 3 hành tinh
gồm Sao Thổ (Saturn) Sao Mộc (Jupiter) và Sao Hỏa
(Mars) nằm trên một đường thẳng với
trái đất. Hiện tượng này
bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 12 năm 7
trước Công Nguyên. Chu kỳ của hiện tượng thiên văn này
(The threefold conjunction of planets) là một lần trong 805
năm. Vì cả 3 hành tinh nằm trên
một đường thẳng với trái đất nên
từ trái đất nhìn lên bầu trời ta có cảm
tưởng cả ba sao là một. Do ánh sáng tỏa
chiếu khiến sự tụ hội của ba vì sao đã
tạo thành một khối sáng lớn lạ thường
trên bầu trời. Lịch sử Ba Tư ghi nhận:
Sự kiện "sao lạ" này đã khiến cho dân
chúng khắp nơi xôn xao lo sợ vì họ cho đó là
dấu hiệu của ngày tận thế.
Matthew thấy chuyện "Sao
lạ" hấp dẫn nên đem vào Phúc âm để
biến sự ra đời tầm thường của
Jesus thành sự giáng sinh của một vị "thần
thánh siêu phàm". Cũng nhờ cái tài phịa
chuyện của Matthew nên ngày nay người ta
thường làm đèn ngôi sao nơi hang đá Noel hoặc
giăng đủ thứ đèn màu ở quanh nhà trong mùa
Giáng Sinh (Christmas season).
Đa số người Mỹ
hiện nay nghĩ gì về sự ra đời của
Jesus?
Có lẽ phần đông chúng ta
nghĩ rằng dân Mỹ là những người có tinh
thần thực dụng nhất thế giới, nhưng
trong thực tế thì đa số dân Mỹ hiện nay
vẫn còn tin vào Phúc âm (Thánh kinh Tân ước).
Đối với các tín đồ Phật Giáo thì sự
đản sinh của Đức Phật chỉ đơn
thuần có nghĩa là sự ra đời của
Đức Thích Ca mà thôi. Trái lại, đối với tín
đồ Ki-tô giáo – kể cả Công giáo lẫn Chính
thống và Tin Lành – thì sự ra đời của Chúa Jesus
chỉ là bước đầu trong chương trình thiêng
liêng của Thiên Chúa. Bước thứ hai là sự tái lâm
(sinh ra lại) của Chúa Jesus trong ngày tận thế,
rồi sau đó Nước Chúa sẽ "trị
đến" trên toàn địa cầu cho đến muôn
đời.
Để trình bày vấn đề này, tôi xin
mượn ý và tài liệu trong bài viết nhan đề
"Sự Giao Ước trong lễ Giáng Sinh" (The
Christmas Covenant) đăng trên tạp chí US News & World
Report, December 19-1994 pages 62-71). Ý niệm về
"Sự Giao Ước" giữa Thiên Chúa và loài
người là một ý niệm đặc biệt của
Do Thái giáo và Ki-tô giáo.
Khoảng năm 1250 TCN, Moises lập
đạo Do Thái đã đặt đạo này trên căn
bản một giao ước giữa dân tộc và Thiên Chúa:
"Dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là
Jehovah. Ngược lại Jehovah sẽ
chọn Do Thái làm dân riêng của Ngài". Khi Ki-tô giáo
được hình thành vào thế kỷ I, những
người sáng lập đã đưa ra một giao
ước bịa đặt mới giữa toàn thể
loài người và Thiên Chúa: "Chúa Jesus là con một
của Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu
chết chuộc tội thiên hạ. Ai tin Ngài sẽ
được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị sa
hỏa ngục đời đời".
Người Ki-tô giáo gọi sự giao
ước của đạo Do Thái là Cựu Ước
(Old Covenant/ Old Testament) và gọi giao ước mới
của đạo Ki-tô là Tân Ước (New Covenant/ New
Testament).
Người Mỹ da trắng
đều có nguồn gốc Âu châu, có lẽ vì vậy
đa số dân Mỹ đã bị ảnh hưởng
văn hóa Ki-tô giáo từ lâu đời. Theo báo US News
anh World Report thì hiện nay có tới 61% dân Mỹ tin
rằng: Sự giáng sinh của Chúa Ki-tô gắn liền
với lời tiên tri huyền nhiệm, đó là sự
phục lâm của Chúa Ki-tô. Đây chính là
biến cố của ngày tận thế và mở
đầu cho Nước Chúa trên trái đất này.
(61% of Americans believe that Jesus Christ will return to earth... The
comforting images of the Christmas season are linked to another more mysterious
prophecy: that of the apocalyptic Second Coming of Christ, a cataclysmic event
that will end history and inaugurate a divine kingdom on Earth – page 62).
Vào năm 1000, toàn thế
giới Ki-tô giáo sống trong hồi hộp lo sợ vì
đa số tín đồ tin rằng ngày Phục lâm của
Chúa Ki-tô đã đến. Sử gia Henri Focillon
viết rằng: hầu như mọi sinh hoạt ở Âu
châu bị ngưng lại vào cuối năm 999 vì mọi
người nghĩ rằng mình đang sống trong
"buổi chiều của thế giới" (an evening
of the World). Điều đáng ghi nhận là ngày 1-1-1000 toàn thể dân chúng trên
đảo Ieeland vì sợ ngày tận thế đã kéo nhau
xin rửa tội theo đạo hết.
Trong những năm cuối
thế kỷ 20, rất nhiều giáo phái Ki-tô lại ồn
ào tuyên truyền về ngày tận thế vì ngày tận
thế gắn liền với sự phục lâm của
Jesus và niềm hy vọng về "Nước Chúa trị
đến".
Giáo phái cuồng tín nhất là
The Seventh – Day Adventists (Giáo phái Cơ Đốc Phục lâm).
Những vụ tự sát tập thể ở Waco Texas, Hoa
Kỳ của nhóm Branch Davidians năm 1993, nhóm Solar Temple
ở Thụy Sĩ và Canada năm 1994 và nhóm Heaven Gate ở
San Diego California, Hoa Kỳ... đều
có liên quan đến giáo phái Cơ Đốc Phục lâm nói
trên.
Rất nhiều giáo sĩ
thuộc các giáo phái Ki-tô viết sách, viết báo hoặc rao
giảng tại nhà thờ để tiên đoán về ngày
tận thế. Tất cả đều
đã bị thất bại ê chề nhục nhã vì ngày
tận thế mà họ ồn ào rao giảng và quả
quyết đã không xảy ra. Tuy vậy,
giáo lý về sự Phục lâm của Chúa Ki-tô vẫn là
một niềm tin quan trọng trong đạo Công giaó
cũng như trong các giáo phái Tin Lành.
Trong tác phẩm Deceptions and Myths of the Bible (p.
423), Sử gia Mỹ Lloyd M. Graham đã phải than rằng:
"Trải qua 2000 năm, người Tây phương
vẫn chưa có đủ sự hiểu biết thực
tế để nhận ra niềm tin của mình là sai
trái"(For two thousand years, Western man has not sufficient knowledge of
reality to know that it is false).
Đó cũng là một
điều lạ nhưng có thực đối với
một quốc gia được gọi là văn minh.
Ngay cả sau ngày New York và Ngũ Giác Đài
bị khủng bố, bà H. Clinton, vợ của cựu
tổng thống Bill Clinton hát bài God Bless America (Chúa ban phúc
lành cho nước Mỹ). Chúa ban phúc lành cách sao mà Chúa không
cứu được, để hai tòa lâu đài và lầu
Năm Góc bị khủng bố làm sập và nhiều ngàn
người vô tội chết.
Những biểu tượng
của ngày lễ Giáng sinh đã biến chuyển như
thế nào?
Mặc dầu hiện nay sống trong
thời đại văn minh nhưng vẫn còn tới 61%
dân Mỹ có niềm tin Ki-tô (*) . Báo West Coast
Times, California. 24-5-1996, ký giả Paul Recer tường
thuật, "cuộc thăm dò căn bản về khoa
học, cho thấy rằng 75% dân Hoa Kỳ dốt nát
về khoa học và tài chánh, không quá 50% lớp tuổi
trưởng thành biết rằng quả đất quay
quanh mặt trời hằng năm" (75% get dunce caps in US,
quizzoes on science, finance, by Paul Recer, Washington. Less than half of
American adults understand that the earth or bits the sun yearly, according to
a basic science survey).
Vào thời kỳ nước Mỹ lập
quốc cách đây trên 200 năm, chắc chắn số dân
Mỹ có niềm tin Ki-tô còn cao hơn nhiều. Nhưng không
phải vì thế mà nước Mỹ lọt vào tay các nhà lãnh đạo cuồng tín. Từ vị tổng thống tiên khởi là
Washington
đến nay, hầu hết các vị lãnh đạo
tối cao của nước Mỹ đều là hội
viên bí mật của Hội Tam Điểm (Free Masonry).
Chủ trương của hội này là Chủ nghĩa Nhân
Đạo Thế Tục (Human Secularism) hoặc còn gọi
là chủ nghĩa Nhân Đạo Tự Do (Liberal Humanism).
Những người lãnh đạo Hoa Kỳ thấm
nhuần tư tưởng của các triết gia thuộc
Phong Trào khai sáng (Enlightenment) thế kỷ 18 ở Âu Châu và
kinh nghiệm đau thương về các cuộc chiến
tranh tôn giáo trên thế giới nên đã áp dụng chính sách
tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị. Điều này
được ghi rõ trong Tu Chính Án 1 và 14.
Chính quyền Mỹ không cấm đạo,
nhưng họ khôn khéo giáo dục và chuyển hóa tâm lý
quần chúng bằng nhiều phương cách hòa bình. Ngày nay, thay vì đi nhà thờ mừng lễ
Phục Sinh (Easter), người ta chỉ cần bày
trước cửa nhà mấy trái trứng nhuộm
đủ màu. Thay vì nộp tiền cho Cha cố
để xin lễ cầu hồn trong dịp Lễ Các
Thánh và Lễ Các Linh Hồn (31/10 và 1/11), người ta
chỉ cần trưng bày vài trái bí đỏ (pumpskin) hay
treo vài cái màng nhện, vài bộ xương người
giả trước cửa nhà cho vui.
Ở các nước Công giáo nghèo và lạc
hậu, biểu tượng của ngày lễ Noel
thường là đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng
giấy bồi có bộ tượng Noel.
Ở nước Mỹ này chúng ta không
thấy đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng giấy
bồi với những bộ tượng sinh nhật trong
dịp lễ Noel. Đi đâu chúng ta cũng chỉ thấy những
cây thông thật và giả, những con nai giả kéo xe
trượt tuyết và những ông già Noel bụng
phệ... Tất cả những thứ này
chẳng có liên hệ gì đến Jesus. Cũng như
ở các nhà thờ Mỹ chúng ta không thấy hang núi đá
Lộ Đức vì hang đá này là biểu tượng cho
hai tín điều Công giáo: "Tín Điều Đức Mẹ
Vô Nhiễm Nguyên Tội" và "Tín Điều Giáo Hoàng
không thể sai lầm"! Nhưng hai tín
điều này chỉ còn là niềm tin mà thôi. Còn thực tế thì đã có quá sai lạc, tôi
sẽ trình bày trong một dịp khác.
Biểu tượng thật sự cho Lễ
Giáng Sinh ở Mỹ là mùa thu hoạch
lợi tức của giới thương gia (businessmen’s
harverst), là kỳ nghỉ dài ngày để những
người đi làm xa về thăm gia đình hoặc
để vui chơi trong các cuộc truy hoan say sưa túy
lúy.
Nói rõ hơn Noel hay lễ Giáng sinh chỉ là
một ngày lễ truyền thống và mùa Tết
được nghĩ nhiều ngày, hơn là mang ý nghĩa
tôn giáo.
Tại nhiều quốc gia khác cũng
thế, ngay cả Nhật Bản nơi chỉ có 1% Tin
Lành, Công giáo không đáng kể, số còn lại là Phật
giáo nhưng họ cũng tổ chức mùa Noel rầm
rộ để bán hàng.
Còn tại Việt Nam, thanh niên nam nữ
cũng có dịp đổ ra đường trước
đêm Noel để vui chơi, và trong các vùng có nhiều tín
đồ Công giáo thì đó là ngày đau khổ nhất cho
loài chó, vì bị giết để ăn tiệc (reveillon).
Một điều không ai muốn nhưng
vẫn luôn luôn xảy ra là trong dịp lễ tạ ơn
(Thanksgiving) của Mỹ là ngày đau thương nhất
cho hàng chục triệu con gà tây bị giết và dịp
lễ Giáng sinh là hàng ngàn tai nạn lưu thông với
nhiều xác người trên xa lộ. Phải
chăng đó là một biểu tượng thực tế
của mùa Giáng sinh tại đất nước văn minh
số một của thế giới?
Charlie Nguyễn
(*) Tại Anh Quốc, cuộc thăm dò
(năm 2000) của tiến sĩ Peter Brieley về tín
đồ Công giáo và Tin Lành hằng năm đi lễ nhà
thờ (Church Attendance Survey) chỉ còn 7.5%. Ông tiên đoán
khoảng 40 năm nữa con số này chỉ còn 0.5%
nghĩa là Công giáo và Tin Lành không còn hiện hữu ở Anh
Quốc