Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

NGÀY TẬN THẾ CỦA GIÁO HỘI SATAN - GIÁO HỘI GIAN ÁC


Trên đời này chẳng có tôn giáo nào cao hơn Lẽ Thật vì Lẽ Thật là chân lý hằng cửu. Cũng chẳng có tình nào cao đẹp hơn tình người với người, chứ không phải chỉ yêu Thiên Chúa, chà đạp con người như các tu sĩ của Vatican. Cả cái hệ thống tu sĩ của Vatcian là một tổ chức đại của những kẻ đạo đức giả. Chúng dựng lên thần linh quái đản là Thiên Chúa Ba Ngôi rồi nhân danh Thần Linh để khủng bố loài người và giết hại trên 200.000.000 sinh mạng vô tội trong 16 thế kỷ qua. Họ là cha đẻ ra các tai họa khủng khiếp cho loài người qua các chế độ nô lệ, chủ nghĩa diệt chủng Do Thái, chủ nghĩa phát Xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa kỳ thị phụ nữ, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc và thậm chí cả chủ nghĩa Cộng Sản.
 
Năm 1917, Vatican đã viện trợ cho đảng Bolshervik của Lenin 660 triệu đô la (trị giá bằng nhiều tỷ đô la ngày nay) để Cộng Sản lật Nga Hoàng và diệt Chính Thống Giáo cho Vatican. Người Tây Phương có quá nhiều kinh nghiệm về Vatican nên đã gọi nó bằng một danh từ rất tượng hình và nhiều ý nghĩa, đó là Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Sở dĩ mọi tổ chức tội ác còn tồn tại trên thế giới ngày nay là vì cái đầu của con bạch tuộc là Vatican vẫn còn tồn tại. Chỉ khi nào cái đầu của con bạch tuộc chết đi thì các cái vòi của nó là các thứ chủ nghĩa tội ác mới thật sự bị tiêu diệt.
 
Tất cả các cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay chỉ qui vào một cuộc chiến đấu duy nhất, đó là cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại những thế lực tội ác do Vatican ngấm ngầm lãnh đạo. Con bạch tuộc khổng lồ Công Giáo La Mã cũng là đầu não của mọi hình thức khủng bố: Tòa án dị giáo với các dàn hỏa thiêu sống con người, bắt cóc ban đêm và đủ kiểu tra tấn hết sức dã man không kể xiết. Muốn hiểu tòa án dị giáo của Vatican kinh khủng như thế nào xin hãy đọc The Inquisition, Hammer of Heresy của Edward Burman, 254 trang. Dorset Press NY. 1992. Ngay trang đầu của cuốn sách, tác giả viết: "Tòa án dị giáo đồng nghĩa với khủng bố, bắt người ban đêm và đủ thứ tra tấn". Nó cũng được mô tả trong The Pit and The Pendulum của Edgar Poe, trong kịch Opera của Don Alhambra, trong những chuyện kinh dị của Gilber, Sullivan, Verdi và cả trong thơ của Tennyson..." The (Inquisition is synonymous with terror, noctural arrest and torture...)
 
Qua 16 thế kỷ gieo rắc khủng bố cho loài người, tội ác chồng chất của Công Giáo La Mã đã cao ngất như núi. Đã đến lúc cái giáo hội của tội ác này phải đền tội và phải chết. Mới đây, nữ tu sĩ Angelica là người đứng đầu hệ thống truyền hình Công Gíao Mỹ "Eternal World Television Network" có 55 triệu khán giả tại 38 quốc gia có hệ thống tiếp vận của nó, đã tuyên bố trong một talk-show rằng: Thế giới Công Giáo không thể tránh khỏi đại thảm họa. Ngày tận thế của nó chỉ trong tầm tay. (Its end times are at hand). Mọi người Công Giáo đều tin rằng thế giới này sẽ có ngày tận thế, nhưng họ đã lầm. Thế giới này vẫn muôn đời tồn tại, chỉ có cái giáo hội khốn nạn của họ phải đến ngày tận số mà thôi!
 
Hòn đá tảng Phêrô đang biến thành bùn và cả tòa lâu đài Vatican đang lún xuống bùn dưới sức nặng của tội ác cao như núi đang đè lên đầu nó. Cái chết vô cùng nhục nhã của nó đang đến và phải đến trong những năm của thế kỷ 21. Cả thế giới còn lại sẽ thở phào nhẹ nhõm vì đã vứt đi được cái ung nhọt cương mủ trên cơ thể nhân loại ròng rã trong hơn 16 thế kỷ qua (tính từ ngày Constantine đẻ ra nó vào đầu thế kỷ thứ tư). Cả loài người thiện lành sẽ từ đây ung dung bước đi chững chạc vào một trật tự thế giới mới trong ánh bình mình đẹp vô cùng của thiên niên kỷ thứ ba. Khi "con bạch tuộc của Chúa Trời" không còn nữa, tất cả loài người sẽ dành lại vườn địa đàng của mình là trái đất này để kiến tạo cuộc sống thanh bình hạnh phúc cho các thế hệ con cháu đến muôn đời. Hallelujah! Hallelujah!
 
Thượng đế [Chữ Thượng Đế nói đây không cùng nghĩa với tín đồ Kitô giáo gọi.]
 
chứ không phải Jehovah (con bò El) đã đang và mãi mãi tiếp tục kiến tạo vũ trụ hoàn toàn trong thinh lặng. Ngài đã mặc nhiên trao trái đất này cho toàn thể loài người chúng ta với lòng yêu thương vô hạn của Ngài. Thượng đế yêu thương loài người nên chẳng bao giờ Ngài muốn làm khổ con người. Chỉ có quỉ mới muốn làm khổ con người nên đã xúi bậy con cái của nó là Công Giáo gieo rắc đủ thứ tai họa cho loài người mà thôi. Chẳng có tôn giáo nào do Thượng Đế tạo ra mà tất cả đều là sản phẩm của con người. Tôn giáo chỉ có thể là chính đáng khi nó thật sự phục vụ con người. Mọi thứ tôn giáo nhân danh Thượng Đế chà đạp con người đều là tà đạo của sa tăng rồi phải bị tiêu diệt. Thánh linh của Thượng Đế cũng như Phật tính đều có sẵn trong tâm linh của mọi người chúng ta, đúng như lời Phật dạy: "Phật tại tâm". Các thứ Phật hay Chúa trong các chùa và nhà thờ đều là đồ giả [Vì thế nên một hôm trời lạnh, một vị thiền sư bảo đệ tử đem cái tượng Phật bằng gổ chẻ làm củi.] do các tu sĩ của các tôn giáo tạo ra để lừa bịp con người. Đỉnh cao của mọi thứ đạo đức thật sự là lòng yêu thương Sự Thật. Tình yêu thương dàn trải giữa mọi người với nhau là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu trên cõi đời này. Đó là thiên đàng duy nhất có thật chứ chẳng có một thiên đàng nào khác. Loài người làm khổ nhau do lòng tham lam ích kỷ là địa ngục duy nhất có thật chứ cũng chẳng có một địa ngục nào khác ở ngoài thế gian này.
 
Các tổ chức giáo hội là nguyên nhân gây ra thảm họa cho loài người chúng ta. Giáo hội tạo ra những ốc đảo tôn giáo chia rẽ con người. Các ốc đảo tôn giáo đó tranh chấp nhau để dành tín đồ nhằm tụ bè kết đảng không ngoài mục đích củng cố quyền lực cho các tu sĩ lưu manh của nhiều tôn giáo chứ cũng chẳng riêng gì của Công Giáo La Mã.
 
Cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đều đã du nhập vào nước ta gần 2000 năm qua mà dân tộc Việt nam không hề coi ba tôn giáo đó là ngoại lai. Cả ba tôn giáo, với các chủ trương đối nghịch nhau, đã hòa làm một trong lòng dân tộc mà ta thường gọi là "TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN". Sở dĩ cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đã hòa đồng một cách tốt đẹp như vậy là nhờ ở yếu tố của ba tôn giáo đều không có giáo hội. Sau 1.11.1963, các tăng sĩ Phật Giáo bắt chước Công Giáo thành lập "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất". Như Vậy, Phật Giáo hình như đã chủ trương đi vào con đường thế tục như Vatican từ đây? [Ban biên tập xin phép tác giả bỏ một trang vì thấy thiếu sử liệu.]
 
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn phục vụ quyền lợi ngoại bang và đàn áp tôn giáo là một động lực thúc đẩy nhiều người Phật Giáo tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để chống lại Công Giáo. Đối với nhiều người Phật Tử thì Công Giáo nguy hiểm hơn gấp trăm lần các tổ chức Cộng Sản, Công Giáo là yếu tố khiến cho chiến tranh Việt Nam kéo dài và càng ngày càng thêm thảm khốc.
 
Giáo Hoàng Gioan XXIII ủng hộ việc lật đổ và tiêu diệt chế độ Ngô Đình Diệm vì cho rằng chế độ Diệm đã đe dọa phá hoại chính sách hiệp thông của Vatican. Giáo Hoàng Gioan XXII đã chính thức gửi văn thư mắng nhiết Ngô Đình Diệm năm 63 về tội đàn áp Phật Giáo. Báo chí Hoa Kỳ xác nhận: "Giáo Hoàng Gioan XXIII bí mật hợp tác với Cộng Sản để chuẩn bị cho một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ Mác-xít của Hồ Chí Minh". (Pope John XXIII secretly cooperated with the Communists in preparing a future united Marxist Việt Nam under Ho Chi Minh).
 
Ngày 30.1.1967, báo chí thế giới loan tin về cuộc tiếp tân của Giáo Hoàng Paul VI tại Vatican long trọng chào đón thủ tướng Liên Xô Podgorny để củng cố sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước Chư hầu của Cộng Sản tại Đông Âu (The new policy of Paul VI of full cooperation with Soviet Russia and the Communist satellites of Eastern Europe). Báo chí thế giới cũng xác nhận Paul VI là cha đẻ ra liên minh Vatican-Moscow. Liên minh này đã phá tan chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ ở cả hai lục địa Âu châu và Á Châu. Liên minh Công Giáo với Cộng Sản đã trở nên một yếu tố quan trọng cho cuộc thất trận của Hoa Kỳ tại Việt Nam. (Paul VI fathered the Vatican-Moscow Alliance which undermined the Anti-Russian strategy of the US in Europe and Asia. This alliance became an important factor in the final defeat of the US is Viet Nam).
 
Paul VI dư biết Vũ Ngọc Nhạ là gián điệp Cộng Sản qua hai đời tổng thống Công Giáo đã góp phần quan trọng trong việc làm sụp đổ VNCH ngày 30.4.1975 nhưng y vẫn ban thưởng cho tên gián điệp Cộng Sản này huy chương cao quí của Tòa Thánh là "Huy Chương Hòa Bình" có in hình của giáo hoàng . Vì thế, Việt Nam Cộng Hòa rất cay đắng không bao giờ quên mối hận này đối với hai giáo hoàng Gioan XXIII và Paul VI.
 
Giáo Hoàng Jean Paul II hiện nay đang lên tiếng kêu gọi nhân dân toàn thế giới tha tội cho các tội các của Công Giáo La Mã trong 16 thế kỷ qua nhưng chưa đả động gì tới các tội ác của Công Giáo đối với dân Việt Nam.
 
Trong chiến tranh, các cha cố đã bòn rút viện trợ Mỹ che chở cho kẻ buôn lậu, đào binh, trốn quân dịch. Nhiều giáo xứ Công Giáo là những khu an toàn lý tưởng của Việt Cộng và các tội phạm đủ loại.
 
Công Giáo Bùi Chu Phát Diệm do Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi lãnh đạo chỉ tôn thờ thực dân Pháp, trước cũng như sau 1954. Trước 1954, họ chống Cộng điên cuồng, lợi dụng vũ khí của Pháp đi cướp phá các làng Phật Giáo, chiếm chùa làm nhà thờ, giết hại dân lành để cưỡng bức người ngoại đạo phải "trở lại đạo Công Giáo". Chúng chống Cộng sản do lệnh của Giáo Hoàng Pius XII, một tên đồ tể của Đức Quốc Xã tại Rome.
 
Sau 1954, họ trở cờ hòa hợp với Cộng Sản, các khu đông giáo dân như Hố Nai, Gia Kiệm là các trung tâm khai thác gỗ bất hợp pháp. Họ phá rừng lấy gỗ kiếm tiền lo làm giàu và đóng thuế nuôi Việt Cộng. Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ liên kết với bọn Mafia Bảy Viễn chống VNCH để làm lợi cho thực dân Pháp và Vatican của John XXIII và Paul VI. Ngày 12.11.1974, tập đoàn Hoàng Quỳnh Vũ Ngọc Nhạ và các nghị sĩ Công Giáo trong liên minh Nguyễn Gia Hiến đã đến xã trung lập Củ Chi gặp gở các đại diện của MTGPMN và Cộng Sản Bắc Việt để lập chính phủ ba thành phần thân Cộng Sản (Sách Ông Cố Vấn tập 3, trang 32-33).
 
Tất cả các Việt gian trong thành phần thứ ba gồm các cường hào ác bá của Bảo Hoàng trong chính quyền và quân lực VNCH, cũng như các tu sĩ làm chính trị đã là các thủ phạm chính yếu dẫn đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30.4.75.
 
Tất cả chúng đều bỏ chạy sau 30.4.75 và hiện đang chiếm lãnh các tổ chức cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Họ liên tục chống phá tại hải ngoại dưới các hình thức chống Cọng giả vờ như đòi Nhân quyền Dân chủ cho Việt Nam... chúng đang lớn tiếng hô hào Tự do Tôn Giáo, thực chất là để biến tôn giáo thành nơi trú ẩn an toàn cho bọn Việt gian đủ loại ngõ hầu sau này chúng sẽ xuất phát từ các giáo hội trở ra chống phá chính quyền mới của Việt Nam.
 
Một số ít tu sĩ Phật Giáo cũng đi vào con đường hủ hóa với lối sống xa hoa và hưởng thụ chẳng khác gì các tu sĩ Công Giáo.
 
Với tổ chức giáo hội, Phật Giáo Việt nam có lẽ đang đi vào vết bánh xe đỗ của Công Giáo La Mã.
 
Tự do tín ngưỡng (Freedom of beliefs) là một hình thức của tự do tư tưởng không có nghĩa là tự do thành lập giáo hội. Mọi người đều có thể có tín ngưỡng (niềm tin) của riêng mình nhưng không nhất thiết phải có giáo hội. Tín ngưỡng là niềm tin trong lòng, còn giáo hội là một tổ chức có hệ thống tu sĩ chỉ huy và với những đoàn thể được đoàn ngũ hóa để theo đuổi những mục tiêu nặng về thế tục hơn là tâm linh tôn giáo. Giáo hội là định chế chính trị lũng đoạn quốc gia và chia rẽ dân tộc. Muốn bảo toàn sự thống nhất quốc gia và hạnh phúc dân tộc, việc cần thiết là phải xóa bỏ mọi tổ chức giáo hội, không phân biệt là của tôn giáo nào.
 
Sở dĩ Công Giáo La Mã đã biến thành một tổ chức tội ác lớn nhất lịch sử loài người chính vì nó đã tiêu diệt các chi phái Kitô để thành lập một giáo hội duy nhất do đế quốc lãnh đạo. Trước thế kỷ thứ 4, Kitô Giáo đã có nhiều chi phái chủ trương không thành lập giáo hội, không xây nhà thờ mà chỉ có phòng hội, không thờ ảnh tượng và không có giáo lý cứng nhắc.
 
Giáo phái Macionism gọi Jehovah của đạo Do Thái là quỉ. Họ tin rằng Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của Tình Thương (Real God: God of Love).
 
Giáo phái Gnosticism thịnh hành tại Ai Cập và Tiểu Á, phân biệt Tinh Thần là Thiện, Vật Chất là Ác. Thiên Chúa là Tinh Thần cao thượng còn Vật Chất (matter) là Satan, biểu tượng của lòng tham vật dục thấp hèn. Họ cho rằng con rắn cám dỗ Adong Evà không phải là Satan mà là vị thần của sự khôn ngoan và tinh thần cao thượng. Con rắn đó thật tâm muốn giúp tổ tiên loài người ăn trái cây hiểu biết (The Tree of Knowledge) để trở nên khôn ngoan sáng suốt ngõ hầu thoát khỏi sự thống trị độc đoán của Jehovah. Con rắn không phải là quỉ mà là một đại ân nhân của loài người. Chỉ vì lòng sợ hãi hèn yếu mà Adong Evà đã không dám ăn trái cây hiểu biết nên đã không thoát ra được kiếp sống đau khổ triền miên do sự áp chế của ác thần Jehovah. Jesus là thần Logos, hiện thân của sự khôn ngoan, dạy loài người thoát khỏi trầm luân của thế giới vật chất. Jehovah không khôn ngoan bằng Logos. Danh từ Hy Lạp Gnostic có nghĩa là sự hiểu biết (knowledge), muốn ám chỉ Jesus là sự hiểu biết đích thực.
 
Giáo phái thứ ba là giáo phái thịnh hành tại Pháp do Irenaeus, giám mục tại Lyon, chủ trương. Năm 185, Irenaeus viết sách Against the Heretics" để chống lại hai giáo phái Macionism và Gnostic. Iranaeus chủ trương công nhận Jehovah của đạo Do Thái là Chúa Cha. Jesus là con duy nhất của Jehovah. Ý niệm về Đức Chúa Thánh Thần rất mơ hồ. Irenaeus xác quyết Chúa Jesus thực hiện cuộc cứu thế bằng cái chết đau khổ và 3 ngày sau sống lại hiển vinh. Cuốn sách Against the Heretics đã dọn đường cho sự hình thành bản tóm lược giáo lý gọi là "Đức Tin của các tông đồ" The Creed of Apostles) được Công Đồng Nicaea do Constantine triệu tập thông qua. Đó là sự xuất hiện của bài kinh đầu tiên của Đạo Công Giáo La Mã gọi là Kinh Tin Kính. Công Giáo La Mã là tôn giáo được cấu tạo bởi quyền lực của Constantine, dựa trên giáo lý của giám mục Pháp Irenaeus và được hoàn chỉnh bởi Augustine (như có trình bày ở đoạn trước).
 
Tất cả mọi giáo phái Kitô khác đi ngược lại với giáo lý của Irenaeus và Augustine đều bị Constantine và đế quốc La Mã tiêu diệt bằng bạo lực khủng bố. Có thể nói Công Giáo La Mã là tôn giáo của Chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay là cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại các thế lực tội ác đã gieo rắc đau khổ cho con người từ xưa đến nay. Thế giới chỉ có thể xây dựng được một trật tự mới khi nào các thế lực tội ác, dẫn đầu là Công Giáo La Mã, phải bị tiêu tan hoàn toàn và triệt để. Lương tâm và lương tri của nhân loại nhất quyết không thể cho phép nó tồn tại lâu hơn để kéo dài thêm nữa những chuổi ngày bi thảm của nhân loại.
 
Mọi người Việt Nam chúng ta phải góp công sức cùng toàn thể những người thiện lành trên thế giới mau chóng đẩy con quỉ Công Giáo La Mã xuống đáy địa ngục để chấm dứt hoàn toàn cái lịch sử tội ác gần 2000 năm của nó. Cần từ bỏ ác thần Jehovah và đám con cái của ác quỉ để dành lại vườn địa đàng của chúng ta là trái đất này. Chỉ có ác quỉ chứ không phải Thiên Chúa mới xua đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng mà thôi.
 
Vatican trước đây đã đạt tới đỉnh cao danh vọng do cấu kết chặt chẽ với các chủ nghĩa quân chủ phong kiến, chủ nghĩa thực dân đế quốc, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Nó cấu kết với các bố già Mafia Ý và bọn khủng bố quốc tế... Tất cả các thế lực tội ác đồng lõa với Vatican đã gần như đang bị dồn vào thế cô lập. Ngày tận thế của nó không bao xa. Xưa kia Jesus thường hăm dọa mọi người là ngày tận thế đã đến gần trong tầm tay (Doomsday is at hand). Nhưng 2000 năm qua vẫn không có tận thế và sẽ chẳng bao giờ có. Cái mà Jesus không biết tới là cái giáo hội Công Giáo La Mã đang bên bờ "tận thế". Cái câu nói của Jesus "Doomsday is at hand" chỉ đúng cho tình trạng hiện nay của Công Giáo La Mã mà thôi. Lịch sử tội ác của Công Giáo La Mã chống loài người là một hồ sơ dầy cộm đã đến lúc phải kết thúc. Các giáo hoàng tự xưng là đại diện của Chúa Cứu Thế (Vicars of Christ) chính là một danh hiệu làm nhục Chúa Cứu Thế hơn bất cứ cái gì khác.
 
- Đại diện Chúa Kitô như Giáo Hoàng Innocent (but not innocent) chỉ trong một buổi chiều giết 12.000 giáo dân tại Rome vì những người này đã dám chống lại y. Giáo hoàng này vượt xa hơn bất cứ một bạo chúa nào trên thế gian về tội giết người. Y là kẻ đã phát minh ra tòa án dị giáo (the Inquisition) gieo kinh hoàng tại Âu Châu liên tiếp trong 3 thế kỷ (13-16) và tiếp tục gây tội ác cho đến giữa thế kỷ 19 mới chấm dứt. Nỗi ám ảnh của dân Âu Mỹ về tòa án dị giáo được phản ảnh trong sử sách và trong cả những chuyện ghê rợn của Allan Edgar Poe. Sullivan, Verdi, Tennyson. Muốn tìm hiểu về tội ác của Giáo Hoàng Innocent này xin hãy đọc The Inquisition Hammer of Heresy, 253 trang của Edward Burman Dorset Press NY. 1992. Tội ác của Innocent kéo dài hơn 6 thế kỷ,10 triệu sinh mạng hầu hết bị thiêu sống trên dàn hỏa. Tòa án dị giáo là hiện tượng có tầm quan trọng căn bản trong lịch sử Âu Châu. Đó là một định chế xuất hiện từ thế kỷ 13 nhưng ảnh hưởng của nó còn kéo dài đến ngày nay. (Phenonmenon of fundamental importance in the history of Western Europe. As an institution, it came into being in the thirteenth century. Its effect are still felt today).
 
Tuy nhiên, đề cập đến tên vô địch dâm tặc phải kể đến đấng đại diện Chúa Kitô là Rodrigo Borgia tức "Đức Thánh Cha" Alexander VI (The Bad Popes, by E.R. Chamberlin. Dorset Press NY. 1969 pages 159-205).
 
- Giáo Hoàng Alexander VI cai trị Hội Thánh 11 năm (1492-1503). Lên ngôi giáo hoàng không do ai bầu mà do cậu ruột là Giáo Hoàng Calistus III truyền ngôi cho. Trước khi lên ngôi giáo hoàng thì y đã có vợ và 4 con đã lớn và thêm một đứa con hoang ngoài hôn thú. Việc đầu tiên là giáo hoàng phong chức cho đứa con trai tên Ceasare 18 tuổi và đứa con hoang chức vụ hồng y giáo chủ. Năm 1497, Alexander VI định đưa con thứ tên Juan lên ngôi giáo hoàng thì bỗng nhiên Juan bị giết bằng nhiều nhát dao và bị ném xác xuống sông Tiber. Người ta vớt xác Juan đem về cho giáo hoàng coi. Giáo hoàng xúc động quá đến phát điên. Y cho rằng giới quí tộc ở Rome đã hãm hại con trai yêu quí của y. Do đó, y bèn khởi động một cuộc khủng bố đẫm máu chống giới quí tộc La Mã.
 
Tuy là một bạo chúa, nhưng Alexander lại là một kẻ yêu chuộng nghệ thuật. Y đã để lại một kho tàng nghệ thuật là Đền Thánh Phêrô với các bức họa và tượng điêu khắc của hai vô địch kỳ tài là Michael Angelo và Leonardo Vinci. Chỉ vì muốn tạo cảm hứng cho Leonardo Vinci có thể mô tả sự đau khổ một cách linh động, y có sáng kiến đem các nạn nhân của tòa án dị giáo ra tra tấn trước mặt nhà nghệ sĩ tài danh này. Alexander VI có cô con gái rất xinh đẹp tên là Lucrezia. Mặc dù Lucrezia đã được gã chồng nhưng hai anh của nàng đều yêu nàng nên đã sát hại chồng nàng. Lucrezia trở về sống tại Tòa Thánh với cha ruột và hai anh mình. Lucrezia làm tình với cả cha và hai anh mình. Chỉ vì quá ghen, Ceasar đã giết em là Juan chứ chẳng phải là ai khác trong giới quí tộc La Mã. Mấy cha con của Giáo Hoàng Alexander VI thích ngồi xem những người khác làm tình tập thể. Do đó, Vatican thường xuyên diễn ra các cuộc dạ tiệc hết sức sang trọng tốn kém. Mỗi buổi dạ tiệc thường được triệu tập 50 gái điếm tuyển lựa tại Rome để vũ thoát y ngay tại phòng hội của Tòa Thánh. Các tu sĩ và nhân viên Tòa Thánh sau đó làm tình tập thể tại chỗ. Giáo hoàng cho người đi hứng các tinh dịch của đàn ông làm tình để phát thưởng. Ai có khả năng làm tình nhiều lần và xuất tinh nhiều lần đều được giáo hoàng và con gái phát thưởng! Sau đó, Lucrezia sinh ra một đứa con trai, không biết là con ai. Tuy nhiên, lúc đứa bé được 6 tháng tuổi, Giáo Hoàng Alexander đã công khai cho Lucrezia bế đứa nhỏ 6 tháng ngồi bên cạnh y khi dự các buổi tiếp tân công cộng. Từ đó, dân La Mã truyền tụng nhau một câu thơ "Giáo Hoàng Alexander là cha, là chồng, là cha chồng và là cha của cô dâu xinh đẹp Lucrezia". Alexander không chỉ loạn luân với con gái của y mà còn loạn luân với hai cô em ruột. Một trong những vợ bé của giáo hoàng nầy là Vanozza del Cantanel có con gái riêng tên Rosa. Rosa sinh cho giáo hoàng tới 5 đứa con! (Babylon Mystery Religion, page 89). Với quá nhiều oán thù, ngày 18.8.1503, Alexander VI bị đầu độc chết bằng chất bột trắng (white poison powder).
 
Kể chuyện tội ác và các tật dâm ô vô đạo của các Giáo Hoàng La Mã thì thật vô tận. Xin quí độc giả tự tìm kiếm lấy tài liệu để đọc thêm. Ở đây tôi chỉ muốn bày tỏ một nỗi đau buồn là đồng bào Công Giáo Việt Nam hoàn toàn bị đám tu sĩ bưng bít nên họ cứ tưởng giáo hoàng là các bậc thánh sống để họ tôn thờ. Gia đình Công Giáo nào cũng thường có hình giáo hoàng được gia chủ đóng khung kiếng và treo ở nơi trang trọng gần như ảnh thờ. Các sách kinh nguyện Việt Nam có rất nhiều bài kinh cầu cho giáo hoàng. Giáo hoàng được giáo dân tôn kính và cầu nguyện cho nhiều lần gấp bội số lần cầu nguyện cho những người thân nhất của mình. Tại Rome, thỉnh thoảng cũng có các đám rước giáo hoàng ngồi trên kiệu do nhiều người khiêng. Năm 1951, chính kẻ viết bài này cũng đi dự một đám rước kiệu tấm hình lớn của đồ tể Pio XII tại Bùi Chu! Thật là một điều mỉa mai đau xót mà tôi khó có thể diễn tả bằng lời...
 
Cả thế giới ngày nay người ta đã biết nhiều về bộ mặt xấu xa tội lỗi đáng ghê tởm cùng cực của cái gọi là Tòa Thánh và những kẻ được tôn xưng làm "Đại Diện của Chúa Kitô" (Vicars of Christ). Nhưng tôi vô cùng ngao ngán và phải nói rằng tuyệt đại số đồng bào đồng đạo của tôi không biết tí gì về các điều đó. Mặc dầu tôi đã kể chuyện một số giáo hoàng tội lỗi tiêu biểu ở những đoạn trên, nhưng tôi tin rằng những chuyện đó chưa đủ để làm thay đổi cái não trạng đen tối của những người đồng đạo. Đây là lý do khiến tôi phải cố gắng viết thêm nữa về Vatican và giáo hoàng. Những điều tôi kể sau đây cũng chỉ là một số rất ít trong cả một rừng tài liệu hiện có trong các thư viện. Các tài liệu hết sức phong phú lên án Vatican và giáo hội Công Giáo sẽ không có tác dụng gì nếu không có người đem nó ra trình bày bằng Việt Ngữ để giáo dân Việt Nam có phương tiện tìm hiểu. Chính sự thiếu hiểu biết của giáo dân đã làm cho các tu sĩ lộng hành và khuyến khích họ tìm mọi cách ngăn cản giáo dân tìm hiểu sự thật về giáo hội. Chính sách ngu dân luôn luôn là một phương tiện hữu hiệu nhất của kẻ thống trị xử dụng để bảo vệ thế quyền cũng như thần quyền của họ. Giáo dân có mê tín mới đem tiền đến nhà thờ xin lễ hoặc dâng cúng, các cha cố mới có nhiều tiền để xây nhà thờ to đẹp hầu phô trương uy thế của mình. Giáo dân càng ngu dốt bao nhiêu, càng khúm núm ngoan ngoãn cha cố bấy nhiêu. Giáo dân khúm núm quị lụy với cha cố bao nhiêu, càng làm cho họ lên mặt bấy nhiêu. Nếu để cho cha cố tiếp tục lộng hành lũng đoạn cả khối giáo dân, chúng có thể sẽ tạo thêm nhiều Ngô Đình Diệm cai trị đất nước. Với cương vị là tổng thống đứng đầu một quốc gia, nhưng Ngô Đình Diệm vẫn lấy tư cách giáo dân trung thành của Vatican để cúi đầu khom lưng hôn nhẫn, hôn tay các hồng y đại diện Tòa Thánh. Cử chỉ đó của Ngô Đình Diệm đã nói lên tinh thần nô lệ của Công Giáo Việt Nam và đã làm nhục quốc thể không ít.
 
Sự ngu đốt là nguyên nhân đầu cùng của mọi hành vi sai trái. Tất cả những hành vi sai trái nói trên của tập thể giáo dân đều xuất phát từ sự tối tăm không biết gì về thánh kinh, giáo hội và tu sĩ: Thánh kinh là sản phẩm bịa đặt tạo ra một giáo hội gian dối. Giáo hội gian dối tạo ra một hệ thống tu sĩ gian manh. Sự ngu dốt là nền tảng của tất cả những thứ đó.
 
Hệ thống tu sĩ Công Giáo thế giới là hệ thống tu sĩ thiếu lương thiện, đứng đầu là giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng chẳng phải do Chúa trao cho mà thường do cướp đoạt bằng đủ mọi thủ đoạn: hối lộ, mua chuộc, vận động chính trị và rất nhiều trường hợp là do mưu sát lẫn nhau. Chỉ trong vòng 12 năm (891-903), có 10 giáo hoàng liên tục giết lẫn nhau để đoạt ngôi giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng là mục tiêu quyền lực mà kẻ lãnh đạo cao cấp trong giáo hội luôn luôn nhắm tới để tranh đoạt. Chẳng cần nói đâu xa, đương kim giáo hoàng Jean Paul II lên ngôi giáo hoàng năm 1978 là do y đã can dự vào việc mưu sát giáo hoàng tiền nhiệm là Jean Paul I bằng chất độc vào đêm 5.9.1978. Việc sản xuất chất độc giết người là nghề của Jean Paul II. Trong thời đệ nhị thế chiến, Jean Paul II lúc đó là thanh niên Ba Lan mang tên Karol Wojtila, giữ chức vụ Saleman cho công ty Đức Farben Chemical chuyên sản xuất độc khí thủy ngân (Cyanicgas) cung cấp cho Đức Quốc Xã dùng chế tạo hơi ngạt giết 6 triệu Do Thái trong các trại tập trung. Việc xử dụng chất độc được gọi là "Lentulo", một thứ bột trắng chết người (the lethal white powder), là một truyền thống lâu đời của triều đình Vatican. Có lẽ khởi đầu từ thế kỷ II. Sử sách giáo hội La Mã ghi nhận con gái giáo hoàng Alexander VI là Lucrezia là một chuyên viên xử dụng chất độc giết hại nhiều người. Chính giáo hoàng Alexander VI cũng chết vì bị đầu độc năm 1503. Sách "The Pope Encyclopedia" liệt kê danh sách nhiều giáo hoàng bị mưu sát bằng chất độc bột trắng: Giáo hoàng duy nhất tại Vatican có gốc Đức quốc là Utrech bị mưu sát bằng thuốc độc năm 1073. Từ đó, người Ý dành độc quyền làm giáo hoàng cho đến ngày Jean Paul II lên ngôi năm 1978 không phải là người gốc Ý. Các giáo hoàng sau đây đều đã bị người kế nhiệm đầu độc để cướp ngôi: Pio VIII (1830), Leo XIII (1903). Pio X (1914) và Pio XI (1939).
 
Sách Babylone Mystery Religion liệt kê các vụ giáo hoàng kế nhiệm trả thù giáo hoàng tiền nhiệm. Điển hình là vụ Giáo Hoàng Stephen VI (896-897) trả thù giáo hoàng tiền nhiệm là Formosus (891-896). Sau khi giáo hoàng Formosus chết được 8 tháng, giáo hoàng Stephen VI vẫn ra lệnh quật mồ lấy bộ xương của giáo hoàng này đặt lên ghế giáo hoàng. Stephen VI đứng phía trước bộ xương tra hỏi và chửi rủa. Stephen VI kết án bộ xương của Formosus rồi truyền vứt bộ xương ra đường phố, cuối cùng được vứt xuống sông Tiber. Stephen VI kết tội Formosus rối đạo và sai lầm.
 
Giáo Hoàng Honorius I, sau khi chết cũng bị Tòa Thánh họp hội nghị đem hồ sơ ra xét xử năm 680. Giáo hoàng Honorius bị kết án là sai lầm và rối đạo! Vậy mà giáo dân Việt Nam vẫn đọc kinh "Đức Chúa Trời đã đặt Đức Giáo Hoàng lên quyền rất trọng, là cai trị các giáo hữu đời này, cho nên khi Đức Giáo Hoàng truyền sự nào chung cho các giáo hữu, cùng phán dạy phải tin cùng điều nọ chẳng nên tin thì Đức Chúa Trời hằng soi sáng cùng gìn giữ Đức Giáo Hoàng cho nên chẳng có lẽ nào sai lầm được." (Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu, trang 326).
 
CÁCH LÀM TIỀN CỦA VATICAN
 
Tiếp sau quyền lực là Tiền. Tiền là mối quan tâm hàng đầu của Vatican vì dành quyền là để chiếm độc quyền làm tiền. Các bộ óc siêu đẳng về tài chánh được xử dụng tìm mọi cách để làm giàu: ban các chức thánh, bán ơn đại xá Tòa Thánh, ơn tha tội (indulgence) cho người chết trong lễ cầu hồn, tổ chức hành hương, tổ chức năm thánh (jubilee) bán thánh tích v.v...
 
Trong năm thánh 1300 (the jubilee year of 1300) tiền bán ơn tha tội cho người chết gồm cả tiền mặt và vàng bạc nữ trang nhiều đến nỗi Tòa Thánh phải cho các tu sĩ dùng cào để cào thành đống tại Đền Thánh Phêrô. Thế kỷ 13 được coi là thế kỷ sáng chói của Tòa Thánh về phương diện tài chánh. Tòa Thánh sản xuất nhiều thánh tích giả để đem bán đấu giá. Thậm chí có cả chiếc răng sữa và miếng da qui đầu của Chúa Jesus! Có cả tã lót và bình sữa Đức Mẹ dùng nuôi Chúa lúc nhỏ. Tổng số đinh và gỗ thu lượm tại Jerusalem được gán cho là gỗ của thập giá và đinh đóng vào tay chân Chúa nhiều đến nỗi có thể dùng đóng chiến hạm! Chúa chỉ bị đâm cạnh sườn bằng một cây giáo, vậy mà Tòa Thánh chính thức bán đấu giá tới 3 cái! Các sử gia đã phải gọi Giáo Hội Công Giáo là giáo hội đói tiền (A money-hungry church). Giáo hội đã biến Núi Sọ của Chúa thành NÚI VÀNG: Church turn Golgotha (mountain of Skulls) into Golconda (mountain of gold). Nguyên nhân thúc đẩy các thập tự quân đi đánh các nước Hồi Giáo là lòng ham muốn chiếm đoạt tài sản của họ. Sử gia Lloyld Graham viết trong The Deceptions and Myths of the Bible, trang 472: "Núi vàng biến thành chiến trường của thập tự quân. Động cơ chính yếu là lòng thèm muốn của dân Âu Châu đối với sự giàu có huy hoàng của người Ả Rập" (Golcond was turned into battleground of the Crusades. The real motivation was hungry Europe’s envy of the wealth and splendor of Araby). Sử gia Lloyld kết luận: "Sử gia sau tôi sẽ viết một cuốn sử khác tựa đề là: Sự suy đồi và sụp đổ của giáo hội Công Giáo". (Another historian will write another book and he will call it: The Decline and Fall of the Roman Church).
 
Từ ngày Constantine lập ra đạo Công Giáo, giáo hội đã mau chóng trở thành giàu có ngoài sức tưởng tượng. Thời Trung cổ, giáo hội là sở hữu chủ các thành phố tại Âu châu. Tất cả các quốc gia Công Giáo đều buộc dân chúng phải nộp thuế cho Tòa Thánh. Năm 1170, Giáo Hoàng Alexander II ra đạo luật buộc mọi khế ước, di chúc phải được tu sĩ thị thực và thu lệ phí mới có giá trị.
 
Việc bán ơn đại xá (tha tội cho linh hồn người chết) là một nguồn thu nhập khổng lồ của Vatican. Dân Ái Nhĩ Lan có câu tục ngữ: "Tiền nhiều lễ lớn, tiền ít lễ nhỏ, không tiền không lễ" (High money high mass, low money low mass, no money no mass). Đến thế kỷ 19, dư luận Âu Châu cho rằng có rất nhiều linh hồn đã bị lãng quên (forgotten souls in Purgatory) cần phải được Tòa Thánh cầu nguyện tập thể cho họ. Do đó, Tòa Thánh lập ra Lễ Các Thánh vào ngày 2 tháng 11 hằng năm để cầu cho các vong hồn không có thân nhân nộp tiền xin lễ ở các nhà thờ! Lễ Các Thánh bắt đầu có từ 1856.
 
Để các đồng đạo Việt Nam của tôi có một cái nhìn khái quát về guồng máy đầu não điều khiển giáo hội, về các biến cố lịch sử cận đại của thế giới có liên hệ đến Tòa Thánh và nhất là các giáo hoàng có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam như Pio XII, Gioan XXIII, Paul VI, Jean Paul II, tôi xin tóm lược tác phẩm Vicars of Christ – The Dark Side of The Papacy [Tác phẩm này có dành một chương viết về các giáo hoàng dâm loạn đăng trong cuốn "Tại sao không theo đạo Chúa" tập 1.]
 
của cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa do Crown Book Editions xuất bản năm 1988. Đây là một tác phẩm best-seller (bán chạy nhất) trong nhiều năm của một tác giả được báo chí gọi là siêu điệp viên quốc tế về thâm cung bí sử của Vatican.
 
TÁC PHẨM KIỆT XUẤT "KẺ ĐẠI DIỆN CHÚA"
 
Mở đầu cho tác phẩm kiệt xuất này, tác giả viết bài The Great Cover-up để thay lời tựa. Tôi đã mô phỏng ý của tác giả để viết bài Cái khố của Jesus trên thập giá đăng trên Đông Dương Thời Báo, xuất bản tại Houston Texas ngày 30.7.1998. Tác giả dùng chứng cớ lịch sử chứng minh cái khố của Jesus trên thập giá là hoàn toàn giả mạo vì mọi kẻ bị đóng đinh đều bị lột trần truồng. Cái khố đó nhỏ xíu nhưng là biểu tượng cho sự bịp bợm dối trá của đạo Kitô. Vatican là tổng hành dinh của tội ác chống nhân loại và đồng thời cũng là cái xưởng chế tạo đồ giả lớn nhất thế giới. Sau đây là những nét chính yếu của nội dung tác phẩm:
 
Tác phẩm Vicars of Christ chú trọng tới việc vạch trần tội ác diệt chủng Do Thái của Giáo Hội Công Giáo trong suốt 16 thế kỷ qua. Nguyên nhân dẫn đến tội ác diệt chủng này và hành vi tội ác của các kẻ tự xưng là "Đại Diện của Chúa Kitô" đã diễn ra như thế nào.
 
Chúng ta đã biết, vào đầu thế kỷ 4, đa số dân chúng trong Đế Quốc La Mã đều theo đạo Kitô với nhiều giáo phái khác nhau. Tuy các giáo phái có khác nhau về giáo lý nhưng đều đồng nhất ở điểm cùng tôn thờ Jesus là Chúa Cứu Thế (Messiah/Christ Savior, Redeemer). Constantine có sáng kiến thống nhất các giáo phái này thành một đạo Kitô thống nhất được gọi là "Công Giáo" để làm lợi khí xâm lược toàn cầu, vì Công Giáo có nghĩa là "toàn cầu". Sau khi thống nhất Kitô Giáo hoàn toàn vài năm 340, Constantine ra lệnh hủy diệt hết mọi dấu vết của các giáo phái Kitô khác, bao gồm các cuốn kinh thánh Tân Ước không phù hợp với đạo Công Giáo, xóa bỏ mọi dấu vết thật của Chúa Jesus tại Jerusalem, thiêu hủy mọi sách triết học khoa học của Hy Lạp. Muốn thống nhất đạo Kitô, đế quốc La Mã không thể làm điều gì khác hơn là phải tôn Jesus lên làm Thiên Chúa Toàn Năng. Nhưng vì không thể tôn thờ một người do chính mình đã giết hại nên Đế quốc La Mã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus cho Do Thái là nước thuộc địa đã dám chống lại mẫu quốc. Một công hai việc, một mặt vừa đạt mục tiêu thống nhất đạo Kitô, mặt khác vừa trả thù Do Thái một cách ghê gớm chưa từng thấy. Đó là nguyên nhân đã đưa đến chủ trương diệt chủng Do Thái của Đế Quốc La Mã mà kẻ thừa kế là Vatican.
 
Về mặt giáo lý, La Mã bịa chuyện Pilate rửa tay để phủi trách nhiệm kết tội tử hình Jesus. Các kinh sách cầu nguyện luôn luôn nói là dân Do Thái đòi phải giết Chúa. La Mã đã thành công trong việc biến máu cứu chuộc của Chúa Jesus thành máu hận thù dân tộc Do Thái đến muôn đời. Chúa Jesus dạy mọi người phải thương yêu và tha thứ cho nhau, nhưng La Mã dạy giáo dân không thể tha thứ cho dân tộc Do Thái về tội đã giết Chúa. Sự thật lịch sử là dân Do Thái dưới sự thống trị của La Mã không có quyền xử tử bất cứ ai. Xưa kia, lúc Do Thái còn độc lập tự trị, luật pháp của họ chỉ dự liệu phương cách xử tử tội nhân bằng cách ném đá chứ không hề xử tử tội nhân bằng thập tự giá bao giờ. Mọi việc xét xử tội nhân dưới thời lệ thuộc hoàn toàn do Đế Quốc La Mã quyết định. Phương cách xử tử tội nhân bằng thập tự giá là phương cách đặc biệt của La Mã và Hy Lạp dùng để khủng bố trấn áp nô lệ và dân thuộc địa. Họ không áp dụng lối xử tử nhục nhã và rất đau đớn này đối với công dân của họ. La Mã đã thành công nhồi sọ giáo dân phân biệt hai thứ máu Do Thái. Máu cứu chuộc của Chúa là máu của Abraham, David, Solomon và các thánh. Máu của dân Do Thái là máu tội lỗi của Herod, Caipha, Judas Escariot.
 
Tội của tổ tiên Do Thái là tội trực tiếp giết Chúa, tội của dân tộc Do Thái từ đó đến nay là tội phủ nhận chúa Jesus là Thiên Chúa Toàn Năng, đấng tạo thành vạn vật và tạo thành cả tổ tiên đã sinh ra mình!
 
Về mặt tuyên truyền, đế quốc La Mã phao tin vu cáo người Do Thái hay bỏ thuốc độc để giết hại người Kitô Giáo và hay bắt cóc con nít cắt tiết để uống máu. Do đó, từ giữa thế kỷ 4 trở đi, bất cứ nơi nào có người Kitô Giáo là ở đó có sự hận thù Do Thái cùng cực.
 
Hình ảnh 14 "đàng thánh giá" trong các nhà thờ đều mô tả quân lính La Mã đánh đập và giết Chúa, nhưng mọi giáo dân đều không nghĩ đó là lính La Mã mà chỉ gọi là "quân dữ" hoặc "quân Giu-dêu". Họ căm thù Do Thái và quên khuấy một điều là cả Chúa, Đức Mẹ, các thánh tổ tông, các thánh tông đồ tất cả đều là Do Thái!
 
Suốt thế kỷ 12 và 13, tại khắp Âu Châu, người Do Thái bị cấm không được tiếp xúc với người Kitô Giáo. Họ bị tước đoạt hết nhà cửa và tài sản. Ban đêm, tất cả mọi người Do Thái không phân biệt già trẻ, đàn ông, đàn bà, con nít, đều bị lùa vào các khu tập trung có cổng khóa chặt, tiếng Ý gọi là GHETTOS – Đây là một phát minh độc đáo của giáo hội Công Giáo La Mã. Các sử gia đã phải than rằng: Ghettos là một chế độ apartheid tàn bạo chưa từng thấy.
 
Mỗi lần La Mã tổ chức các cuộc thập tự chinh đến các nước xa xôi, việc đầu tiên của thập tự quân là đi lùng bắt những người Do Thái cư trú tại địa phương đó đem đi chém giết tập thể.
 
Tại các quốc gia có vua chúa Công Giáo cai trị, mọi người Do Thái đều bị cấm xuất đầu lộ diện vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Bất cứ người Do Thái nào bị bắt gặp trên đường phố đều bị xử tử tại chỗ!
 
Vào thế kỷ 16, giáo dân tôn sùng giáo hoàng và tin rằng giáo hoàng không bao giờ sai lầm. Giáo hoàng ra lệnh gì, giáo dân thi hành triệt để. Do vậy, tai họa đến với người Do Thái càng trầm trọng hơn.
 
Năm 1581, Giáo Hoàng Gregory XIII ban tông huấn: "Tội ác của Do Thái trong việc chối Chúa và đóng đinh Chúa Jesus chỉ càng ngày càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó Do Thái phải bị nô lệ muôn đời". (The guilt of Jews in rejecting and crucifying Jesus only grows deeper with successive generation, entailing perpetual slavery). (page 191).
 
Cuối thế kỷ 18 tại Rome, 2030 người Do Thái bị buộc phải "trở lại" đạo Công Giáo. Khi họ đi nhà thờ nếu lỡ ngủ gật, có thể bị các người cai quản nhà thờ đập chết hay đánh trọng thương. Nhiều người Do Thái muốn tránh cho con cái của họ sau này khỏi bị hành hạ, đã đem con đến nhà thờ cho cha cố rửa tội. Sau đó họ chẳng bao giờ được gặp lại con của họ nữa. Nhà thờ đem chúng đi biệt tích vì sợ sau này chúng lớn lên sẽ trở lại đạo Do Thái!
 
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã mở đầu cho phong trào bài trừ mê tín tại Âu Châu. Các nhà đại tư tưởng có khuynh hướng nhân đạo và cấp tiến như Voltaire , J.J. Rousseau Montesquieu, Diderot và ở Anh có Thomas Paine, đã cố gắng soi rọi ánh sáng để xóa tan bóng tối đã bao phủ Âu Châu nhiều thế kỷ. Nhưng ánh sáng đó chẳng bao giờ soi tới Vatican! Các giáo hoàng là các bạo Chúa vô địch về tính thủ cựu. Tất cả các giáo hoàng vẫn tiếp tục giữ nguyên thành kiến căm thù Do Thái và vẫn tiếp tục duy trì chế độ Ghettos tại Ý, trong khi hầu hết các nước Âu Châu đã bãi bỏ chế độ này đối với người Do Thái.
 
Sau khi thuốc chủng ngừa các bệnh được Pasteur phát minh, mọi người trên thế giới đều được quyền hưởng lợi ích của sự chích ngừa, Giáo Hoàng Leo XII lại ra lệnh cấm chích ngừa cho người Do Thái. Sự hành hạ người Do Thái tại Ý càng trở nên tàn bạo khiến cho vua Áo Franz Joseph và vua Pháp Napoleon III phải gửi văn thư cảnh cáo giáo hoàng: "Ngài đang trở nên thù địch với công tâm của toàn thế giới" (You are antagonizing the world opinion). Nhà quí tộc Anh đích thân đến Vatican khuyên Giáo Hoàng Pius IX phải bớt cứng rắn với Do Thái. Sau khi thấy các lãnh đạo thế giới đã khuyên bảo Tòa Thánh phải thay đổi chính sách đối với Do Thái mà không có hiệu quả, vua Ý không thể kiên nhẫn được, đã dùng hỏa lực quân sự chiếm Vatican ngày 2.10.1870. Vua Ý đã dùng thế quyền tước bỏ thần quyền của giáo hoàng, hủy bỏ các sắc luật đối xử bất công với Do Thái của Tòa Thánh từ xưa đến nay. Nhà vua ban hành đạo luật của hoàng gia Ý (Royal decree) công bố người Do Thái được hưởng toàn quyền tự do bình đẳng như các người công dân Ý khác. Chính sách ngược đãi Do Thái tại Ý trong 15 thế kỷ của Vatican bị hoàn toàn chấm dứt. Thành lũy Ghettos cuối cùng ở Âu Châu đã bị bỏ bằng sức mạnh quân sự của thế quyền nước Ý!
 
Mọi người trên thế giới tưởng rằng người Do Thái đã thoát nạn diệt chủng, nhưng giáo hội Công Giáo vẫn chưa chịu thua. Tội ác của họ tiếp tục dưới hình thức khác.
 
Năm 1926, Giáo Hoàng Pius XI (1922-1939) ra lệnh cho Đảng Công Giáo (The Catholic Party) giải tán để nhập vào đảng của Mussolini. Năm 1929, đảng của Mussolini ký hiệp ước với Vatican tại Lateran chia xẻ quyền hành tại Ý, tiêu diệt các phong trào tiến bộ và tiếp tục chính sách chống Do Thái.
 
Trong khi đó, Hồng Y Pacelli là nhà ngoại giao của Vatican tại Đức đã ra sức vận động Đảng Công Giáo Đức và các lãnh tụ chính trị Công Giáo Đức ủng hộ cho Hitler để đưa y lên cầm quyền. Hồng Y Pacelli về sau trở thành Giáo Hoàng Pius XII [Ông giáo hoàng này đã vận động chính phủ Mỹ dội từ 1-6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt năm 1954 để giải vây cho quân đội Pháp nhằm kèo dài sự đô hộ của thực dân trên đất nước Việt Nam.] khét tiếng chống Cộng và ủng hộ Pháp.
 
Từ giữa thập niên 1930, trước cửa nhà của những người Do Thái thường bị những kẻ bí mật vẽ dấu hiệu ngôi sao David (sao 6 cạnh) bằng sơn. Trên cây thánh giá ở nhà thờ, chữ JNRJ được thay thế bằng chữ Đức, có nghĩa là "Jews are not welcome here". Năm 1936, giáo hội Công Giáo Đức cử giám mục Osmabruch đến gặp Hitler. Hai người đàm đạo với nhau trong hơn một giờ. Hitler đã xác quyết với Giám Mục Osmabruch là có cùng một quan điểm với giáo hội trong mục tiêu diệt Do Thái. Hitler nói: "Chẳng phải là giáo hội đã coi bọn Do Thái là ký sinh trùng và nhốt chúng vào Ghettos đó sao? Tôi chỉ đang làm những gì giáo hội đã làm trong 15 thế kỷ qua, và làm cho hữu hiệu hơn... với tư cách là một người Công Giáo, tôi ngưỡng mộ và muốn chấn hưng đức tin Kitô" (Had not the church looked on the Jews as parasites and shut them in ghettos? I am only doing what the church has done for fifteen hundred years more effectively... Being a catholic, I admired and wanted to promote Christianity).
 
Đức Quốc Xã và Giáo Hội Công Giáo giống nhau ở mục tiêu là diệt chủng Do Thái. Chỉ khác nhau ở chỗ Đức Quốc Xã ngược đãi Do Thái vì kỳ thị chủng tộc còn giáo hội Công Giáo thù ghét Do Thái vì Do Thái không chịu công nhận Jesus là Kitô như ý của Đế Quốc La Mã mong muốn. Điều kỳ quặc là Công Giáo bắt chước Do Thái tôn thờ Đức Chúa Trời (tức Jehovah) nhưng lại kết tội Do Thái thờ lầm Chúa Jesus vốn là tín đồ đạo Do Thái, chính Vatican đã buộc Jesus phải bỏ Do Thái Giáo để "trở lại" đạo Công Giáo La Mã!
 
Xét kỹ ra thì cái tội của Do Thái là chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (The Unity God) chứ không thờ Thiên Chúa của Công Giáo La Mã là Thiên Chúa Ba Ngôi (The Trinity God). Công Giáo Hy Lạp (tức Chính Thống Giáo) cũng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi như Công Giáo La Mã, chỉ khác ở chỗ Chính Thống Giáo cho rằng: Chúa Cha lớn nhất, Chúa Thánh Thần thứ nhì và Jesus thứ ba. Vatican chủ trương ba ngôi Thiên Chúa bằng nhau (như ba ông đầu râu trong bếp ở nhà quê ta). Khác nhau chỉ có mấy điểm nhỏ nhặt mà hai giáo phái Kitô này đã giết nhau trong 10 thế kỷ qua, huống hồ dân Do Thái khác với Vatican như mặt trời mặt trăng!
 
Pio XII lên ngôi 1939, là thời điểm khởi sự Đệ nhị Thế chiến. Tên thật là Pacelli, sinh tại Ý năm 1876, sống tại Đức 25 năm, nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ và thông thạo lịch sử phong tục văn hóa Đức còn hơn người Đức. Năm 1929, lên chức Bộ trưởng ngoại giao của Vatican. Được bầu giáo hòang lúc 63 tuổi. Pio XII thừa biết Đức Quốc Xã tung đòn khốc liệt tiêu diệt Do Thái, nhưng vốn có dòng máu lạnh bẩm sinh của Mafia và có khuôn mặt diều hâu, y luôn luôn câm miệng hến như chẳng có gì xảy ra.
 
Ngày 4.6.1940, Vatican đưa Mussolini lên cầm quyền tại Ý. Chưa đầy một năm sau, 3/4 dân Do Thái tại Ý về chầu Chúa Jehovah hết, trong số đó không thiếu gì người Do Thái có đức tin Công Giáo thờ cả ba ngôi Thiên Chúa mà cũng không thoát chết!
 
Ba Lan là xứ Công Giáo toàn tòng, là đạo quân thứ 5 của Đức Quốc Xã, chỉ trong mấy tháng năm 1942 đã giết 700.000 người Do Thái. Riêng tháng 7 đến tháng 9 năm 1942, 5000 trẻ em Do Thái được đưa từ Ba Lan và Pháp qua Drancy (Đức) để làm vật thí nghiệm y khoa, trong số đó có 1000 em dưới 6 tuổi. George Wellers, tác giả cuốn sách Drancy viết: "Từng đoàn chiên kinh hoàng (ám chỉ các em nhỏ Do Thái) bị giết mà cái môi của Rome vẫn cứ ngậm chặt và nó đã được hàn lại vĩnh viễn" (A frightened flocks of lambs were slaughtered... Rome’s lips were firmed closed and it turned out permanently sealed).
 
Một bác sĩ Đức Quốc Xã làm việc tại Drancy sau Đệ nhị Thế chiến đã thú nhận tại nhà giam: "hỏa ngục của Hitler đã tiêu thụ một triệu trẻ em. (Hitler’s hell consumed one million children!).
 
Giữa lúc chiến tranh khốc liệt vào tháng 1.1943, nước Pháp bị Đức chiếm đóng và Đức vẫn tiếp tục giết người Do Thái, giáo hội Pháp cử Hồng Y Laval sang Rome trao cho Giáo Hoàng Pio XII ngân khoản rất lớn của chính phủ Pétain tặng Tòa Thánh. Hai người đàm luận rất vui vẻ và không hề nói gì tới số phận của người Do Thái.
 
Tháng 12.1943, Phát-xít Ý ra lệnh tước bỏ quyền công dân Ý của mọi người Do Thái. Kết quả mọi người Do Thái thoát chết trước đây đều bị tàn sát. Thảm cảnh của họ được mô tả trong tác phẩm Death in Rome của Robert Katz.
 
Tác giả viết: "Có một người có thể cứu sống mọi người Do Thái tại Rome, nhưng người đó đã không muốn cứu. Người đó là Pio XII". Tướng Đức cầm đầu cơ quan SS tại Rome còn biết thương Do Thái đã nhờ một linh mục Đức là Pancrazzio mật báo cho Pio XII biết sẽ có tắm máu Do Thái tại Rome. Vậy mà "Đức Thánh Cha" Pio XII vẫn lờ đi. Chẳng những thế, Pio XII còn ra lệnh cho đài phát thanh Vatican không được loan tin gì về Do Thái. Cả thế giới ít ai biết: Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hitler không biết sợ một ai, ngoại trừ giáo hoàng! Lý do: Công Giáo Đức khá ngoan đạo và chiếm đa số trong quân đội, trong cảnh sát đặc biệt SS và các đoàn thể tại Đức. Chỉ một câu nói của giáo hoàng cũng có thể làm tinh thần của quân đội, cảnh sát và quần chúng Đức suy yếu. Pio XII rất thông minh và dư biết điều đó. Pio XII là "Hitler trong tâm" hoàn toàn giữ im lặng để khích lệ "Hitler trong hành động" mặc sức tung hoành tiêu diệt Do Thái.
 
Khoảng năm 1960, giáo hội Công Giáo muốn vận động phong thánh cho Pio XII. Kẹt một điều là nếu phong cho Pio XII làm á thánh thì phải phong cho Hitler làm hiển thánh! Giáo dân Đức cuồng tín đã có người khấn vái Pio XII: "Lạy đức Pio XII là đấng đã yêu nước Đức hết mình, xin hãy cầu cho chúng con!".
 
Dân Do Thái vẫn tự hào là dân Chúa chọn (The Chosen People) nhưng lại không biết thánh ý của Chúa chọn để làm gì. Nay nhiều người đã hiểu thánh ý của Chúa là thế! Ngày 5.6.1944, quân đồng minh tiến vào Rome. Số người Do Thái "đã được Chúa chọn" nhưng chưa diệt kịp còn sót lại rất ít. Tất cả đều được quân đồng minh giải thoát.
 
Sau đệ nhị thế chiến, các người Do Thái truy tầm bọn Đức Quốc Xã để trừng trị. Họ rất thù ghét Pio XII nhưng vì giáo hòang là thủ lãnh của một tôn giáo lớn có ảnh hưởng chính trị toàn cầu nên Pio XII đã được giới chính trị quốc tế tha mạng.
 
Dư luận thế giới nguyền rủa Pio XII vang lên từ mọi phía. New York Times gọi Pio XII là "biểu tượng của sự vô trách nhiệm luân lý". Vì thế, Viện Bảo Tàng lịch sử Bronx ở New York có cả một gian hàng triển lãm tội ác của Pio XII với bảng hiệu "Tên Đồ Tể Quốc Xã tại Rome" [Trong lúc đó, giáo hội Công Giáo Việt Nam trước 1975 lấy tên ông giáo hoàng nầy đặt tên cho một chủng viện ở Đà Lạt gọi là Giáo Hoàng Chủng Viện PIO XII.]
 
(The Nazi Butcher at Rome). Linh Mục dòng Tên Fontana phát biểu: "Kẻ làm đại diện của Chúa mà thản nhiên nhìn tội ác diễn ra trước mặt là một tội ác ghê gớm". Văn hào Pháp Fanncois Mauriac tuyên bố: "Đấng kế vị Thánh Phêrô không hề lên tiếng về sự hành hạ đối với các anh em của Chúa Jesus, cũng không hề có một biện pháp nhỏ nhoi nào xứng hợp với trách nhiệm của một vị lãnh đạo tinh thần lớn nhất hoàn cầu. Dù cho biện minh bằng cách nào chăng nữa thì sự im lặng đó hiển nhiên đã là một tội ác".
 
Mười lăm năm sau khi các trại tập trung Do Thái ở Auschwitz, Burgen, Dachau, Ravensbrunch bị đóng cửa do sự thắng trận của đồng minh, năm 1960, giáo hoàng kế nhiệm Pio XII là John XXIII đã đến những địa điểm tội ác đó để làm lễ và cầu nguyện" "Lạy Chúa, dấu ấn của Cain đã đóng trên trán của chúng con. Qua bao nhiêu thế kỷ, máu người anh em Abel của chúng con do chúng con làm đổ ra cùng với nước mắt vì chúng con đã quên mất tình yêu của Chúa. Lạy Chúa, xin tha tội chúng con vì chúng con đã nguyền rủa sai lầm. Xin Chúa tha tội chúng con đã đóng đinh Chúa lần thứ hai trên thân xác của những người anh em Do Thái. VÌ CHÚNG CON CHẲNG BIẾT VIỆC CHÚNG CON LÀM" (The mark of Cain is stamped on our foreheads. Across the centuries, our brother Abel has lain in blood which we drew and shed tears we caused by forgetting thy love. Forgive us, Lord for the curse we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying Thee a second time in their flesh. FOR WE NOT KNEW WHAT WE DID).
 
Giáo hoàng Gioan XXIII đã thú nhận toàn bộ giáo hội Công Giáo trong những thế kỷ qua đã sai lầm và hành động trong sự ngu dốt vì "không biết việc mình làm". (We knew not what we did). Vậy mà giáo dân Công Giáo vẫn cứ tin "giáo hoàng không thể sai lầm!".
 
Trong một buổi chiếu phim tại Vatican, khi chiếu đến cảnh quân đồng minh đến giải thoát những người Do Thái còn sống sót tại trại tù Belsen, John XXIII xúc động thấy những thân xác gầy trơ xương, mắt họ sâu hoắm như sọ người chết, John XXIII bật khóc rồi kêu rú lên: "Lạy Chúa, đây mới là mầu nhiệm Thánh Thể của Chúa Kitô" (Oh my Lord, this is The Mystical Body of Christ). Cái làm cho John XXIII xúc động là tất cả các tù nhân sống sót đều trần truồng, và đó mới là hình ảnh thật của Jesus trên thập giá!
 
Trong đệ nhị thế chiến, dư luận thế giới có ác cảm với giáo hội Công Giáo do các hành động của Pio XII. Giáo hội muốn coi cái chết của Pio XII năm 1958 như một dấu chấm của một thời đại sai lầm. John XXIII muốn gỡ lại danh dự cho giáo hội bằng một chính sách đối ngoại mới được gọi là hiệp thông (ecumenism). Từ đầu thập niên 1960, John XXIII theo đuổi chính sách sống chung hòa bình với Cộng Sản và đối thoại thân hữu với các giáo phái Kitô và các tôn giáo khác. John XXIII chủ xướng công đồng Vatican cải cách giáo hội.
 
Để sống còn trong thời đại mới, Vatican chấp nhận cho các giáo dân tuân theo các tập tục cổ truyền của các dân tộc, lấy vợ lấy chồng ngoại đạo và làm lễ bằng ngôn ngữ địa phương thay vì xử dụng tiếng La Tinh.
 
Trong 5 năm cai trị giáo hội (1958-1963), John XXIII canh cải nhiều mặt của giáo hội chỉ nhằm cứu vãn danh dự cho giáo hội bề ngoài mà thôi. Kỳ dư, mọi sai lầm căn bản của giáo hội vẫn còn y nguyên. John XXIII cũng có lòng thương xót dân tộc Do Thái nhưng quyền lực và tham vọng của Vatican vẫn luôn luôn là ưu tiên tối thượng. Các hành vi đóng kịch của y chỉ làm cho lương tâm nhân loại bớt giận. Thực chất, theo tác giả Peter de Rosa, John XXIII chỉ là "một luật sư của quỉ" (The Devil’s Advocate).
 
Sau cái chết của John XXIII, Paul VI kế nhiệm lại dẫn giáo hội Công Giáo trở lại thời trung cổ. Năm 1965, trong ngày Chủ Nhật lễ tưởng niệm Chúa bị đóng đinh (Passion Sunday), Paul VI giảng tại Đền Thánh Phêrô với luận điệu cũ rích: "Do Thái đã được Kinh Thánh báo trước về Chúa Jesus là đấng Kitô cả ngàn năm. Vậy mà khi Chúa đến, họ chẳng những không nhận Ngài là đấng Kitô mà còn sỉ nhục Chúa và cuối cùng họ đã đóng đinh Chúa trên thập giá!".
 
Lời thuyết giảng của Paul VI năm 1965 không khác gì với lời thuyết giảng của Gregory XIII năm 1581: "Tội ác chối Chúa (không phải là Kitô) và đóng đinh Chúa của Do Thái càng ngày càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó họ phải bị nô lệ vĩnh viễn!" (The guilt of Jews in rejecting and crucifying Jesus only grows deeper with successive generations, entailing perpetual slavery. Page 191-201 Vicars of Christ).
 
Giáo hội Công Giáo vẫn tiếp tục đi theo con đường mòn cố hữu của lịch sử tội lỗi của mình.
 
Năm 1978, Hồng y Ba Lan Karol Wojtyla lên làm giáo hòang lấy hiệu là Jean Paul II. Bề ngoài Giáo Hoàng Jean Paul II tỏ ra là một người xông xáo hoạt bát đầy uy quyền, trong thực tế ông ta cũng như các giáo hoàng khác đều chỉ là những "người tù trong cung điện". Văn phòng của Jean Paul II ở lầu 3 của tòa lâu đài Phêrô. Một toán lính Thụy Sĩ mặc y phục cổ xưa sặc sở như cầu vồng, chỉ làm nhiệm vụ nghi lễ chứ không có tính cách quân sự. Cơ quan quân sự bảo vệ giáo hoàng thật sự là Ufficio Central di Vigilanza mặc đồng phục xanh, võ trang những vũ khí cá nhân cực kỳ hiện đại và luôn luôn sẵn sàng nhả đạn bắn chết bất cứ ai khả nghi đến gần giáo hoàng mà không được phép. Toán võ trang có vô tuyến liên lạc thường xuyên với tổng hành dinh cảnh sát Ý và lực lượng bí mật mang ngụy danh Digos. Giáo hoàng là đầu não của cả một hệ thống giáo sĩ đông đảo gồm 4000 hồng y và giám mục. Đội ngũ managers là các linh mục lên tới tổng số 400.000!
 
Jean Paul II là một trong số rất hiếm hoi các giáo hoàng không phải gốc Ý:
 
Adrian VI (1522-1523) người Phần lan (Flemish)
Alexander VI (1492-1503) người Pháp
Sylvester II (999-1003) người Tây Ban nha.
Trong thời gian nước Pháp hùng mạnh đã áp lực đưa Tòa Thánh dời Vatican về Avignon. Các vua Pháp đã phong chức cho 7 đời giáo hoàng cai trị hội thánh. Các giáo hoàng này đã không được chọn do sự soi sáng của "Đức Chúa Thánh Thần" mà hoàn toàn do Đức Vua Pháp, nhưng cũng vẫn cai trị giáo hội như thường".
 
Năm 1978, Karol Wojtyla lên làm giáo hoàng do sự sắp đặt quốc tế để thay thế giáo hoàng Jean Paul I bị đầu độc chết bí mật sau 33 ngày cai trị ngắn ngủi. Đế Quốc La Mã xưa kia gọi dân Ba Lan là dân nô lệ (Slaves), nên bây giờ giáo hoàng tự nhận là dân gốc Slavonic. Chắc Wojtyla đã không thể ngờ được một tên nô lệ lại đứng đầu cả một giáo hội to lớn của La Mã!
 
Jean Paul II là một giáo hoàng trẻ nhất trong lịch sử cận đại của Vatican. Từ thuở nhỏ, Jean Paul II đã từng sinh sống bằng nghề làm lao công trong xưởng máy, thích leo núi và đã từng là diễn viên tài tử đóng kịch mấy năm, đôi khi cũng mơ mộng làm thơ tình. Jean Paul II là giáo hoàng duy nhất mặc sì-líp tại hồ bơi của Tòa Thánh.
 
Năm 1981, Jean Paul II rất lấy làm lo lắng cho tương lai của giáo hội vì bưu điện ùn ùn gửi tới Tòa Thánh 8000 lá đơn của linh mục đòi lấy vợ. Ngoài ra còn có 3000 linh mục khác không thèm hỏi ý kiến của "Đức Thánh Cha" đã tự ý cởi áo dòng chạy theo người yêu. Buồn nhất là có tới 20.000 linh mục thuộc diện tiến bộ đã bỏ đạo luôn và không bao giờ trở lại. Tại các nước Âu Mỹ, hàng ngũ linh mục già nua không có người thay thế. Món hàng cứu chuộc của Chúa hiện đang thiếu người rao bán rất trầm trọng. [Hiện nay, dân Anamites Công Giáo tị nạn cố điền bớt chỗ trống.] Lời Chúa phán xưa kia chưa bao giờ thê thảm như bây giờ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít". Trong khi đó, giáo phái Tin Lành càng ngày càng hung hãn cạnh tranh nghề nghiệp. Họ chiếm lãnh thị trường trên TV để độc quyền chương trình "Salvation on sale!" (Sự cứu rỗi đang bán hạ giá). Tháng 8.1987, tờ Time mở cuộc thăm dò (poll) đã phát giác ra một sự thật: 97% giáo dân Mỹ không còn để ý đến giáo hoàng nữa! Giáo dân Mỹ có trình độ học thức cao nên đã sớm tỉnh ngộ. Hơn ai hết, người Công Giáo Mỹ biết giáo hoàng ngày nay chẳng còn quyền lực gì trên thực tế. Những kẻ nắm quyền điều khiển giáo hoàng và giáo hội là những kẻ dấu mặt (faceless men). Họ là những chuyên viên tráo bài tráo bút ở trong và ngoài Tòa Thánh (paper-shuffers, pen shuffers in dark offices in and around the Vatican). Đám người dấu mặt đó mới thực sự nhào nặn ra quan điểm của giáo hoàng về mọi vấn đề của giáo hội và thế giới sao cho phù hợp với quan điểm của họ. Họ chỉ cho phép giáo hoàng được biết các tin tức sau khi đã chọn lựa kỹ càng. Mọi tin tức đi ngược lại chính kiến của họ đều được dấu nhẹm. Họ đích thực là các ông chủ và là các cai ngục của giáo hoàng. Tín điều "giáo hoàng không thể sai lầm" thực chất là sự không sai lầm của nhóm thơ lại trong Tòa Thánh (Curial Officals). Giáo Hoàng chỉ là kẻ thừa hành và là cái máy ký tên trên những văn kiện đã được soạn sẵn.
 
Peter de Rosa kết luận: "Giáo hoàng có cả một lô những kẻ canh chừng y không rời con mắt. Giáo hoàng không bao giờ được nói những gì mà các vị tiền nhiệm đã nói về các vấn đề tương tự hoặc có liên quan đến vấn đề đó. Mọi giáo hòang đều là các tài xế lái xe theo kính chiếu hậu. Giáo hoàng chỉ là tù nhân của quá khứ, cái quá khứ chết tiệt đã rất lâu đời rồi mà người ta vẫn thường gọi là truyền thống. Từ cái quá khứ chết tiệt đó, giáo hoàng vạch đường cho giáo hội đi vào tương lai". (The pope himself has a host of watchers who keep an eye on him. The pontiff can never speak of what his predecessors have said on the same or a related topic. All pontiffs drive by the rear-view mirror. He is the prisoner of the past, a long dead past often called tradition, dictates the road into the future).
 
Tôi xin kết thúc phần lược dịch tác phẩm Vicars of Christ tại đây. Tôi tự hỏi không biết các đồng bào đồng đạo của tôi theo dõi bài viết này tới đây có thể đạt được một nhận thức mới về Vatican và các giáo hoàng hay không. Nếu chưa đủ để có một nhận thức mới về họ thì tôi xin quí vị hãy suy nghĩ thêm về điều này: Sau khi Đế Quốc La Mã lập đạo Công Giáo, Tòa Thánh hoàn toàn lệ thuộc vào các hoàng đế La Mã. Các giáo hoàng sau khi được bầu lên đều phải được hoàng đế La Mã phê chuẩn. Từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 11, có nhiều giáo hoàng làm trái ý nhà vua đều bị nhà vua cách chức hoặc giết chết:
 
Giáo Hoàng St. Silverius bị bắt cóc mất tích năm 537.
Giáo Hoàng St. Martini I bị Hoàng Đế La Mã cách chức năm 655.
Giáo Hoàng Leo V bị treo cổ năm 903.
Giáo Hoàng John X bị xiết cổ năm 928.
Giáo Hoàng Gregory bị cách chức năm 1046 vì bị sưu tra ra có tổ tiên xa xưa là Do Thái.
Ngoài ra còn rất nhiều giáo hoàng bị đầu độc hoặc bị giết do những cuộc đảo chánh trong nội bộ tòa thánh để cướp quyền hoặc để thanh toán vì tư thù. (Xin đọc Bách Khoa Tự Điển về Giáo Hoàng – The Pope Encyclopedia by Matthew Bunson, Crown Trade Paperbacks. NY. 1995) có đầy đủ nhiều bảng liệt kê các giáo hoàng bị ám sát, các giáo hoàng giả, các giáo hoàng được phong thánh v.v...
 
Các giáo hoàng đều chỉ có cái vỏ về ngoài thánh thiện để lừa bịp giáo dân và thế giới. Hầu hết họ đều vô thần và chẳng bao giờ tin tưởng vào sự gìn giữ của Chúa như câu kinh Bổn đã dạy "Chúa hằng gìn giữ Đức Giáo Hoàng nên chẳng có lẽ nào sai lầm được". Cụ thể nhất là Jean Paul II, nếu ông ta tin vào ơn Chúa che chở thì ông ta đã chẳng cần đến sự che chở của chiếc xe bọc kiến chắn đạn. Cả thế giới đều đã thấy hình ảnh của chiếc xe độc đáo đó, được gọi là "the pope mobile", mang nhãn hiệu Mercedes-Benz 230, kiểu Station Wagon, tốc độ 80 MPH, mang bảng số đặc biệt của Vatican SCV, chữ tắt của Stato Citta del Vaticano. Người Pháp chế diễu đọc SCV thành "Sile Christ Voyait 224;" (Ước gì chúa Kitô thấy cái xe quái đảng đó!).
 
Sự thật thì chẳng có Chúa nào che chở gìn giữ giáo hoàng, cũng chẳng có cái xe chắn đạn nào che chở gìn giữ giáo hoàng tốt cho bằng sự ngu dốt [Linh Mục Trần Tam Tỉnh thường dùng cụm từ "ốc đảo ngu dốt" để chỉ tình trạng các giáo dân. (Thập giá và lưỡi gươm).]
 
của đông đảo giáo dân. Sự ngu đốt đần độn của tập thể giáo dân là thành đồng lũy thép bảo vệ chẳng những giáo hoàng mà là cả cái Tòa Thánh Công Giáo La Mã, thực chất là sào huyệt lâu đời nhất của bọn khủng bố quốc tế. Chỉ khi nào đông đảo giáo dân nhận ra chân tướng thật sự của bọn khủng bố quốc tế cáo già này thì cái sào huyệt của nó là Vatican mới bị hủy diệt. Nhờ vào cái lòng mê muội cuồng tín của tín đồ mà giáo hoàng đã trở thành một nhân vật "độc đáo" nhất thế giới.
 
Đầu năm 2000, Tạp Chí Life cho ra đời một cuốn sách khổ lớn với đầy đủ hình ảnh từ nhỏ tới lớn của Jean Paul II (giáo hoàng hiện tại) mang tựa đề Pope John Paul II, a tribute. Cuốn sách này liệt kê thành tích của Jean Paul II từ năm nhận chức giáo hòang 1978 đến 31.12.1999 như sau:
 
- Giáo hoàng du lịch tổng cộng 670.878 dặm Anh (hơn 1 triệu 80 ngàn km).
- Hành hương nước ngoài 84 lần, trong nước Ý 134 địa điểm.
- Viết hoặc nhờ người khác viết 600 diễn văn, 877 bài thuyết giảng trước số thính giả tổng cộng là 14 triệu.
- Tiếp tân tại Vatican 15.000 thượng khách.
- Phong chức cho 2650 giám mục và tổng giám mục, chiếm trên phân nửa số giám mục hiện có trên thế giới.
- Đặc biệt nhất là một mình Jean Paul II đã sản xuất ra 280 ông thánh mới cho giáo hội Công Giáo.
Muốn được làm thánh [Mấy giáo dân Việt Nam bị giết vì tội bán nước cũng được phong thánh vì lý do chính trị, thánh là miếng mồi để xúi giáo dân nỗi loạn. ] Công Giáo phải hội đủ ba điều kiện: phải là người đã chết và phải được giáo hoàng tấn phong. Vinh dự của các thánh là được giáo dân tôn kính và cầu nguyện như thần linh. Cả ba điều này đều trái với Thánh Kinh vì theo Thánh Kinh, giáo dân không được cầu ai ngoài cầu Chúa. Thánh Kinh ngăn cấm việc liên lạc với người chết (All attempts to commune with the dead are condemned-Isaiah 8:19). Các thánh chỉ được Chúa là đấng duy nhất công nhận mà thôi và không cần một người nào ở thế gian công nhận. Danh từ "thánh thiện" được tự điển định nghĩa là "có tính vị tha trọn vẹn" (Saint: completely unselfish) chẳng có liên quan gì đến tôn giáo. Sống ngoài tôn giáo, con người vẫn có thể trở nên thánh thiện. Đứng đầu giáo hội vẫn có thể là một đứa mất dạy như thường.
 
Công Giáo có rất nhiều thánh bổn mạng cho từng nhóm người, chẳng hạn như: thánh Nicholas quan thầy những kẻ nghiện rượu, Thánh Gerard quan thầy các bà mang bầu, Thánh Anthony quan thầy các kẻ bị mất trộm. Thánh Hilary quan thầy các kẻ bị rắn cắn. Hiện nay người ta đang vận động Tòa Thánh tôn vinh Saint Clare làm quan thầy cho các nhà sản xuất máy TV!
 
Nói chung, các thánh Công Giáo đều là các người thiên cổ. Chỉ có một loại "thánh" sống ngoại lệ gọi là "Đức Thánh Cha", tức giáo hoàng mà thôi.