NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA
1. Thiên Chúa Độc Thần Giáo là đàn ông da trắng, lắm điều hơn đàn bà và độc ác hơn dã thú.
Thiên Chúa là sản phẩm tưởng tượng
của người da trắng nên Thiên Chúa (God of the Bible)
mang hình ảnh của một ông già da trắng. Các ảnh tượng
của Kitô Giáo về Thiên Chúa Ba Ngôi thường có trong các
gia đình Công Giáo đã chứng tỏ điều đó.
Đức Chúa Cha, tức Thiên Chúa Jehovah
của đạo Do Thái, là hình ảnh một ông già rậm
râu sâu mắt, mũi lõ mắt xanh.
Theo cuốn sách nói về các chủng
tộc với tựa đề Raciologie Anthropologie Physique
của A. Carnoy, in năm 1921, thì Dân Da Trắng gồm có 3
chủng:
a) Chủng
Hamite thủy tổ của Ai Cập.
b) Chủng
Semite thủy tổ của Do Thái và Ả Rập.
c) Chủng
Ấn Âu thủy tổ La Mã, Hy Lạp và người Âu
thuần chủng (không lai).
Người da trắng tôn thờ Thiên
Chúa da trắng của họ và họ tự tôn cho rằng
họ là những người cao quí vì họ mang hình
ảnh giống Thiên Chúa của họ. Các dân tộc da màu là những
hạng người thấp kém mọi rợ, nhất là
giống dân da đen bị người da trắng coi như
chỉ hơn loài vật chút đỉnh. Thậm chí có nhiều người
da trắng cho rằng người da đen không có linh
hồn nên người da trắng có quyền bắt làm nô
lệ hoặc đem bán hay giết như súc vật
vậy.
Trong cả ba đạo Thiên Chúa (Do Thái , Kitô, Hồi) Đấng Tối Cao luôn
luôn được hình dung là một người đàn ông.
Có thể định nghĩa Thiên Chúa là
một Đàn Ông Toàn Năng (The Male Almighty). Mỗi khi nói về Thiên Chúa, người
da trắng luôn luôn dùng các từ thuộc giống đực
(gramatically masculin) như He, His, Father, Son... Trong tác phẩm
Người Công Giáo Tỉnh Ngộ (The Recovering Catholic, 288
trang, Promethus Books xuất bản 1995), tác giả Joanne H.
Meehl, một người tích cực tranh đấu cho
nữ quyền Hoa Kỳ, đã viết: "Quyền
lực của đàn ông chứ không phải quyền năng
của Chúa vẫn tồn tại trên đời này, Thiên
Chúa chỉ là hậu quả của lòng ham muốn thống
trị của nam giới mà thôi". (The power of man, not God,
still exists. God is merely a backdrop to man's rulings).
Hồi Giáo và Công Giáo La Mã luôn luôn
chống lại việc phong chức thánh (priests) cho phụ
nữ. Hai tôn giáo này chống đối
nhau nhưng lại đoàn kết trong chủ trương
kỳ thị phụ nữ (they united in their misogyny). Trong cuộc họp tháng 9/94
tại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về
vấn đề dân số, các đại biểu Hồi
Giáo và Công Giáo đồng nhất với nhau chống
lại mọi biện pháp kiểm soát dân số thế
giới.
Cuộc đấu tranh của họ
cho cái gọi là Quyền Sống (Right to Life) thực
chất là đấu tranh cho sự sống còn của tôn
giáo mà thôi (struggle for the "Right to Life" is actually a struggle
for the survival of their religions). Thiên Chúa Giáo chẳng qua chỉ là một chế độ
độc tài tự xưng là tôn giáo (a dictatorship claiming to
be a religion). Phong trào đấu tranh của phụ nữ đòi
hỏi kiểm soát sinh đẻ nhằm mục đích
nhân đạo. Tội
lỗi thực sự là sự sinh con bừa bãi để
rồi sống nheo nhóc vì cha mẹ không có đủ khả
năng săn
sóc và dạy dỗ chúng cho chu đáo.
Hồi Giáo và Công Giáo La Mã là những
kẻ đạo đức giả chống phụ nữ
nhằm bảo vệ quyền lực, giới lãnh đạo
các tôn giáo này hoàn toàn là đàn ông.
Tòa Thánh La Mã rêu rao rằng Chúa Jesus cũng chỉ
chọn các tông đồ của Ngài là đàn ông nên tòa thánh
cũng theo gương Chúa không truyền
chức linh mục cho đàn bà.
Thiên Chúa Giáo quan niệm Thiên Chúa là đàn
ông nhưng vị đàn ông toàn năng này lại lắm điều
(talkative) còn hơn đàn bà.
Các sách Kinh Thánh, từ Cựu Ước, Tân Ước
đến Koran, tất cả đều được
coi là những cuốn sách ghi chép Lời Chúa (Words of God). Những lời
của Chúa được viết trong rất nhiều sách
khác nhau với những ý tưởng mâu thuẫn đối
nghịch nhau. Giáo hội
chọn lựa bằng cách bầu cử trong các cuộc
họp của giới lãnh đạo được
mệnh danh là Công đồng, như công đồng
Nicaea năm
325 chẳng hạn. Cuốn
sách được chọn theo đa
số trở thành Thánh Kinh rồi gán cho nó là ghi chép lời
Chúa. Sách ghi
lời Chúa bị công đồng bác bỏ trở thành sách
rối đạo (heretics) ghi chép lời của quỉ
Satan.
Thomas Paine đã viết: "Những cuốn sách đó
(Cựu Ước và Tân Ước) đã được
bầu để trở thành Lời Chúa. Nếu họ
bầu khác đi thì mọi người tự nhận là
Kitô Giáo đã chẳng tin theo cách khác rồi sao!"
(Those books were voted to be the Word of God.
Had they voted otherwise, all the people, since calling themselves
Christians, had believed otherwise! (Selected Work of Thomas
Paine, The Age of Reason, p. 293).
Trong thế kỷ đầu Công Nguyên,
có tới trên mười cuốn sách viết về Jesus nhưng
công đồng Nicaea chỉ chọn 4 cuốn làm Lời Chúa. Nhưng trong 4
cuốn này cũng chứa đầy những mâu thuẫn
và những điều phản lý trí. Do đó, giáo hội Công Giáo dành độc
quyền giải thích Lời Chúa để quyết định
là lời nào Chúa nói đúng và lời nào Chúa nói bậy. Chẳng hạn Chúa Jesus nguyền
rủa những người giàu: "Kẻ giàu vào nước
thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Giáo hội và giáo hoàng sống trong xa hoa phú quí
chẳng lẽ cũng bị Chúa nguyền rủa sao? Giáo hội giải thích
"lỗ kim" mà Chúa đề
cập tới không phải là lỗ kim của thợ may mà
là một cái cổng của thành Jerusalem có tên là
Lỗ Kim (The Needle-Hole Gate). Các
nhà sử học lừng danh thế giới và các nhà khoa
học khảo cổ đã tìm mỏi mắt mà vẫn chưa
thấy một tài liệu nào nói về cái "Cổng thành
Lỗ Kim" ở Jerusalem!
Đạo
Do Thái nói các Lời Chúa được Chúa truyền
thẳng cho Abraham và Moses (Mai-sen) mặt đối mặt
(face to face). Đạo Kitô nói
các thánh sử (các tác giả Tân Ước )
được ơn của Chúa Thánh Thần soi sáng. Riêng St. Paul (Phaolô), không phải là
môn đệ theo Chúa lúc Ngài còn sống, đã
tự ý viết những bức thư giải thích mọi
vấn đề của đạo Kitô Nguyên Thủy. Những bức thư
của Paul được xếp vào bộ sách Tân Ước
và là rường cột của đạo Kitô. Những lời của Paul đã
trở thành Lời Chúa! Không
một tông đồ nào của Chúa, kể cả Phêrô, được
giáo hội Kitô tôn trọng bằng Paul. Thậm chí cuốn
Phúc Âm của Phêrô (Gospel of Peter) bị coi là tà đạo
(heretic) và bị bác bỏ.
Các học giả ngày nay đã không
lầm khi họ gọi đạo Kitô là thần học
của Phaolô. (The Pauline theology).
Vài điểm cần để ý:
a) Đạo Hồi cũng nói kinh Koran
ghi chép lời Chúa do thiên thần Gabriel đọc cho Muhammad
viết ra. Thiên
Chúa quả là ưa lắm điều nhiều chuyện
(talkative) nhưng Ngài đã chọn Muhammad là người
cuối cùng trên thế gian để nghe và ghi chép tốc ký
những lời Chúa phán. Từ đó đến
tận thế, Thiên Chúa cấm khẩu luôn và đã xin
thề từ nay "em" không muốn nói thêm một điều
gì nữa. Tất cả
các lời của Chúa đều đã được ghi
chép đầy đủ, nói đúng hơn là quá thừa
mứa, trong các sách thánh kinh của ba đạo thờ
Thiên Chúa nói trên.
b) Tính tình của Thiên Chúa thay đổi
bất thường. Thánh Kinh cho thấy, mỗi khi gặp
chuyện trái ý, ngài nổi giận đùng đùng và trở
nên ác độc còn hơn cọp beo linh cẩu. Vì oán giận hai thành phố Sodoma
và Gomorah có nhiều người không tôn thờ Chúa nên Chúa đã
đổ lửa từ trời xuống thiêu hủy hai
thành phố này, trong đó có biết bao nhiêu người vô
tội phải vạ lây (mèo ốm phải đòn, mèo con
phải vạ). Chúa cũng là một kẻ có tính thiên vị. Ngài chọn Do Thái làm dân riêng
của Ngài vì Ngài muốn như vậy chứ không phải
vì dân Do Thái đạo đức hay tốt lành hơn các
dân tộc khác. Ngài tìm cách
cứu Do Thái vượt qua Biển Đỏ thoát khỏi
ách nô lệ Ai Cập bằng cách giết hết các con trai đầu
lòng của dân Ai Cập để buộc vua Ai Cập vì
xót thương dân tộc mình nên đành phải chấp
thuận cho dân Do Thái rời Ai Cập lên đường
tìm tự do !.
Thiên Chúa cũng không biết trước
tương lai khi Ngài muốn thử lòng Abraham để
xem Abraham có tôn thờ Ngài trên hết mọi sự không. Bà Sarah,
vợ của Abraham, lúc đã ngoài 70 tuổi mà không có
con. Chúa hứa hai vợ
chồng Abraham sẽ có con trai nối dõi làm cho hai vợ
chồng Abraham phải phì cười. Nhưng phàm việc
gì Chúa đã hứa thì Chúa làm, chỉ ít lâu sau quả nhiên
vợ chồng Abraham sinh ra một đứa con trai (Thánh
Kinh nói như thế). Đứa
bé được đặt tên Isaac có nghĩa là Tiếng Cười
(Laughter). Khi đứa bé
lớn lên thành một thiếu niên thông minh tuấn tú được
cha mẹ hết lòng yêu thương thì Chúa ra lệnh cho
Abraham phải mang con lên núi. Chúa truyền lệnh cho Abraham
phải tự tay đâm chết con trai
yêu quí của mình và hỏa thiêu nó để cúng tế
Ngài. Abraham dấu dao trong mình
và bắt Isaac phải còng lưng vác một bó củi
lớn theo cha lên núi. Lúc chuẩn bị xong đống
củi, Abraham rút dao ra sắp sửa giết con một mình
để làm đẹp lòng nhân lành của Chúa thì Chúa phán như
hề cải lương : "Khoan, Ta đã
hiểu lòng con chí tình chí hiếu . . .", và Chúa ra lệnh
cho Abraham đừng giết con mình nữa kẻo tội
nghiệp. Abraham rất
biết ơn về lòng nhân từ vô lượng của
Chúa nên đã dùng một con dê làm vật hy sinh thế
mạng con mình để tế thờ Thiên Chúa. Vì vậy
nhân loại mới có danh từ "Con Dê Tế Thần"
(The Scapegoat).
Chúa Jesus là
con Một của Thiên Chúa nhưng Chúa cũng không thương
xót mà bắt buộc Jesus phải chết mới tha cho loài
người cái tội tổ tông (origianal sin). Dù Jesus đã phải
chết thảm trên thập tự giá nhưng loài người
cũng chỉ được tha tội trên danh nghĩa mà
thôi vì thực tế loài người vẫn phải gánh
chịu mọi hậu quả của tội tổ tông (đàn
ông phải vất vả mới kiếm được
miếng ăn, đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau). Cái chết của Jesus chẳng có
ích lợi gì cho loài người trên thực tế vì Jesus
chỉ có khả năng xin Thiên Chúa tha "tội tổ
tông huyền thoại nhảm nhí "mà không có khả năng
làm Thiên Chúa nguôi giận hủy bỏ hình phạt buộc
con người phải sống đau khổ tại
thế gian vì cái tội mà tổ tông loài người đã
phạm với Chúa. Chúa là
một sinh vật thù dai vô duyên nhất
trong vũ trụ!
Tại sao người ta phải
tạo ra một Thiên Chúa độc ác như vậy? Lý do khiến người ta
biến Thiên Chúa thành một Ông Ngáo Ộp, cốt để
hù dọa những kẻ ngây thơ, lúc nào cũng tự
nhận mình là kẻ có tội (Sinner) và chỉ có Giáo
Hội Công Giáo La Mã mới có đủ khả năng và
thẩm quyền xin Chúa tha tội cho mà thôi! Giáo hội sẽ tha
hồ độc chiếm quyền lực và hưởng
lợi. Đúng như
Thomas Paine đã viết:
"Tất cả các định chế giáo hội,
bất kể là đạo Do Thái, Kitô hay Hồi Giáo (như
Hồi Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn) đối
với tôi chỉ là những phát minh của con người
mà thôi. Những định
chế đó được đặt ra chỉ nhằm
khủng bố, nô lệ con người và độc
chiếm quyền lực để hưởng lợi
" (All national institutions of Churches, whether Jewish, Christian or
Turkish (Islam), appear to me no other than human inventions, set up to terrify
and enslave mankind and monopolize power and profit -
The Selected Work of Thomas Paine, p. 285).
-
Tín đồ Thiên Chúa Giáo cuồng tín và hiếu sát.
Kinh Thánh Cựu Ước kể
rằng: Sau khi đoàn người
Do Thái được Chúa cứu bằng cách hóa phép cho nước
Biển Đỏ rẽ ra thành đường đi an
toàn dưới đáy biển, đoàn quân Ai Cập
chạy đuổi theo đã bị Chúa hóa phép cho nước
biển ập lại bị chết đuối hết,
thánh Moses đã quì xuống dang hai tay lên
trời ca ngợi Chúa là "Thiên Chúa của các đạo
binh" (God of the Armies) chẳng khác nào thần chiến
tranh Mars của thần thoại Hy Lạp. Một khi Thiên Chúa đã là một
vị thần chiến tranh, tất nhiên các tín đồ
thờ Chúa phải trở thành các chiến sĩ của đức
tin hiếu chiến và hiếu sát!
Suốt thời gian 150 năm, từ
1006 đến 1254, Công Giáo La Mã đã gây 6 cuộc thánh
chiến tiêu diệt Hồi Giáo.
Cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp giữa Công Giáo
và Tinh Lành kéo dài 32 năm (1562-1594) khiến cho hàng chục ngàn
người Tin Lành bị giết.
Người Do Thái bị Công Giáo tiêu diệt nhiều đợt
đến gần tuyệt chủng (sẽ được
trình bày chi tiết trong một cuốn sách khác).
Toàn Âu Châu đã bị tắm máu với
trên 300 năm tác oai tác quái của tòa án xử dị giáo
(Inquisitions) với đủ thứ cực hình dã man như
thiêu sống trên dàn hỏa, trấn nước, xẻo
thịt... những người không tin hay nói khác Kinh Thánh. Năm
1514, nhà thiên văn học đại tài Copernic đã
viết ra cuốn Traité des Revolutions Célestes, tuy chỉ có 20
trang thôi nhưng được hậu thế coi là một
trong những cuốn sách đầu tiên khám phá ra sự
thật trái đất quay quanh mặt trời. Copernic không dám công bố cuốn
sách quan trọng này vì sợ bị đem lên dàn hỏa thiêu
sống bởi tòa án dị giáo của
Giáo Hội Công Giáo. Hơn
một trăm năm sau, Galilee (1562-1642)
đã dựa vào tài liệu của Copernic và khai triển
thành thuyết thái dương hệ. Lúc đó người ta mới
biết Copernic đã dấu cuốn sách của ông 30 năm
trong bí mật, trước khi chết, ông trao cuốn sách
lại cho bạn thân với lời căn dặn chỉ được
xuất bản sau khi ông đã chết mà thôi (a posthumous
book). Bản thân Galilee đã
bị tòa án dị giáo dọa thiêu sống, ông đành
phủ nhận thuyết thái dương hệ và ông
chỉ bị giam lỏng đến chết.
Tội ác của Công Giáo La Mã đối
với các dân tộc Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh kể
ra bằng nhiều cuốn sách cũng chưa đủ nói
hết. Đạo
Hồi cũng chẳng thua kém gì về sự tàn bạo. Danh từ "ASSASSIN" là do tên
của một giáo phái Hồi Giáo mà ra. Nguyên vào thế kỷ thứ 11,
giáo phái Hồi Giáo Hassan chiếm thành phố Alamut (Ba Tư). Sau đó giáo phái này dùng bạo
lực truyền đạo Hồi ra khắp Ba Tư, Iraq và Syria. Giáo phái này nổi danh khắp
thế giới về lòng cuồng tín và luôn luôn sẵn sàng
tự sát (the suicidally fanatic devotion).
Đầu thế kỷ 12, nhiều người Âu
Châu đi du lịch tại các nước Hồi Giáo nói
trên đã được chứng kiến nhiều cảnh
tượng kinh dị. Khi có
nhiều du khách đến thăm những pháo tháp (turrets)
của đền thờ Hồi Giáo, các giáo chủ thường
chỉ cho họ thấy người lính Hồi Giáo đang
đứng gác trên tháp và hỏi:
"Qúi vị có nhìn thấy người lính của
tôi đang đứng trên tháp không?". Mọi con mắt của du khách đổ
dồn về người lính đó. Giáo chủ nói "Hãy coi đây"
đồng thời dùng tay ra
hiệu. Ngay lập tức, người
lính gác cúi đầu chào và nhảy xuống đất
từ ngọn tháp cao, chết liền tại chỗ để
cho du khách xem.
Những câu chuyện trên đã biến
thành những cuốn tiểu thuyết kinh dị phổ
biến tại Âu Châu.
Ít lâu sau, Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Ba
Tư và Iraq, giáo phái Hassan lui vào bóng tối biến thành các tổ
chức khủng bố quốc tế. Mục
tiêu của họ là tìm mọi cách để ám sát các
giới chức cao cấp trong chính quyền và quân đội
Thổ Nhĩ Kỳ. Tiếng
Ả Rập gọi nhóm khủng bố Hassan là HASHSHASHIN, có
nghĩa là những kẻ điên cuồng như người
nghiện ma túy (users of hassish).
Tiếng Ả Rập Hashshashin đã được
Âu hóa thành "ASSASSIN", lúc đầu chỉ có nghĩa
là kẻ sùng đạo (devotee), sau này được đổi
nghĩa thành "kẻ giết người với mục
đích chính trị" (political murders). Ngày nay, chính sách khủng bố đã
trở thành phổ biến tại các nước Hồi
Giáo mà đại đa số nạn nhân của chính sách này
là những thường dân vô tội.
-
Cổng Trời và ngày tận thế là hai nỗi ám ảnh lớn nhất của các tín đồ thờ Chúa.
Tạp chí chuyên khảo về địa
lý thế giới có uy tín bậc nhất hoàn vũ trong hơn
một thế kỷ qua là National Geographic Magazine của Hoa
Kỳ. Trong vòng trên
một trăm năm nghiên cứu và phổ biến các
kiến thức về địa dư, chủ nhân của
tạp chí này đã bỏ ra những khoản tiền
khổng lồ để tài trợ cho trên 3000 cuộc thám
hiểm khoa học và khai quật thuộc khảo
cổ. Số đặc
biệt ra trong tháng 5/1991, với chủ đề in ngoài
bìa: "Iraq, Crucible
of Civilization", tờ National Geographic đã xác định Iraq (tức Babylon thời
cổ) mới đích thực là cái nôi của các đạo
Thiên Chúa. Thành phố UR,
thuộc đế quốc Babylon, là sinh quán của
Abraham. Thần bò El và các
chuyện thần thoại như Vườn Địa Đàng,
tháp Babel đều là những chuyện tưởng tượng
của người Babylon cách đây trên 5 ngàn năm!.
Sách Khải Huyền của John
viết: "Tôi thấy
trời mới và đất mới. Tôi cũng thấy thành phố
Jerusalem mới từ trên trời, nơi ở của Thiên
Chúa, mà xuống". Kinh Koran
viết: "Trước khi đưa
Muhammad lên tầng trời thứ bảy để gặp
Thiên Chúa, thiên thần Gabriel đã đưa ngài đến
thăm thánh địa Jerusalem". Chương 17 Phúc âm của Luke
viết: "Trận hồng
thủy trong thời Noah sẽ tái diễn trong ngày tận
thế là ngày tái lâm của Chúa Jesus.
Trong lúc mọi người đang ăn uống, cưới
gã, mua bán, trồng cây, xây nhà cửa thì nước lụt
chợt đến tiêu diệt tất cả".
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm
(Seventh Day Adventists) tin rằng Cổng Thiên Đàng (Heaven)
Gate) nằm trong "cái gươm" của chòm sao
Hiệp Sĩ (Orion) tức chòm sao Rua. Chúa Jesus sẽ
xuống thế gian lần thứ hai (phục lâm, tái lâm
từ cổng thiên đàng ở chòm sao Rua này. Ngày Chúa Tái Lâm là ngày tận
thế, mọi người chết sẽ sống lại để
nghe Chúa Jesus phán xử cùng với các người còn
sống sót trên thế gian.
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm
chuyên về y khoa, đã đào tạo hàng ngàn bác sĩ và
mở rất nhiều bệnh viện trên khắp thế
giới. Trước 1975,
ở Saigon cũng có một bệnh
viện mang tên Cơ Đốc của giáo phái này. Người sáng lập Cơ Đốc
Phục Lâm là một phụ nữ Mỹ lai da đen tên
White. Trong cuốn sách viết
năm 1848, bà White mô tả ngày tận thế như sau: "Mặt trời mặt trăng
và các ngôi sao dời di nơi khác.
Từ cửa thiên đàng ở chòm sao
Orion có tiếng Thiên Chúa phán xuống thế gian và một
thành phố thánh đáp xuống thế gian qua cửa thiên đàng
đó".
Giáo phái Davidians của Koresh là một
nhóm nhỏ của Cơ Đốc Phục Lâm. Năm 1993, trụ sở của
Koresh tại Waco (Texas, Hoa Kỳ) bị chính quyền Mỹ
tấn công về tội chứa vũ khí bất hợp
pháp. Trong lúc đang bị nhà
chức trách bao vây, Koresh và 81 tín đồ đã nổi
lửa đốt giáo đường để tự sát
tập thể. Trong số
nạn nhân có cả những người học thức như
bác sĩ, luật sư.
Họ tin rằng tự sát là con đường nhanh
nhất để được về Nước Chúa.
Nước Chúa và ngày tận thế luôn
luôn đi đôi với nhau, đúng theo lời dạy
của các tiên tri Do Thái Isaiah, Gioan Baotixita và Jesus
. Giáo sư John Grossan,
cựu linh mục Công Giáo, đã gọi các vị tiên tri này
là những vị tiên tri của thuyết khải huyền
(Apocalyptic prophets) chủ đích dùng hình ảnh khủng
khiếp của ngày tận thế để hù dọa
mọi người theo đạo để chuẩn
bị đón nhận "hạnh phúc" của Nước
Cha Trị Đến !.
Năm 1827, Joseph Smith lập đạo
Mormon tại New York với
chủ đề: Ngày tận
thế đã đến gần như trong tầm tay (Judgement Day was at hand) hô hào giáo dân thành
lập những đạo quân võ trang hùng hậu (Well-armed
legion of followers) để đón nhận Nước
Chúa. Y tự
nhận là vua của Nước Chúa và vận động
tranh cử tổng thống Mỹ năm 1844. Các tội ác của
Joseph Smith và tín đồ Mormon đã được mô
tả trong tác phẩm A Study in Scarlet của Sherlock Holm. Smith bị đám đông
quần chúng ở Ilinois (Hoa Kỳ) giết chết ngày 27-6-1884. Tín đồ
Mormon tại Mỹ lên tới trên 1 triệu!
Giáo phái The People Temples của mục sư
Jim Jones là một nhánh tách ra khỏi giáo phải Tin Lành
Methodist năm 1956. Giáo phái này loan truyền ngày tận thế sẽ đến
với loài người bằng bom nguyên tử và kêu gọi
mọi người hãy trốn hiểm họa tận
thế bằng cách đến vùng Belo Horizonto nước Ba
Tây. Vì bị ám ảnh
bởi Thánh Kinh về ngày tận thế, hàng ngàn tín đồ
Kitô Giáo đã đi theo Jim Jones. Kết quả, 914 tín đồ
nhẹ dạ đã bị tên mục sư này đầu độc
chết.
Ngoài ra, còn nhiều giáo phái khác thuộc đạo
Tin Lành như Đạo Moon, Jesus Freaks, Jesus People... cũng
dùng thủ đoạn tuyên truyền đề cao Thiên Đàng
và chuẩn bị mọi thứ cho ngày tận thế để
thu hút tín đồ.
Nói đến những giáo phái kể
trên, người Công Giáo thường bĩu môi chê họ là
những người mê tín. Nhưng
thực sự, người Công Giáo cũng tin thuyết
tận thế chẳng kém gì các đạo Cổng Trời
biến thể từ đạo Tin Lành! Xin hãy đọc
cuốn "Trước Cơn Giông Tố" của trí
thức Công Giáo Trương Tiến Đạt, tác giả
xuất bản năm 1995.
Nửa sau của cuốn sách, tác giả dành riêng để
nói về những "dấu chỉ ngày Chúa tái lâm đã
gần kề". Tác giả đưa chúng ta đến "kết
luận vô cùng quan trọng rằng chúng ta đang ở trong
những ngày cuối cùng, trước ngày Chúa Giê-Su tái
lâm"(trang 56). Tác giả nêu lên lời tiên tri của Đức
Mẹ Maria để chứng minh cho niềm tin của ông
là chính xác. Ông Đạt
viết: "Theo các sứ điệp
mới nhất của Đức Mẹ trong thời gian
gần đây, đức Gioan Phao-lồ II sẽ phải
bỏ Vatican chạy trốn đi lưu
vong. Biến
cố này xảy ra trong thời gian cuối năm 1995 hay đầu
năm 1996" (trang 58).
Ông Đạt cũng viện dẫn Kinh Thánh Cựu Ước: "... mở màn cho thời
kỳ Đại Biến Loạn là thời kỳ sẽ
kéo dài 3 năm rưỡi, một thời kỳ đã được
Kinh Thánh nói tới cả chục lần... Biến
cố khủng khiếp này được gọi là
biến cố Đại Cảnh Báo (Great Warning) và sẽ
xảy ra sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bỏ Vatican chạy
trốn đi lưu vong.
Nghĩa là sẽ xảy ra nội trong năm 1995 hay đầu
năm 1996" (trang 61) "có nhiều hiện tượng
xảy ra làm cho chúng tôi tin rằng biến cố Đại
Cảnh Báo sắp xảy ra, gần đây nhất là
vụ Tượng Đức Mẹ khóc tại một nơi
cạnh La Mã" (trang 62).
Tác giả Trương Tiến Đạt,
cũng như nhiều đồng bào Công Giáo Việt Nam đang
sống trên nước Mỹ, ôm mối hận Mỹ
lật đổ tổng thống Công Giáo năm 1963 nên thù
ghét Mỹ hơn thù Cộng Sản. Ông Đạt viết trong sự
tin tưởng: "Một ít
ngày sau khi xảy
ra trận động đất tàn phá Miền
Tây Hoa Kỳ, một trận bão lớn chưa từng có
sẽ tàn phá các tiểu bang Miền Đông Hoa Kỳ...
Trận bão này sẽ làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ
sụp đổ... Chính trong tình trạng nền kinh tế
Hoa Kỳ sụp đổ như thế, Nga Sô và Trung
Cộng sẽ cùng các nước đồng minh Hồi
Giáo tấn công Hoa Kỳ và các nước đồng minh
Tây Phương. Trận
chiến sẽ chỉ kéo dài một tiếng đồng
hồ. Và
Hoa Kỳ sẽ đầu hàng sau khi bị tàn phá nặng
nề" (trang 63).
Đoạn cuối cùng của cuốn
sách, nhà trí thức Công Giáo kiêm cựu Nghị Sĩ Việt Nam Cộng
Hòa viết: "Sau 3 ngày tối đen, ánh sáng sẽ
trở lại mặt đất.
Địa cầu được thanh
tẩy về phương diện linh thiêng. Nhưng mặt đất
chắc chắn sẽ la liệt xác chết... Chúa Giê-Su
sẽ từ trời hiện xuống giữa tiếng kêu
gọi và tiếng loa, các người đã chết sẽ
sống lại. Các người
còn sống lúc đó sẽ không phải chết, nhưng
sẽ cùng với các người đã sống lại để
bay lên không trung giữa các đám mây để cùng đón
Chúa (1 Thes.4:15-8).
Lạy Chúa tôi, tôi cũng là một người
Công Giáo, đọc xong sách của nhà tiên tri Trương
tiến Đạt xong tôi chỉ còn biết chắp hai tay
nguyện cầu cho cái ngày tận thế ấy sớm đến
với Giáo Hội Công Giáo yêu quý của mình!.