JESUS ĐÃ SỐNG CUÔC ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?
Cũng giống như Socrate và Khổng
Tử, Jesus không viết sách và không ra khỏi đất nước
mình. Tất cả những gì chúng ta biết về Ngài đều
do bốn cuốn sách phúc âm của Matthew, Luke, Mark, và
John. Các cuốn
này chỉ kể những gì liên quan đến 3 năm
cuối đời của Ngài mà thôi. Ba mươi năm đầu
của cuộc đời Jesus không có một sách nào nói
tới, ngoại trừ huyền thoại Giáng sinh và
chuyện Jesus bị lạc cha mẹ trong dịp lễ
Passover ở đền thánh Jerusalem vào năm
Jesus lên 12 tuổi. Tóm lại, một khoảng thời
gian lớn lao trong cuộc đời Jesus, kéo dài tới 30
năm, cho đến nay vẫn là một ẩn số
lịch sử.
Chúng
ta chỉ biết rõ một điều là Ngài đã sinh ra và
lớn lên với tư cách một công dân Do Thái dưới
thời lệ thuộc La Mã, triều đại hoàng đế
Augustus. Tuy là người Do
Thái nhưng Ngài nói tiếng Aramic của dân tộc Syria là nước
ở phía bắc Do Thái. Ngài
giảng đạo bằng tiếng Aramic chứ không
phải bằng tiếng Hebrew của Do Thái. Khi thân xác còn bị treo trên
thập giá, Jesus kêu cứu Thiên Chúa mà ngài gọi
bằng Cha "Abba,Abba" là tiếng Aramic. Nhưng điều trớ
trêu là không có
một cuốn sách phúc âm nào được
viết bằng ngôn ngữ chính thức và duy nhất
của ngài là tiếng Aramic !. Các bản gốc của các
sách phúc âm đều được viết bằng
tiếng Hy Lạp từ 35 năm đến 70 năm sau
khi Ngài "lên trời". Các tác giả viết về Jesus đều là
những người sống xa Ngài cả về không gian
lẫn thời gian và hoàn toàn mù tịt về 30 năm
cuộc đời son trẻ của Chúa. Người ta
gọi thời gian này là "30 năm bí ẩn" hoặc
"30 năm thất lạc của Jesus" (The lost years of
Jesus).
Phúc âm đầu tiên do Mark viết*:
"Đây mở đầu phúc âm của Chúa Kitô, Con Thiên
Chúa" (Here begin the Gospel of Christ, the Son of God) và chuyện
mở đầu là lễ rửa tội của Chúa do John
the Baptist chủ lễ trên sông Jordan, lúc đó
Ngài vừa tròn 30 tuổi.
Thông thường, khi tay
chúng ta bị dính dơ thì chúng ta rửa tay. Mọi
tín đồ tin mình có tội nên mới xin chịu phép
rửa tội. Sau này nghi lễ rửa
tội trở thành một thủ tục bắt buộc để
nhập đạo. Vào lúc đó, John Baptist (tức
Thánh Gioan Baotixita) đang là vị giáo chủ nổi
tiếng của giáo phái Essene là một trong ba giáo phái
lớn của đạo Do Thái. Trụ sở chính của
giáo phái này đặt tại Qumran ở gần Biển
Chết (The Dead Sea) và chỉ cách 5 cây số từ trụ
sở này đến chỗ Jesus được Gioan
Baotixita ban phép rửa tội trên sông Jordan để được
chính thức công nhận đã bỏ giáo phái Pharisees để
gia nhập giáo phái Essenes (tương tự như người
Công giáo đổi đạo sang Tin Lành ngày nay). Sau mỗi đợt
thuyết pháp, nhiều tân tín đồ xin theo
đạo Essenes đều kéo nhau xuống sông Jordan để
cho Gioan Baotixita làm phép rửa tội. Sau đó, các tân tín đồ
trở thành những đệ tử chính thức của
Gioan Baotixita. Jesus là một trong số
những tân tín đồ đó.
Sự
kiện Jesus được Gioan Baotixita ban phép rửa
tội trên sông Jordan vào lúc Jesus 30 tuổi đã xác nhận
chính Jesus cũng tin mình là kẻ có tội tổ tông như
niềm tin của mọi người Do Thái khác cùng
thời. Jesus, cũng như mọi tín đồ Do Thái,
chẳng bao giờ có ý nghĩ sẽ dùng cái chết của
mình để xóa tội tổ tông cho chính mình và cho cả
loài người. Mọi lý thuyết thần học Ki Tô
Giáo về sự Cứu Chuộc (Salvation )
của Jesus đều là chuyện bịa đặt để
lường gạt những người nhẹ dạ
dễ tin mà thôi.
Phúc âm của John (Gioan Thánh Sử) thì mở đầu
bằng cách giới thiệu Jesus là Ngôi Lời và đặc
biệt chú trọng đến sự chết và sự
sống lại của Jesus. John tuyệt
nhiên không đả động gì đến 30 năm tuổi
trẻ của Jesus.
Chỉ có Phúc Âm của Matthew và Luke thêm phần
"Huyền Thoại Giáng Sinh" mâu thuẫn nhau như đã
trình bày nơi chương 3.
Riêng một sách Phúc âm của Luke kể thêm: Vào năm
lên 12 tuổi, Jesus được cha mẹ dẫn đến
đền Thánh Jerusalem dự
lễ Vượt Qua (Passover). Nguyên vì gia đình
của Jesus từ trước đến lúc đó là tín đồ
của giáo phái Pharisees là giáo phái độc quyền
chiếm giữ đền thánh Jerusalem. Do đó,
mỗi khi đi dự lễ do giáo phái Pharisees tổ
chức, cha mẹ Jesus đều dẫn con tới đền
thánh này. Theo phúc âm của Luke thì trong dịp này, Jesus đã
tỏ ra rất khôn ngoan trong cuộc tranh luận về
giáo lý đạo Do Thái với các tu sĩ ở đền
thánh Jerusalem (Luke 1: 41-52). Căn cứ theo các phúc âm, chúng ta có thể xác quyết
một điều là gia đình Joseph-Maria-Jesus vốn là
những tín đồ theo đạo Do Thái thuộc giáo phái
Pharisees.
Từ đầu thế kỷ II Trước
Công Nguyên (TCN), đạo Do Thái bị phân hóa thành 3 giáo phái chính :
1)
Pharisees độc quyền chiếm giữ đền thánh
Jerusalem, có
số tín đồ đông nhất, lập trường
chính trị nói chung là ôn hòa.
2)
Sadducess ít tín đồ nhất nhưng rất bảo
thủ và cuồng tín cực đoan, chỉ tôn trọng
luật viết (written law) của đạo Do Thái và
phủ nhận giá trị mọi tục lệ cổ
truyền bất thành văn. Judas Escariot theo
giáo phái cực đoan này. Về chính trị, Judas và Phê Rô đều
là các du kích quân thuộc tổ chức chính trị Zealot
với chủ trương tiêu diệt đế quốc
La Mã bằng biện pháp quân sự.
3)
Essenes giáo phái đông thứ nhì sau Pharisees. Giáo phái này cấp tiến nhất
vì đứng về phía người nghèo, chủ trương
cộng đồng tài sản giống như kiểu lý
thuyết Cộng Sản. Giáo phái này kịch liệt đả
kích hai giáo phái trên và kết tội họ là những kẻ
đạo đức giả, bóc lột dân nghèo. Sau khi Gioan
Baotixita bị vua Herod chém đầu theo
lời yêu cầu của bà mẹ người đẹp
Salomé, Jesus bắt đầu đi lang thang giảng đạo
để tiếp nối con đường của sư
phụ. Jesus cũng chửi rủa các giáo phái
đối lập với luận điệu y hệt như
vị tiền bối quá cố của mình.
Sự
kiện Jesus được cha mẹ dẫn đến đền
thánh Jerusalem đủ
cho ta thấy gia đình Joseph thuộc giáo phái Pharisees
của đạo Do Thái. Như
vậy, Jesus đã theo giáo phái Pharisees
từ nhỏ theo nếp cũ của gia đình cho đến
khi trưởng thành mới cải đạo sang giáo phái
Essenes của John the Baptist.
Jesus cũng như mọi tín đồ Pharisees khác đã
được các tu sĩ của giáo phái này dạy dỗ
các điều căn bản của giáo lý trong các nhà
hội (synagogue) vào các ngày lễ Sabbath. (thứ bảy
hàng tuần). Các điều căn
bản là: Luật 10 điều răn của Moises
(Mai-sen), sách Leviticus tương tự như Sách Bổn Công
Giáo, Thiên Chúa Jehovah cao hơn các tà thần khác như Molech,
Jupiter, Appollo của Babylon, Ai Cập, La Mã và Hy Lạp v.v...
Jesus tin tuyệt đối vào Kinh Thánh Do Thái. Jesus tuyên bố: "Cho tới khi
trời đất hư mất, một dấu chấm
trong Kinh Thánh Do Thái cũng không hư mất". (Matthew 5:
18).Riêng lời xác nhận này cũng đủ
cho ta thấy trình độ tâm linh của Jesus cũng
chẳng khá hơn mấy so với các tín đồ Do Thái
cùng thời vì Jesus cũng tin mọi chuyện nhảm nhí
trong Cựu ước là những chân lý tuyệt đối !. Jesus tin xác loài người
sẽ sống lại vào ngày tận thế. Trong thời gian đi theo John the
Baptist sống ở nơi hoang dã, Jesus mặc áo dài
trắng giống như các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes
và tất nhiên đã học hỏi thêm được
nhiều điều khác của đạo Do Thái qua sự
giải thích của giáo phái này. Do đó, bài giảng nổi
tiếng nhất của Jesus được mệnh danh là
Bài Giảng Trên Núi (The Sermons on the Mount) tức "Kinh Phúc
Thật Tám Mối", là những điều đã được
rút ra từ nhiều sách của đạo Do Thái: Genesis,
Deuteromony, Exodus, Psalms, Prophets và các sách của giáo phái Essenes đã
được các nhà khảo cổ tìm thấy tại
Qumran năm 1947. Các tài liệu này gồm hàng trăm
cuốn sách bằng da lừa, bằng những thanh gỗ
hoặc thanh đồng. Các học giả quốc tế
gọi những tài liệu này là "The Dead Sea
Scrolls", hiện đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng.
Khoảng
năm 25 sau Công nguyên, John the Baptist bị bắt và bị
chém đầu do lệnh của vua
Herod. Trong lúc còn bị giam trong
tù, John đã viết một bức thư
và nhờ một lính gác ngục tốt bụng chuyển
cho Jesus. Trong thư này, John
Baptist gọi Jesus là "kẻ đến sau mọi người"
(the coming one after all
- Mark 1: 14-15). Sau khi nhận được tin
John đã chết, Jesus bắt đầu giảng đạo
thay John.
Nơi đầu tiên được diễm phúc
nghe Ngài giảng là quê hương Gallilee của Ngài. "Bây giờ, sau khi John bị
bắt và bị giết, Jesus đến Gallilee rao giảng
tin mừng của Thiên Chúa" (Mark 1:
14-15). Jesus
cố gắng thực hiện các lời tiên tri của
Isaiah và Daniel để tỏ ra mình là Chúa Cứu Thế
(Kitô) mà cả nước Do Thái đã mong đợi từ
lâu. "Isaiah là ngọn đèn
sáng của Do Thái cho toàn thể loài người. Cuộc đời
của Chúa Jesus là để hoàn thành các lời tiên tri
của Isaiah về Chúa Cứu Thế" (John 8:12).
Tuy nhiên, có
một điều hết sức quan trọng mà Jesus
chẳng bao giờ làm hoặc làm không nổi để
trở thành Chúa Cứu Thế đúng theo định
nghĩa của tiên tri Isaiah là : "Chúa
Cứu Thế là Đấng đến để giải
cứu mọi kẻ bị áp bức" (to let the oppressed
go free - Isaiah 6: 9 và 61 :1- 2). Thực tế cho thấy Jesus chưa bao giờ
cứu những người bị áp bức. Vậy
Jesus không thể là Chúa Cứu Thế chân chính mà chỉ là
Chúa Bịp ! Số người
trên thế gian bị đầy ải áp bức sau khi Jesus
"cứu chuộc" lại còn đông hơn gấp
bội so với số người bị áp bức trước
khi Jesus có mặt trên đời này. Chẳng những
Jesus đã không giải phóng cho một ai thoát khỏi sự
áp bức, trái lại Jesus đã trở thành một tấm
bình phong để những thế lực tội ác núp bóng
giết hại trên hai trăm triệu người trong hai
ngàn năm qua !. Riêng một sự kiện hiển nhiên này
cũng đã đủ để đập tan cái luận
điệu láo khoét cho rằng Jesus là Chúa Cứu Thế Ki-Tô !.
Jesus
đi theo con đường của John
Baptist nên Jesus cũng tự biết sớm muộn thế
nào cũng bị bắt và bị giết. Ngài tuyển mộ 12 môn đệ
để sau này lãnh đạo 12 bộ lạc Do Thái. Về niềm tin tôn giáo, Jesus
cũng giống như sư phụ John Baptist, luôn luôn chú trọng kêu gọi
mọi người ăn năn tội lỗi và chuẩn
bị đón nhận ngày tận thế đã đến
gần trong tầm tay (the end of the world is at hand). Ngài hăm dọa mọi người:
"Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đến
bất thần như kẻ trộm". Jesus đã tiếp nối con đường
của John the Baptist với chủ đích tạo lập
một khối quần chúng đông đảo gồm toàn
những người trong sạch khao khát "nước
Chúa trị đến" (purified individuals expecting the kingdom
of God). Một khi mạng lưới
quần chúng lan rộng trên toàn Do Thái,
cuộc nổi dậy thần thánh sẽ giải phóng đất
nước Do Thái thoát khỏi ách thống trị của La
Mã và bọn chính quyền Do Thái bù nhìn. Bọn bù nhìn gồm
có triều đình Herod và Hội Đồng Tối Cao Do
Thái (Shanderin) đặc trách các vấn đề tôn giáo và
tục lệ. Các tín đồ theo
John và Jesus đều tin tưởng rằng: Nước Chúa sẽ phá tan
quyền lực của La Mã.
Sức mạnh vật chất của dân tộc Do
Thái không đủ để lật đổ bạo
quyền nếu không có sự can thiệp của Thiên
Chúa. Mọi người
cần phải giữ linh hồn trong sạch để được
xứng đáng đón nhận nước Chúa sắp đến. Một khi nước Chúa trị đến,
cuộc sống thanh bình hạnh phúc của toàn dân tự
nhiên sẽ được thực hiện. John the Baptist và
Jesus là những nhà tiên tri dỏm về ngày tận thế (False
apocalyptic prophets) có tham vọng khôi phục vương
quốc Do Thái với chủ thuyết ngày tận thế
sắp đến để kích động tâm lý quần
chúng. Cái ngày tận thế "sẽ đến
trong tầm tay" của hai thầy trò Jesus chưa bao
giờ xảy ra và sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Thế gian này vẫn sống mãi cho đến
khi nào mặt trời nguội đi. Nếu có một
ngày nào đó sẽ là ngày tận thế thì đó chính là ngày
tận thế của cái giáo hội ác ôn bịp bợm tôn
thờ Jesus!.
Jesus
không hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng
vì cũng có lúc Jesus đã hình dung ra một sự rối
loạn và phân tán của dân tộc Do Thái. Jesus nói: "Các ngươi tưởng
rằng ta đến để mang hòa bình cho trái đất
sao? Không đâu, ta bảo
thật, ta chỉ mang đến sự phân tán" (Do you think
that I have come to bring peace to the earth?
No, I
tell you, but rather division! - Luke 12: 51-53).
John
the Baptist và Jesus không phải là những người đầu
tiên dùng chủ thuyết "ngày tận thế" để
kích động quần chúng, Tám thế kỷ trước
Jesus, Isaiah đã dùng chủ thuyết này với mục đích
cải tạo xã hội và bản thân Isaiah đã được
dân Do Thái tôn kính như Messiah (Chúa Kitô). Đến khi John và Jesus xuất
hiện, nhiều người Do Thái đã coi John và Jesus là
Messiah hoặc "Isaiah tái thế". Chính vì vậy, khi Jesus cưỡi
con ngựa nhỏ về Jerusalem, một đám đông
quần chúng đã tung hô "Vinh danh Đấng đã nhân
danh Thiên Chúa mà đến" (Blessing on Him who comes in the name
of God - Mark 11: 9-10). Trong phiên
xử tại đền thờ Jesuralem (người Do Thái chỉ được phép xét xử các
tội liên quan đến tôn giáo), tu sĩ cao cấp
của đền thờ hỏi Jesus: "Ông có phải là Chúa Kitô
không?" (Are you the Messiah?) Jesus trả lời: "Phải"
(yes, I am - Mark 14: 61).
Tội
của Jesus đã được xác định về phương
diện tôn giáo vì Jesus đã dám mạo nhận là Con Trai Duy
Nhất của Thiên Chúa (The Only Son Of God) .
Theo giáo lý và tục lệ Do Thái thì sự mạo nhận
này là một tội xúc phạm nặng nề đến đạo
Do Thái. Tuy nhiên, các tu sĩ Do
Thái không có quyền đưa ra một hình phạt hình
sự nào đối với Jesus, do đó họ đã giao
Jesus cho quan toàn quyền La Mã Poncius Pilate xét xử.
Vào lúc này, tại
Jerusalem đang
cử hành đại lễ Vượt Qua
(Passover) là một ngày lễ kỷ niệm trọng đại,
vừa có tính cách lễ trọng của tôn giáo, vừa là
ngày quốc khánh của Do Thái.
Số dân chúng từ khắp nơi đổ về
thủ đô Jerusalem hết sức đông, đến
nỗi các bải trống chung quanh thủ đô cũng
không có đủ chỗ cho khách hành hương dựng
lều trại. Quan toàn
quyền Pilate phải đem quân từ thành phố Cesarea
về tăng cường bảo vệ an
ninh cho thủ đô. Đã
từ lâu, Pilate để tâm theo dõi nhóm
tôn giáo mới của John the Baptist và Jesus, coi nhóm này là
một nhóm chính trị chống La Mã (Anti-Roman Political
group). Trong số
các môn đệ của Jesus có nhiều người là du
kích quân của đảng chính trị Zealot như Judas
Iscariot và Peter (Phêrô). Peter
có tục danh là "Simon the Zealot"- Mark 3:18). Jesus tự
nhận là Messiah đồng nghĩa với "Vua của
Do Thái" và công khai chống lại La Mã. Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã
định nghĩa Messiah như sau: Messiah là Vua David
Mới, Ngài sẽ chiến thắng mọi kẻ thù
của Do Thái và tái lập trật tự ở
Jerusalem"
(Messiah is New King David. He would
subdue Israrel's enemies and set up his rule in Jerusalem).
La
Mã và chính quyền Do Thái chỉ nhìn Jesus trên khía cạnh chính
trị của truyền thuyết Kitô (the political view of
messiah). Họ cho rằng Jesus
và phe nhóm đã lợi dụng lúc đồng bào Do Thái qui
tụ đông đảo tại Jerusalem trong
dịp lễ Pasover (Lễ Vượt Qua) để
dấy lên cuộc đảo chánh núp dưới chiêu bài tôn
giáo. Jesus cưỡi ngựa
vào Jerusalem, tự xưng là Messiah vua Do Thái. Hơn nữa, Jesus còn công khai vào đền
thờ Jerusalem đánh đuổi những người bán
hương liệu và các thứ lễ vật cho khách hành hương,
lật đổ các bàn ghế của những người
đổi tiền vì khách hành hương đến đây
từ nhiều nước khác cần phải đổi
tiền của nước họ để có tiền Do
Thái chi tiêu trong ngày lễ. Tất cả các sự việc trên đã dẫn đến
cái chết của Jesus với tội danh "âm mưu lật
đổ chính quyền".
Trên cây thập giá, lính La Mã đã ghi rõ cái ý nghĩa
chính trị của huyền thoại Kitô (the political view of
Messiah): Jesus Nazareth, vua Do Thái
(Mark 15: 26). Trong các ảnh tượng Chúa
ở nhà thờ, dòng chữ này thường được
ghi vắn tắt là "INRI".
Trong
tác phẩm nghiên cứu công phu về cuộc đời
thật của Jesus mang tựa đề ngắn gọn
chỉ một chữ: JESUS (Humphrey Carpenter, Oxford University
Press, second edition 1983) tác giả đã đi đến hai
nhận định sau đây:
1. Jesus cũng như John đã bị
giết chết không vì một lý do nào khác ngoài lý do chính
trị.
2. Jesus và những kẻ theo
ông ta không phải là những kẻ có tinh thần nhân đạo
vì họ không lo phục vụ con người mà chỉ lo
phục vụ cho cái quan niệm sai lầm về Thiên Chúa
của họ. Họ làm như
vậy vì họ tin theo các luật đạo
Do Thái và lời nói của các thánh tiên tri (mà thực chất
chỉ là những huyền thoại không có thật). Họ không hề tự hỏi
tại sao phải làm như vậy, họ chỉ biết
tuân theo các luật đạo một cách
mù quáng máy móc vì họ chẳng bao giờ chịu vận
dụng tới trí tuệ của họ." (Jesus and his
fellow Jews were not humanists because they serve not man but God. They did this by obeying the Commandements of
the Law and the words of their prophets, without questioning why. Their obedience was blind and mechanical, for
their intellect was not involved in it).