Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA

NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA

 

 

1. Thiên Chúa Độc Thần Giáo là đàn ông da trắng, lắm điều hơn đàn bà và độc ác hơn dã thú.


Thiên Chúa là sản phẩm tưởng tượng của người da trắng nên Thiên Chúa (God of the Bible) mang hình ảnh của một ông già da trắng.  Các ảnh tượng của Kitô Giáo về Thiên Chúa Ba Ngôi thường có trong các gia đình Công Giáo đã chứng tỏ điều đó. Đức Chúa Cha, tức Thiên Chúa Jehovah của đạo Do Thái, là hình ảnh một ông già rậm râu sâu mắt, mũi lõ mắt xanh.
Theo cuốn sách nói về các chủng tộc với tựa đề Raciologie Anthropologie Physique của A. Carnoy, in năm 1921, thì Dân Da Trắng gồm có 3 chủng:
a)  Chủng Hamite thủy tổ của Ai Cập.
b)  Chủng Semite thủy tổ của Do Thái và Ả Rập.
c)  Chủng Ấn Âu thủy tổ La Mã, Hy Lạp và người Âu thuần chủng (không lai).
Người da trắng tôn thờ Thiên Chúa da trắng của họ và họ tự tôn cho rằng họ là những người cao quí vì họ mang hình ảnh giống Thiên Chúa của họ.  Các dân tộc da màu là những hạng người thấp kém mọi rợ, nhất là giống dân da đen bị người da trắng coi như chỉ hơn loài vật chút đỉnh.  Thậm chí có nhiều người da trắng cho rằng người da đen không có linh hồn nên người da trắng có quyền bắt làm nô lệ hoặc đem bán hay giết như súc vật vậy.
Trong cả ba đạo Thiên Chúa (Do Thái , Kitô, Hồi) Đấng Tối Cao luôn luôn được hình dung là một người đàn ông. Có thể định nghĩa Thiên Chúa là một Đàn Ông Toàn Năng (The Male Almighty).  Mỗi khi nói về Thiên Chúa, người da trắng luôn luôn dùng các từ thuộc giống đực (gramatically masculin) như He, His, Father, Son... Trong tác phẩm Người Công Giáo Tỉnh Ngộ (The Recovering Catholic, 288 trang, Promethus Books xuất bản 1995), tác giả Joanne H. Meehl, một người tích cực tranh đấu cho nữ quyền Hoa Kỳ, đã viết: "Quyền lực của đàn ông chứ không phải quyền năng của Chúa vẫn tồn tại trên đời này, Thiên Chúa chỉ là hậu quả của lòng ham muốn thống trị của nam giới mà thôi". (The power of man, not God, still exists. God is merely a backdrop to man's rulings).
Hồi Giáo và Công Giáo La Mã luôn luôn chống lại việc phong chức thánh (priests) cho phụ nữ.  Hai tôn giáo này chống đối nhau nhưng lại đoàn kết trong chủ trương kỳ thị phụ nữ (they united in their misogyny).  Trong cuộc họp tháng 9/94 tại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vấn đề dân số, các đại biểu Hồi Giáo và Công Giáo đồng nhất với nhau chống lại mọi biện pháp kiểm soát dân số thế giới.
Cuộc đấu tranh của họ cho cái gọi là Quyền Sống (Right to Life) thực chất là đấu tranh cho sự sống còn của tôn giáo mà thôi (struggle for the "Right to Life" is actually a struggle for the survival of their religions).  Thiên Chúa Giáo chẳng qua chỉ là một chế độ độc tài tự xưng là tôn giáo (a dictatorship claiming to be a religion).  Phong trào đấu tranh của phụ nữ đòi hỏi kiểm soát sinh đẻ nhằm mục đích nhân đạo.  Tội lỗi thực sự là sự sinh con bừa bãi để rồi sống nheo nhóc vì cha mẹ không có đủ khả năng  săn sóc và dạy dỗ chúng cho chu đáo.
Hồi Giáo và Công Giáo La Mã là những kẻ đạo đức giả chống phụ nữ nhằm bảo vệ quyền lực, giới lãnh đạo các tôn giáo này hoàn toàn là đàn ông.  Tòa Thánh La Mã rêu rao rằng Chúa Jesus cũng chỉ chọn các tông đồ của Ngài là đàn ông nên tòa thánh cũng theo gương Chúa không truyền chức linh mục cho đàn bà.
Thiên Chúa Giáo quan niệm Thiên Chúa là đàn ông nhưng vị đàn ông toàn năng này lại lắm điều (talkative) còn hơn đàn bà.  Các sách Kinh Thánh, từ Cựu Ước, Tân Ước đến Koran, tất cả đều được coi là những cuốn sách ghi chép Lời Chúa (Words of God).  Những lời của Chúa được viết trong rất nhiều sách khác nhau với những ý tưởng mâu thuẫn đối nghịch nhau.  Giáo hội chọn lựa bằng cách bầu cử trong các cuộc họp của giới lãnh đạo được mệnh danh là Công đồng, như công đồng Nicaea năm 325 chẳng hạn.  Cuốn sách được chọn theo đa số trở thành Thánh Kinh rồi gán cho nó là ghi chép lời Chúa.  Sách ghi lời Chúa bị công đồng bác bỏ trở thành sách rối đạo (heretics) ghi chép lời của quỉ Satan.
Thomas Paine đã viết:  "Những cuốn sách đó (Cựu Ước và Tân Ước) đã được bầu để trở thành Lời Chúa.  Nếu họ bầu khác đi thì mọi người tự nhận là Kitô Giáo đã chẳng tin theo cách khác rồi sao!" (Those books were voted to be the Word of God.  Had they voted otherwise, all the people, since calling themselves Christians, had believed otherwise! (Selected Work of Thomas Paine, The Age of Reason, p. 293).
Trong thế kỷ đầu Công Nguyên, có tới trên mười cuốn sách viết về Jesus nhưng công đồng Nicaea chỉ chọn 4 cuốn làm Lời Chúa.  Nhưng trong 4 cuốn này cũng chứa đầy những mâu thuẫn và những điều phản lý trí.  Do đó, giáo hội Công Giáo dành độc quyền giải thích Lời Chúa để quyết định là lời nào Chúa nói đúng và lời nào Chúa nói bậy.  Chẳng hạn Chúa Jesus nguyền rủa những người giàu: "Kẻ giàu vào nước thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim".  Giáo hội và giáo hoàng sống trong xa hoa phú quí chẳng lẽ cũng bị Chúa nguyền rủa sao?  Giáo hội giải thích "lỗ kim" mà Chúa đề cập tới không phải là lỗ kim của thợ may mà là một cái cổng của thành Jerusalem có tên là Lỗ Kim (The Needle-Hole Gate).  Các nhà sử học lừng danh thế giới và các nhà khoa học khảo cổ đã tìm mỏi mắt mà vẫn chưa thấy một tài liệu nào nói về cái "Cổng thành Lỗ Kim" ở Jerusalem!
 Đạo Do Thái nói các Lời Chúa được Chúa truyền thẳng cho Abraham và Moses (Mai-sen) mặt đối mặt (face to face).  Đạo Kitô nói các thánh sử (các tác giả Tân Ước ) được ơn của Chúa Thánh Thần soi sáng.  Riêng St. Paul (Phaolô), không phải là môn đệ theo Chúa lúc Ngài còn sống, đã tự ý viết những bức thư giải thích mọi vấn đề của đạo Kitô Nguyên Thủy.  Những bức thư của Paul được xếp vào bộ sách Tân Ước và là rường cột của đạo Kitô.  Những lời của Paul đã trở thành Lời Chúa!  Không một tông đồ nào của Chúa, kể cả Phêrô, được giáo hội Kitô tôn trọng bằng Paul.  Thậm chí cuốn Phúc Âm của Phêrô (Gospel of Peter) bị coi là tà đạo (heretic) và bị bác bỏ.  Các học giả ngày nay đã không lầm khi họ gọi đạo Kitô là thần học của Phaolô.  (The Pauline theology).

Vài điểm cần để ý:
 a) Đạo Hồi cũng nói kinh Koran ghi chép lời Chúa do thiên thần Gabriel đọc cho Muhammad viết ra.  Thiên Chúa quả là ưa lắm điều nhiều chuyện (talkative) nhưng Ngài đã chọn Muhammad là người cuối cùng trên thế gian để nghe và ghi chép tốc ký những lời Chúa phán. Từ đó đến tận thế, Thiên Chúa cấm khẩu luôn và đã xin thề từ nay "em" không muốn nói thêm một điều gì nữa.  Tất cả các lời của Chúa đều đã được ghi chép đầy đủ, nói đúng hơn là quá thừa mứa, trong các sách thánh kinh của ba đạo thờ Thiên Chúa nói trên.
b) Tính tình của Thiên Chúa thay đổi bất thường. Thánh Kinh cho thấy, mỗi khi gặp chuyện trái ý, ngài nổi giận đùng đùng và trở nên ác độc còn hơn cọp beo linh cẩu.  Vì oán giận hai thành phố Sodoma và Gomorah có nhiều người không tôn thờ Chúa nên Chúa đã đổ lửa từ trời xuống thiêu hủy hai thành phố này, trong đó có biết bao nhiêu người vô tội phải vạ lây (mèo ốm phải đòn, mèo con phải vạ).   Chúa cũng là một kẻ có tính thiên vị.  Ngài chọn Do Thái làm dân riêng của Ngài vì Ngài muốn như vậy chứ không phải vì dân Do Thái đạo đức hay tốt lành hơn các dân tộc khác.  Ngài tìm cách cứu Do Thái vượt qua Biển Đỏ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập bằng cách giết hết các con trai đầu lòng của dân Ai Cập để buộc vua Ai Cập vì xót thương dân tộc mình nên đành phải chấp thuận cho dân Do Thái rời Ai Cập lên đường tìm tự do !.
Thiên Chúa cũng không biết trước tương lai khi Ngài muốn thử lòng Abraham để xem Abraham có tôn thờ Ngài trên hết mọi sự không. Bà Sarah, vợ của Abraham, lúc đã ngoài 70 tuổi mà không có con.  Chúa hứa hai vợ chồng Abraham sẽ có con trai nối dõi làm cho hai vợ chồng Abraham phải phì cười.  Nhưng phàm việc gì Chúa đã hứa thì Chúa làm, chỉ ít lâu sau quả nhiên vợ chồng Abraham sinh ra một đứa con trai (Thánh Kinh nói như thế).  Đứa bé được đặt tên Isaac có nghĩa là Tiếng Cười (Laughter).  Khi đứa bé lớn lên thành một thiếu niên thông minh tuấn tú được cha mẹ hết lòng yêu thương thì Chúa ra lệnh cho Abraham phải mang con lên núi. Chúa truyền lệnh cho Abraham phải tự tay đâm chết con trai yêu quí của mình và hỏa thiêu nó để cúng tế Ngài.  Abraham dấu dao trong mình và bắt Isaac phải còng lưng vác một bó củi lớn theo cha lên núi.  Lúc chuẩn bị xong đống củi, Abraham rút dao ra sắp sửa giết con một mình để làm đẹp lòng nhân lành của Chúa thì Chúa phán như hề cải lương : "Khoan, Ta đã hiểu lòng con chí tình chí hiếu . . .", và Chúa ra lệnh cho Abraham đừng giết con mình nữa kẻo tội nghiệp.  Abraham rất biết ơn về lòng nhân từ vô lượng của Chúa nên đã dùng một con dê làm vật hy sinh thế mạng con mình để tế thờ Thiên Chúa. Vì vậy nhân loại mới có danh từ  "Con Dê Tế Thần" (The Scapegoat).
 Chúa Jesus là con Một của Thiên Chúa nhưng Chúa cũng không thương xót mà bắt buộc Jesus phải chết mới tha cho loài người cái tội tổ tông (origianal sin).  Dù Jesus đã phải chết thảm trên thập tự giá nhưng loài người cũng chỉ được tha tội trên danh nghĩa mà thôi vì thực tế loài người vẫn phải gánh chịu mọi hậu quả của tội tổ tông (đàn ông phải vất vả mới kiếm được miếng ăn, đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau).  Cái chết của Jesus chẳng có ích lợi gì cho loài người trên thực tế vì Jesus chỉ có khả năng xin Thiên Chúa tha "tội tổ tông huyền thoại nhảm nhí "mà không có khả năng làm Thiên Chúa nguôi giận hủy bỏ hình phạt buộc con người phải sống đau khổ tại thế gian vì cái tội mà tổ tông loài người đã phạm với Chúa.  Chúa là một sinh vật thù dai vô duyên nhất trong vũ trụ!
Tại sao người ta phải tạo ra một Thiên Chúa độc ác như vậy?  Lý do khiến người ta biến Thiên Chúa thành một Ông Ngáo Ộp, cốt để hù dọa những kẻ ngây thơ, lúc nào cũng tự nhận mình là kẻ có tội (Sinner) và chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã mới có đủ khả năng và thẩm quyền xin Chúa tha tội cho mà thôi!  Giáo hội sẽ tha hồ độc chiếm quyền lực và hưởng lợi.  Đúng như Thomas Paine đã viết:  "Tất cả các định chế giáo hội, bất kể là đạo Do Thái, Kitô hay Hồi Giáo (như Hồi Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn) đối với tôi chỉ là những phát minh của con người mà thôi.  Những định chế đó được đặt ra chỉ nhằm khủng bố, nô lệ con người và độc chiếm quyền lực để hưởng lợi " (All national institutions of Churches, whether Jewish, Christian or Turkish (Islam), appear to me no other than human inventions, set up to terrify and enslave mankind and monopolize power and profit  -  The Selected Work of Thomas Paine, p. 285).

 

  1. Tín đồ Thiên Chúa Giáo cuồng tín và hiếu sát.


Kinh Thánh Cựu Ước kể rằng:  Sau khi đoàn người Do Thái được Chúa cứu bằng cách hóa phép cho nước Biển Đỏ rẽ ra thành đường đi an toàn dưới đáy biển, đoàn quân Ai Cập chạy đuổi theo đã bị Chúa hóa phép cho nước biển ập lại bị chết đuối hết, thánh Moses đã quì xuống dang hai tay lên trời ca ngợi Chúa là "Thiên Chúa của các đạo binh" (God of the Armies) chẳng khác nào thần chiến tranh Mars của thần thoại Hy Lạp.  Một khi Thiên Chúa đã là một vị thần chiến tranh, tất nhiên các tín đồ thờ Chúa phải trở thành các chiến sĩ của đức tin hiếu chiến và hiếu sát!
Suốt thời gian 150 năm, từ 1006 đến 1254, Công Giáo La Mã đã gây 6 cuộc thánh chiến tiêu diệt Hồi Giáo.  Cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp giữa Công Giáo và Tinh Lành kéo dài 32 năm (1562-1594) khiến cho hàng chục ngàn người Tin Lành bị giết.  Người Do Thái bị Công Giáo tiêu diệt nhiều đợt đến gần tuyệt chủng (sẽ được trình bày chi tiết trong một cuốn sách khác).
Toàn Âu Châu đã bị tắm máu với trên 300 năm tác oai tác quái của tòa án xử dị giáo (Inquisitions) với đủ thứ cực hình dã man như thiêu sống trên dàn hỏa, trấn nước, xẻo thịt... những người không tin hay nói khác Kinh Thánh. Năm 1514, nhà thiên văn học đại tài Copernic đã viết ra cuốn Traité des Revolutions Célestes, tuy chỉ có 20 trang thôi nhưng được hậu thế coi là một trong những cuốn sách đầu tiên khám phá ra sự thật trái đất quay quanh mặt trời.  Copernic không dám công bố cuốn sách quan trọng này vì sợ bị đem lên dàn hỏa thiêu sống bởi tòa án dị giáo của Giáo Hội Công Giáo.  Hơn một trăm năm sau, Galilee (1562-1642) đã dựa vào tài liệu của Copernic và khai triển thành thuyết thái dương hệ.  Lúc đó người ta mới biết Copernic đã dấu cuốn sách của ông 30 năm trong bí mật, trước khi chết, ông trao cuốn sách lại cho bạn thân với lời căn dặn chỉ được xuất bản sau khi ông đã chết mà thôi (a posthumous book).  Bản thân Galilee đã bị tòa án dị giáo dọa thiêu sống, ông đành phủ nhận thuyết thái dương hệ và ông chỉ bị giam lỏng đến chết.
Tội ác của Công Giáo La Mã đối với các dân tộc Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh kể ra bằng nhiều cuốn sách cũng chưa đủ nói hết.  Đạo Hồi cũng chẳng thua kém gì về sự tàn bạo.  Danh từ "ASSASSIN" là do tên của một giáo phái Hồi Giáo mà ra.  Nguyên vào thế kỷ thứ 11, giáo phái Hồi Giáo Hassan chiếm thành phố Alamut (Ba Tư).  Sau đó giáo phái này dùng bạo lực truyền đạo Hồi ra khắp Ba Tư, IraqSyria.  Giáo phái này nổi danh khắp thế giới về lòng cuồng tín và luôn luôn sẵn sàng tự sát (the suicidally fanatic devotion).  Đầu thế kỷ 12, nhiều người Âu Châu đi du lịch tại các nước Hồi Giáo nói trên đã được chứng kiến nhiều cảnh tượng kinh dị.  Khi có nhiều du khách đến thăm những pháo tháp (turrets) của đền thờ Hồi Giáo, các giáo chủ thường chỉ cho họ thấy người lính Hồi Giáo đang đứng gác trên tháp và hỏi:  "Qúi vị có nhìn thấy người lính của tôi đang đứng trên tháp không?".  Mọi con mắt của du khách đổ dồn về người lính đó.  Giáo chủ nói "Hãy coi đây" đồng thời dùng tay ra hiệu.  Ngay lập tức, người lính gác cúi đầu chào và nhảy xuống đất từ ngọn tháp cao, chết liền tại chỗ để cho du khách xem. 
Những câu chuyện trên đã biến thành những cuốn tiểu thuyết kinh dị phổ biến tại Âu Châu.  Ít lâu sau, Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Ba Tư và Iraq, giáo phái Hassan lui vào bóng tối biến thành các tổ chức khủng bố quốc tế. Mục tiêu của họ là tìm mọi cách để ám sát các giới chức cao cấp trong chính quyền và quân đội Thổ Nhĩ Kỳ.  Tiếng Ả Rập gọi nhóm khủng bố Hassan là HASHSHASHIN, có nghĩa là những kẻ điên cuồng như người nghiện ma túy (users of hassish).  Tiếng Ả Rập Hashshashin đã được Âu hóa thành "ASSASSIN", lúc đầu chỉ có nghĩa là kẻ sùng đạo (devotee), sau này được đổi nghĩa thành "kẻ giết người với mục đích chính trị" (political murders).  Ngày nay, chính sách khủng bố đã trở thành phổ biến tại các nước Hồi Giáo mà đại đa số nạn nhân của chính sách này là những thường dân vô tội.

  1. Cổng Trời và ngày tận thế là hai nỗi ám ảnh lớn nhất của các tín đồ thờ Chúa.


Tạp chí chuyên khảo về địa lý thế giới có uy tín bậc nhất hoàn vũ trong hơn một thế kỷ qua là National Geographic Magazine của Hoa Kỳ.  Trong vòng trên một trăm năm nghiên cứu và phổ biến các kiến thức về địa dư, chủ nhân của tạp chí này đã bỏ ra những khoản tiền khổng lồ để tài trợ cho trên 3000 cuộc thám hiểm khoa học và khai quật thuộc khảo cổ.  Số đặc biệt ra trong tháng 5/1991, với chủ đề in ngoài bìa: "Iraq, Crucible of Civilization", tờ National Geographic đã xác định Iraq (tức Babylon thời cổ) mới đích thực là cái nôi của các đạo Thiên Chúa.  Thành phố UR, thuộc đế quốc Babylon, là sinh quán của Abraham.  Thần bò El và các chuyện thần thoại như Vườn Địa Đàng, tháp Babel đều là những chuyện tưởng tượng của người Babylon cách đây trên 5 ngàn năm!.
Sách Khải Huyền của John viết:  "Tôi thấy trời mới và đất mới.  Tôi cũng thấy thành phố Jerusalem mới từ trên trời, nơi ở của Thiên Chúa, mà xuống".  Kinh Koran viết:  "Trước khi đưa Muhammad lên tầng trời thứ bảy để gặp Thiên Chúa, thiên thần Gabriel đã đưa ngài đến thăm thánh địa Jerusalem".  Chương 17 Phúc âm của Luke viết:  "Trận hồng thủy trong thời Noah sẽ tái diễn trong ngày tận thế là ngày tái lâm của Chúa Jesus.  Trong lúc mọi người đang ăn uống, cưới gã, mua bán, trồng cây, xây nhà cửa thì nước lụt chợt đến tiêu diệt tất cả".
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh Day Adventists) tin rằng Cổng Thiên Đàng (Heaven) Gate) nằm trong "cái gươm" của chòm sao Hiệp Sĩ (Orion) tức chòm sao Rua.  Chúa Jesus sẽ xuống thế gian lần thứ hai (phục lâm, tái lâm từ cổng thiên đàng ở chòm sao Rua này.  Ngày Chúa Tái Lâm là ngày tận thế, mọi người chết sẽ sống lại để nghe Chúa Jesus phán xử cùng với các người còn sống sót trên thế gian.
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm chuyên về y khoa, đã đào tạo hàng ngàn bác sĩ và mở rất nhiều bệnh viện trên khắp thế giới.  Trước 1975, ở Saigon cũng có một bệnh viện mang tên Cơ Đốc của giáo phái này.  Người sáng lập Cơ Đốc Phục Lâm là một phụ nữ Mỹ lai da đen tên White.  Trong cuốn sách viết năm 1848, bà White mô tả ngày tận thế như sau:  "Mặt trời mặt trăng và các ngôi sao dời di nơi khác.  Từ cửa thiên đàng ở chòm sao Orion có tiếng Thiên Chúa phán xuống thế gian và một thành phố thánh đáp xuống thế gian qua cửa thiên đàng đó".
Giáo phái Davidians của Koresh là một nhóm nhỏ của Cơ Đốc Phục Lâm.  Năm 1993, trụ sở của Koresh tại Waco (Texas, Hoa Kỳ) bị chính quyền Mỹ tấn công về tội chứa vũ khí bất hợp pháp.  Trong lúc đang bị nhà chức trách bao vây, Koresh và 81 tín đồ đã nổi lửa đốt giáo đường để tự sát tập thể.  Trong số nạn nhân có cả những người học thức như bác sĩ, luật sư.  Họ tin rằng tự sát là con đường nhanh nhất để được về Nước Chúa.
Nước Chúa và ngày tận thế luôn luôn đi đôi với nhau, đúng theo lời dạy của các tiên tri Do Thái Isaiah, Gioan Baotixita và Jesus .  Giáo sư John Grossan, cựu linh mục Công Giáo, đã gọi các vị tiên tri này là những vị tiên tri của thuyết khải huyền (Apocalyptic prophets) chủ đích dùng hình ảnh khủng khiếp của ngày tận thế để hù dọa mọi người theo đạo để chuẩn bị đón nhận "hạnh phúc" của Nước Cha Trị Đến !.
Năm 1827, Joseph Smith lập đạo Mormon tại New York với chủ đề:  Ngày tận thế đã đến gần như trong tầm tay (Judgement Day was at hand) hô hào giáo dân thành lập những đạo quân võ trang hùng hậu (Well-armed legion of followers) để đón nhận Nước Chúa.  Y tự nhận là vua của Nước Chúa và vận động tranh cử tổng thống Mỹ năm 1844.  Các tội ác của Joseph Smith và tín đồ Mormon đã được mô tả trong tác phẩm A Study in Scarlet của Sherlock Holm.  Smith bị đám đông quần chúng ở Ilinois (Hoa Kỳ) giết chết ngày 27-6-1884.  Tín đồ Mormon tại Mỹ lên tới trên 1 triệu!
Giáo phái The People Temples của mục sư Jim Jones là một nhánh tách ra khỏi giáo phải Tin Lành Methodist năm 1956.  Giáo phái này loan truyền ngày tận thế sẽ đến với loài người bằng bom nguyên tử và kêu gọi mọi người hãy trốn hiểm họa tận thế bằng cách đến vùng Belo Horizonto nước Ba Tây.  Vì bị ám ảnh bởi Thánh Kinh về ngày tận thế, hàng ngàn tín đồ Kitô Giáo đã đi theo Jim Jones.  Kết quả, 914 tín đồ nhẹ dạ đã bị tên mục sư này đầu độc chết.
Ngoài ra, còn nhiều giáo phái khác thuộc đạo Tin Lành như Đạo Moon, Jesus Freaks, Jesus People... cũng dùng thủ đoạn tuyên truyền đề cao Thiên Đàng và chuẩn bị mọi thứ cho ngày tận thế để thu hút tín đồ.
Nói đến những giáo phái kể trên, người Công Giáo thường bĩu môi chê họ là những người mê tín.  Nhưng thực sự, người Công Giáo cũng tin thuyết tận thế chẳng kém gì các đạo Cổng Trời biến thể từ đạo Tin Lành!  Xin hãy đọc cuốn "Trước Cơn Giông Tố" của trí thức Công Giáo Trương Tiến Đạt, tác giả xuất bản năm 1995.  Nửa sau của cuốn sách, tác giả dành riêng để nói về những "dấu chỉ ngày Chúa tái lâm đã gần kề".  Tác giả đưa chúng ta đến "kết luận vô cùng quan trọng rằng chúng ta đang ở trong những ngày cuối cùng, trước ngày Chúa Giê-Su tái lâm"(trang 56).  Tác giả nêu lên lời tiên tri của Đức Mẹ Maria để chứng minh cho niềm tin của ông là chính xác.  Ông Đạt viết:  "Theo các sứ điệp mới nhất của Đức Mẹ trong thời gian gần đây, đức Gioan Phao-lồ II sẽ phải bỏ Vatican chạy trốn đi lưu vong.  Biến cố này xảy ra trong thời gian cuối năm 1995 hay đầu năm 1996" (trang 58).  Ông Đạt cũng viện dẫn Kinh Thánh Cựu Ước:  "... mở màn cho thời kỳ Đại Biến Loạn là thời kỳ sẽ kéo dài 3 năm rưỡi, một thời kỳ đã được Kinh Thánh nói tới cả chục lần... Biến cố khủng khiếp này được gọi là biến cố Đại Cảnh Báo (Great Warning) và sẽ xảy ra sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bỏ Vatican chạy trốn đi lưu vong.  Nghĩa là sẽ xảy ra nội trong năm 1995 hay đầu năm 1996" (trang 61) "có nhiều hiện tượng xảy ra làm cho chúng tôi tin rằng biến cố Đại Cảnh Báo sắp xảy ra, gần đây nhất là vụ Tượng Đức Mẹ khóc tại một nơi cạnh La Mã" (trang 62).
Tác giả Trương Tiến Đạt, cũng như nhiều đồng bào Công Giáo Việt Nam đang sống trên nước Mỹ, ôm mối hận Mỹ lật đổ tổng thống Công Giáo năm 1963 nên thù ghét Mỹ hơn thù Cộng Sản.  Ông Đạt viết trong sự tin tưởng:  "Một ít ngày sau khi xảy  ra trận động đất tàn phá Miền Tây Hoa Kỳ, một trận bão lớn chưa từng có sẽ tàn phá các tiểu bang Miền Đông Hoa Kỳ... Trận bão này sẽ làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ sụp đổ... Chính trong tình trạng nền kinh tế Hoa Kỳ sụp đổ như thế, Nga Sô và Trung Cộng sẽ cùng các nước đồng minh Hồi Giáo tấn công Hoa Kỳ và các nước đồng minh Tây Phương.  Trận chiến sẽ chỉ kéo dài một tiếng đồng hồ.  Và Hoa Kỳ sẽ đầu hàng sau khi bị tàn phá nặng nề" (trang 63).
Đoạn cuối cùng của cuốn sách, nhà trí thức Công Giáo kiêm cựu Nghị Sĩ Việt Nam Cộng Hòa viết: "Sau 3 ngày tối đen, ánh sáng sẽ trở lại mặt đất.  Địa cầu được thanh tẩy về phương diện linh thiêng.  Nhưng mặt đất chắc chắn sẽ la liệt xác chết... Chúa Giê-Su sẽ từ trời hiện xuống giữa tiếng kêu gọi và tiếng loa, các người đã chết sẽ sống lại.  Các người còn sống lúc đó sẽ không phải chết, nhưng sẽ cùng với các người đã sống lại để bay lên không trung giữa các đám mây để cùng đón Chúa (1 Thes.4:15-8).
Lạy Chúa tôi, tôi cũng là một người Công Giáo, đọc xong sách của nhà tiên tri Trương tiến Đạt xong tôi chỉ còn biết chắp hai tay nguyện cầu cho cái ngày tận thế ấy sớm đến với Giáo Hội Công Giáo yêu quý của mình!.