CÁC YẾU TỐ HÌNH THÀNH KITÔ GIÁO
I.
CÁI NÔI DO THÁI
VỚI HUYỀN THOẠI KITÔ
Kitô Giáo là đạo thờ một người
Do Thái mang tên Jesus. Những người Kitô giáo là những người
gọi Jesus bằng Chúa.
Giáo lý đạo Kitô ra đời trong cái nôi của đạo
Do Thái. Nhưng đến khi
trưởng thành, Kitô giáo đã quay ngược lại dùng
bạo lực buộc mọi người Do Thái phải
từ bỏ Thiên Chúa của họ (Do Thái) để tôn
thờ đồng đạo của họ là Jesus.
Mặc
dầu nhà thần học Kitô Giáo rất nổi tiếng là
Tertullian đã viết:
"Một quyền căn bản và cũng là một
đặc quyền của tự nhiên là mọi người
đều được tự do thờ cúng tùy theo sự xác tín riêng của mình". Điều đó rất đúng,
nhưng người Kitô Giáo nói vậy mà không phải
vậy.
Trong
hành động, người Kitô Giáo luôn luôn biểu lộ
một thái độ bất khoan dung và đã thực
hiện các sự ngược đãi thật kinh
khủng. Họ
không yêu anh em láng giềng như lời dạy của Chúa
Jesus. Trái lại, đầu
óc của họ chất chứa đầy ắp những
thành kiến hẹp hòi, trái tim họ sôi
sục những niềm tin mù quáng, họ hành hạ người
Do Thái nhân danh Thầy của mình là một người Do
Thái!
Trên
đây là những lời than thở của một học
giả Do Thái, Leonard C. Yassen, suốt cả một đời
là nạn nhân của đạo Kitô. Ông đã viết
những lời than khóc trong bài tựa cuốn sách của
ông mang tên The Jesus connection to triumph over Anti-Semitism (The Crossroad
Publishing Co. 1995).
Leonard Yassen oán hận tính cực đoan của đạo
Kitô. Người Kitô Giáo đã
quên một điều: Thiên Chúa của Do Thái là Thiên Chúa
của Jesus. Kinh
Thánh Torah đã dạy mọi người đều là anh
em vì đều là con của Adam (Bene Adam). Chỉ vì mù quáng và lòng tự
phụ, người Kitô Giáo đã biến các sách Phúc Âm
của Tình yêu thành những Phúc Âm của hận thù. Tất cả mọi tội ác đều
phát xuất từ ý muốn tách rời đạo Kitô ra
khỏi cái nôi Do Thái của nó!
Tác
giả viết: "Chính sách đầy thành kiến nói trên
đưa đến quyết tâm xóa bỏ Do Thái. Hành động loại trừ
nảy sinh lòng tự cao tự đại nơi những
kẻ quá khích và dẫn họ đến tội ác bạo
lực và diệt chủng" (This policy of prejudice results in
exclusion and exclusion confers sense of superiority to extremists that can end
in violence and genocide).
Người
Do Thái là những kẻ lót đường cho sự
xuất hiện của Kitô Giáo bằng những ý niệm
về Thiên Chúa Toàn Năng và quỉ Satan chuyên nghề cám
dỗ, về Thiên Đàng vui sướng vô cùng và lửa
hỏa ngục cháy muôn đời muôn kiếp không cần
nhiên liệu, về ngày tận thế với những vì
sao trên vòm trời rụng xuống như mưa và xác định
loài người từ mọi chân trời góc bể nghe được
tiếng kèn của thiên thần lổm ngổm bò dậy để
nghe Thiên Chúa xét xử công tội trong ngày phán xét cuối
cùng. Nếu đạo Do Thái
chỉ cung cấp cho đạo Kitô những ý niệm trên
không thôi thì đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Khổ nổi, đạo Do Thái
lại đẻ ra huyền thoại Chúa Cứu Thế mà
tiếng Do Thái gọi là Messiah, Hy Lạp dịch thành
Christos, nên phải lãnh đủ mọi hậu quả tai
hại vượt ngoài mọi dự tưởng. Người Kitô giáo bảo
rằng: Jesus là Chúa Christos, là
Messiah mà các tổ phụ (tiên tri) Do Thái Abraham, Moses, David,
Salomon, Isaiah... đã mỏi mòn mong đợi từ lâu. Người Do Thái cho tới nay
vẫn mong đợi Chúa Cứu Thế Christos ra đời. Họ không coi Jesus là
kẻ thù nhưng không nhận Ngài là đấng Messiah - Christos. Trải qua gần 2000 năm
lịch sử của đạo Kitô, biết bao triệu
người Do Thái đã chết thảm chỉ vì cái
tội chối bỏ Jesus là Thiên Chúa Kitô Leonard Yassen gọi
đạo Kitô là cái Boomerang khủng khiếp của dân
tộc Israel. Cuối cùng, tác
giả phải than một lời não nùng khiến mọi người
cảm thấy buốt tim: "Ôi,
nhiều triệu sinh mạng Do Thái và biết bao triệu
sinh mạng khác của nhân loại vẫn không đủ đền
mạng cho một nhân vật thần thoại Kitô!"
II.
CÁI LÒ THẦN
THOẠI HY LẠP ĐẺ
RA KINH THÁNH TÂN ƯỚC VÀ THUYẾT NGÔI
LỜI NHẬP THỂ.
Từ
xa xưa, Hy Lạp đã nổi danh là một cái kho
khổng lồ của thế giới về đủ
loại chuyện thần thoại.
Đặc tính của các chuyện
thần thoại này là người có thể biến thành
thần hoặc thần biến thành người. Người Hy
Lạp có truyền thống ước mơ một vị
thần linh đầy quyền phép sẽ từ trời
xuống thế làm người để cứu họ
thoát khỏi cuộc sống trầm luân phàm tục. Cuối thế kỷ I trước
Công Nguyên, một sản phẩm thần thoại mới
của Hy Lạp được ra đời là Thần
NGÔI LỜI , tức thần LOGOS, có
nghĩa Thần Nói Ra Lời (Word / La Parole). Thần Logos được mô
tả là một Chúa Cứu Thế từ trời đầu
thai vào một thân xác con người (A
Savior God appearing in the flesh of a human personality).
Trùng
với thời gian đạo Kitô vừa đươc
truyền tới Hy Lạp từ Do Thái, một số nhà văn
Hy Lạp đã gán chuyện thần thoại Logos mới
mẻ này vào nhân vật Jesus và biến Jesus thành "Chúa Kitô
Ngôi Lời Nhập Thể".
Các nhà văn này lấy các tên giả là
tên những môn đệ của Jesus. Có tới 10 cuốn sách viết
về Jesus-Kitô pha trộn với
thần thoại và triết lý Hy Lạp. Cuối cùng, Kitô Giáo đã gạn
lọc vứt bỏ những cuốn không phù hợp và
chỉ chọn 4 cuốn trong số những sách nói trên mà
thôi. Đó là các cuốn sách được
mệnh danh là Kinh Thánh Tân Ước, hoặc các sách Phúc Âm
(Gospels = Good News) mang các tên giả mạo là Mark, Mathew, Luke và
John. Thêm vào đó
là cuốn "Tông đồ Công vụ" (Acts of Apostles)
kể về công cuộc giảng đạo của Paul. Những cuốn sách này là rường
cột của đạo Kitô, chủ yếu mô tả 3 năm
cuối đời Jesus, đề cao cái chết và sự
sống lại của Ngài nhằm mục đích cuối
cùng là đưa Jesus lên thành Thiên Chúa toàn năng. Đạo Kitô được hình
thành và trở nên một tôn giáo mới tôn thờ nhân
thần theo tinh thần Hy Lạp. Kitô Giáo là kết quả tổng
hợp giữa huyền thoại Kitô của Do Thái và
thần thoại Logos của Hy Lạp.
III. KHOA THẦN HỌC VIỄN TƯỞNG TÂY PHƯƠNG
Sau hơn một thế kỷ hình thành
và phát triển, giáo lý của đạo Kitô đã được
khuếch đại thêm do sự giải thích của các lý
thuyết gia tôn giáo được mệnh danh là các nhà
thần học. Giữa
thế kỷ 2, Kitô giáo bị phân ra 3 giáo phái:
1. Gnosticism. (Phái Tư Ngộ): Tại
Ai Cập và Tiểu Á, một nhóm Kitô Giáo đưa ra
chủ trương phủ nhận Thiên Chúa Jehovah của Do
Thái. Họ phân biệt thế
giới gồm 2 phần: tinh
thần và vật chất. Đối
với họ, con rắn trong Vườn Địa Đàng
là một vị thần khôn ngoan muốn giúp tổ tiên loài
người là Adam và Eve trở nên khôn ngoan sáng suốt
bằng cách ăn quả của cây Hiểu Biết (The Tree
of Knowledge). Con rắn không
phải là quỉ mà là một đại ân
nhân của loài người.
Adam và Eve chỉ vì quá sợ Jehovah đã không dám ăn trái cây Hiểu Biết nên loài người
phải đau khổ vì không thoát ra khỏi sự ức
chế của ác chúa Jehobah.
Jesus là thần Logos xuống
thế làm người, dạy loài người những điều
khôn ngoan để thoát khỏi sự trầm luân của
thế giới vật chất và để được
hưởng sự bất tử về tinh thần. Họ coi kinh thánh Do Thái là hoàn toàn
vô giá trị và Jehovah không khôn ngoan bằng Logos. Danh từ Gnostic có
nghĩa là sự hiểu biết đích thực. Họ tin Chúa Jesus là
thần linh (spirit) nên Chúa không thực sự sinh ra mà
chỉ nhập thể (incarnate). Chúa không đau
khổ trên thập giá vì Chúa là tinh thần. Chúa cũng không cần sống
lại vì Chúa không bao giờ chết cả!
2. Marciosine.
Giáo phái này do Marcion, một tín đồ Kitô Giáo ở
Rome lập
ra. Marcion chủ trương
hủy bỏ việc tôn thờ Thiên Chúa Jehovah của Do
Thái vì Jehovah là một Thiên Chúa dữ tợn, hay thiên vị
và vô nhân đạo. Jehovah
chỉ là một vị thần đã sáng tạo thế
giới vật chất nhưng tinh thần lại rất
thấp kém, về đạo đức lại còn thấp
kém hơn nữa. Jehovah không đáng được gọi là Thiên Chúa. Thiên Chúa thật phải là Thiên
Chúa của lòng yêu thương và tha thứ (The Real God is a God of Love and
Mercy). Marcion hô hào
mọi người từ bỏ Jehovah và chỉ tôn thờ
Jesus vì chỉ có Ngài mới là Thiên Chúa thật.
3. Irenaeus.
Vào năm 185 sau Công nguyên, giám mục
tại thành phố Lyon (Pháp) tên là Irenaeus xuất bản
cuốn sách "Against the Heretics" kết tội hai giáo
phái Gnosticism và Marcionism. Ông kêu gọi các giáo hội Kitô tại Âu Châu
cận đông và Bắc Phi hãy tẩy chay hai giáo phái nói trên
và gọi các giáo phái này là tà giáo. Ông chủ trương công
nhận Kinh Thánh Do Thái là Cựu Ước với Jehovah là
Chúa Cha, công
nhận Kinh Thánh Tân Ước với Chúa Jesus là Chúa Con. Điều quan trọng nhất
là Irenaeus đưa ra một bản dự thảo Đức
Tin của các thánh tông đồ (The Apostles'Creed)
"Tôi
xin Đức Chúa Cha Toàn Năng, Chúa Jesus là con một Thiên
Chúa. Ngài được sinh ra bởi Đức
Chúa Thánh Thần và Bà Maria đồng trinh.
Ngài chịu đóng đinh dưới
thời gian Pilate, chết và được táng xác, ngày
thứ 3 Ngài sống lại lên trời ngự bên hữu
Chúa Cha. Ngài sẽ xuống thế gian phán xét
kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin Chúa Thánh Thần, Hội
Thánh, phép tha tội và sự sống lại của kẻ
chết".
Cuốn sách "Against the Heretics" và bản
dự thảo kinh Tin Kính của nhà thần học Pháp
Irenacus (gốc Ả Rập) đã lót đường cho
sự hình thành nền tảng giáo lý đạo Kitô như
ta thấy hiện nay.
IV. THAM VỌNG CHINH PHỤC TOÀN CẦU CỦA ĐẾ
QUỐC LA MÃ
Tất
cả các yếu tố huyền thoại và thần học
của đạo Kitô sẽ chẳng ra gì nếu không có
sự can thiệp tích cực của đế quốc La
Mã, nói đúng hơn là tham vọng chinh phục toàn cầu
của Hoàng Đế La Mã Constantine.
Lịch
sử cho ta thấy Ki Tô Giáo đã
trở thành một tôn giáo thuần nhất là do ý muốn
riêng của hoàng đế Constantine vào đầu
thế kỷ IV. Có thể nói đạo Kitô là đạo của
Constantine. Nếu không có Constantine, Kitô Giáo có
thể đã bị tiêu diệt hoàn toàn vào đầu thế kỷ 4 vì trước đó
Kitô Giáo đã bị bách hại suốt trên 150 năm do
lệnh cấm đạo gay gắt của các hoàng đế
tiền nhiệm. Nguyên nhân chính yếu dẫn đến sự
cấm đạo này hoàn toàn có tính chất chính trị. Nguyên vào năm 160, đế
quốc La Mã bị quân Hung Nô tấn công tại các vùng sông
Danube và sông Rhin, các tín đồ Kitô Giáo đã tiếp tay cho quân Hung Nô chống La Mã. Hoàng đế La Mã
Marcus Aurelius vô cùng tức giận bèn ra lệnh cấm đạo
Kitô và giết rất nhiều tín đồ của đạo
này. Việc
cấm đạo kéo dài từ đó đến cuối
thế kỷ III trong khắp lãnh thổ của đế
quốc La Mã. Khoảng năm 250, hoàng đế Decius ra lệnh
truy lùng và giết hết các tu sĩ Kitô Giáo tại
Rome và
Antioch. Phần đông các tín đồ
Kitô tại Rome bị ném vào các đấu trường cho
thú dữ ăn thịt, một số ít còn lại bỏ đạo
thần phục nhà vua, một số khác bỏ trốn vào
các hang bí mật. Cuối
thế kỷ III, hoàng đế Valerian ra lệnh triệt
hạ mọi giáo đường lớn nhỏ của đạo
Kitô trên toàn lãnh thổ đế quốc, tịch thu và đốt
hết các sách kinh, các tài sản khác của giáo hội
bị tịch thu. Kitô Giáo gần bị tiêu diệt hoàn toàn vào giai đoạn
lịch sử này. Vừa lúc đó thì Constantine lên ngôi
hoàng đế. Tuy
Constantine theo đạo của cha là Đa
Thần Giáo La Mã nhưng lại rất tôn trọng mẹ
là một tín đồ Kitô Giáo.
Constantine ngạc
nhiên nhận thấy nhiều tín đồ Kitô sẵn sàng
chấp nhận cái chết chứ không chịu bỏ đạo. Constantine tuy không theo đạo Kitô nhưng có quyết tâm
biến đạo này thành một công cụ hữu
hiệu để chinh phục thế giới (như đã
trình bày ở một đoạn trước). Y tuyên bố: "Dưới dấu hiệu
thập giá, ta sẽ chiến thắng". (IN
HOC SIGNO VINCES).
Năm 325,
Constantine ra
lệnh trả lại toàn bộ tài sản cho giáo hội
Kitô và cho phép giáo hội thủ đắc thêm rất
nhiều tài sản khác.
Constantine lấy công quỹ xây cất nhiều nhà thờ đồ
sộ và buộc các dân ngoại đạo phải đóng
tiền cho công việc này.
Ngày Chủ nhật trở thành ngày nghỉ lễ chính
thức trong toàn đế quốc (Chrisian Sunday is a legal
holiday of the empire). Constantine quan
tâm đến việc thống nhất giáo lý đạo
Kitô, biến đạo này thành một tôn giáo thuần
nhất để tạo sức mạnh chinh phục. Vào mùa hè năm 325, Constantine
triệu tập hội nghị Nicaea tại Thổ Nhĩ
Kỳ, qui tụ trên 300 giám mục trong toàn đế
quốc để thông qua bản dự thảo Kinh Tin Kính
của Irenaeus. Hội nghị
đã thêm vào bản dự thảo của Irenaeus một
số điều:
- Đức Chúa Cha dựng nên trời đất,
muôn vật vô hình và hữu hình.
- Đức
Chúa Con bởi Đức Chúa Cha mà ra, có cùng bản chất
với Chúa Cha như ánh sáng bởi ánh sáng.
Chúa Con cùng với Chúa Cha tạo thành muôn vật. Hội nghị Nieaca
cũng như bản dự thảo của Irenaeus đều
không nhắc tới Ngôi Lời (Logos). Sau hội nghị Nicaea, mọi
tín đồ Kitô phải tuân theo các điều
ghi trong Kinh Tin Kính, ai bất tuân đều bị sát
hại. Nhờ đó
Kitô Giáo trở thành một tôn giáo thống nhất và mau
chóng phát triển thành tôn giáo chính thức của toàn đế
quốc. Năm 383, Kitô
Giáo được đế quốc La Mã đổi tên
thành Công Giáo (Catolica). Theo nguyên
nghĩa tiếng La Tinh, Công Giáo không phải là đạo
chính thức (official) của quốc gia hay của đế
quốc mà có ý nghĩa toàn cầu (Universal). Đế quốc La Mã có tham
vọng dùng Kitô Giáo làm lợi khí chinh phục toàn thế
giới, vì một khi toàn thể thế giới theo đạo Kitô, nhân loại sẽ trở
thành một tập thể tín đồ trung thành tuyệt đối
với đế quốc La Mã.
Tham vọng thâm độc này của đế
quốc La Mã đã không thành.
Năm 1054, các giáo hội Kitô Hy Lạp và Đông Âu
chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã vì họ đã
nhận thức được tham vọng bành trướng
lãnh thổ núp bóng tôn giáo của đế quốc. Sự tách rời này
đã phân hóa Kitô Giáo thành hai giáo hội Đông Phương
và Tây Phương.
Trong
tác phẩm Man's Religions, tác giả John B Noss viết:
"Công Giáo Tây phương mang ý nghĩa toàn cầu với
ý định bành trướng lãnh thổ của giáo
hội ra khắp thế giới (Catholic in the West has required
the meaning of extension of Universal in the sense of the geographical the
church throughout the World - p. 457).
Đầu
thế kỷ XVI, Hoàng đế Anh quốc Henry VIII chính
thức tách rời giáo hội Anh quốc khỏi công giáo La
Mã để bảo vệ nền độc lập
quốc gia. Năm 1539,
quốc hội Anh thông qua đạo luật qui định: Vua nước Anh là người đứng
đầu giáo hội Anh, có quyền bổ nhiệm các giám
mục để cai quản các con
chiên. Linh mục được
phép lấy vợ. Người Anh sử dụng Kinh Thánh bằng
tiếng Anh. Năm 1559,
quốc hội Anh thông qua đạo luật Act of Unifomity
ban hành việc thống nhất các kinh sách cầu
nguyện: The Book of Common
Prayers.
Song
song với phong trào độc lập dân tộc (vào thế
kỷ 20), nhiều giáo hội Kitô thuộc Châu Phi và Châu
Mỹ La Tinh đã chấp nhận nền thần học
giải phóng nhằm phục vụ hạnh phúc con người
và độc lập dân tộc, họ đã tuyên bố tách
rời khỏi giáo quyền của Vatican và bớt lệ
thuộc vào các giáo điều hủ lậu cứng
nhắc của cái gọi là Công Giáo La Mã. (Roman Catholic Church).