ẢNH HƯỞNG
THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO
TRONG NIỀM
TIN ĐẠO HỒI
(The
Judeo - Christian Theology in Muslim Beliefs)
Trong lịch sử văn hóa Tây Phương,
Abraham là người đầu tiên đưa ra chủ
thuyết chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất (The
Unity God) vào khoảng năm 2000 TCN. Do đó, Abraham được
coi là ông tổ chung của các đạo
Độc Thần (Monotheism) tức là các đạo Thiên
Chúa. Năm 1250 TCN, Maisen (Moses) canh cải lại đạo
của Abraham với sách Torah (Law) để thành lập ra đạo
Do Thái như hiện nay (Mosaic Judaism). Đạo
này còn được gọi là đạo Maisen để
phân biệt với đạo Do Thái cũ của Abraham
(Abrahmie Judaism).
Đầu
thế kỷ 1 sau Công Nguyên, Jesus sinh ra và lớn lên trong lòng
đạo Do Thái đã có những tư tưởng
cải cách tôn giáo và xã hội. Sau 3 năm rao giảng
chủ thuyết của mình, Jesus đã bị đế
quốc La Mã giết chết vào năm 30 sau Công Nguyên.
Bốn mươi năm sau khi Jesus chết, một số
người ở Hy Lạp viết sách kể chuyện
cuộc đời và thuật lại những lời nói
của Jesus. Những sách này được
gọi là sách Tin Mừng (Good News), tiếng Hy Lạp
gọi là Gospel, người Tàu dịch là Phúc Âm. Các sách Phúc Âm đã biến Jesus thành Thiên Chúa
của đạo Ki Tô.
Đến
đầu thế kỷ 7, một thương gia tên
Muhammad tại thành phố Mecca, thuộc xứ Arabia, đã
bỏ ra 23 năm ròng rã để viết sách Qu'ran (Koran)
thuật lại những điều Thiên Chúa phán dạy qua
trung gian là thiên thần Gabriel. Muhammad không nhận mình là tác
giả của kinh Koran mà chỉ là người thuật
lại mà thôi ( a reciter).
Kinh
Torah trở thành đại diện cho Bộ Kinh Thánh
Cựu Ước
của đạo Do Thái. Các sách Phúc
Âm (Gospels) là nòng cốt của đạo Ki Tô. Kinh
Koran là căn bản của đạo Hồi.
Muhammad
đã xác định trong kinh Koran: Đạo Hồi là đạo
thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Kinh Koran được Thiên Chúa soi sáng để xác
nhận lại những điều Chúa đã mặc
khải trong kinh Torah (Cựu Ước Do Thái) và trong sách Phúc Âm (sách Tân Ước
của đạo Ki Tô). Kinh Koran nói rõ điều đó:
"Chúa đã mặc khải cho con - Muhammad - cuốn Thánh
Kinh của Chân lý để xác nhận những điều
đã được mặc khải trước đó như
đã mặc khải trong kinh Torah và trong Phúc âm". (God hath
revealed to thee - Muhammad - the Scripture with truth confirming that which
was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel - k3: 3).
Như
vậy, chính giáo chủ Muhammad đã xác định đạo
Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống tôn giáo độc
thần của Abraham, sau đạo Do Thái và đạo Ki
Tô.
Tuy
nhiên, theo quan điểm của đạo
Hồi, hai đạo Do Thái và Ki Tô có trước từ lâu
nhưng các tín đồ Do Thái cũng như các tín đồ
Ki Tô đều đã đi sai đường với
những giáo lý lầm lạc.
Ông kêu gọi các tín đồ Hồi Giáo đừng
kết bạn với những người đó để
khỏi bị lầm lạc như họ:
"Hỡi các tín đồ Hồi Giáo! Đừng
kết bạn với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo. Thiên Chúa không dẫn đường
cho những kẻ lầm lạc ấy."(Oh ye who believe! Take not the Jews and Christians for friend.
Allah guideth not wrongdoing folk - Koran 5: 51).
Vì
hai đạo thờ Chúa là đạo Do Thái và đạo
Ki Tô đã bị các giới tu sĩ làm cho sai lạc
rất nhiều, nhất là đạo Ki Tô đã biến
thành tà đạo Đa Thần (thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) và
tôn thờ ảnh tượng như những kẻ
ngoại giáo. Họ đã làm mất đi ý
nghĩa quan trọng của đạo Thiên Chúa là chỉ
thờ một Thiên Chúa Duy Nhất mà thôi. Chính vì
vậy, Thiên Chúa đã lập đạo Islam là một đạo
Độc Thần đúng nghĩa. Koran ghi lời Chúa
phán:
"Hôm nay ta đã hoàn thiện một
tôn giáo và chọn cho tôn giáo đó tên gọi là Islam". (This day have I perfected your religion and
I have chosen for you as religion al - Islam - Koran 5: 3)
Đọc qua các kinh sách của đạo
Hồi, cũng như các sách sử trong 14 thế kỷ
tồn tại của tôn giáo này, chúng ta nhận thấy
một thái độ rất rõ rệt của người
Hồi Giáo là: Một mặt họ rất nghi kỵ và thù
nghịch với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo, nhưng đồng
thời họ lại rất tôn kính các vị giáo chủ như
Maisen (Moses) Jesus và các vị tiên tri của các sách Thánh Kinh
Cựu Ước và Tân Ước. Họ tôn kính gọi
tất cả các vị nói trên là Thiên Sứ (Messengers). Tiếng Ả Rập là NABI.
Đối với Hồi Giáo, chỉ có
sự sai lầm trong các tín đồ Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo mà thôi. Trái lại, các thiên sứ
của đạo Do Thái và đạo Ki Tô đều không
sai lầm. Chính vì vậy, những điều mà Thiên Chúa đã
mặc khải cho các vị thiên sứ của hai đạo
nói trên đều là những điều cốt yếu
của đức tin Hồi Giáo. Điều này được
kinh Koran xác nhận rất rõ ràng như sau: "Đức
Tin của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin
Thiên Chúa và những điều Chúa đã phán truyền cho
tổ phụ Abraham, Ismael, Isaac, Jacob và con cháu của Ngài.
Chúng ta tin những điều Thiên Chúa đã xác minh với
Maisen và Jesus".
(Ours is the creed of Abraham. We believe in God and
in that which has been bestowed upon Abraham, Ismael, Isaac, Jacob and their
descendants and that which has been vouched to Moses and Jesus - Koran 2:
35-36).
Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo đều
đồng nhất tóm lược tất cả các tín-điều
căn-bản (fundamental beliefs) thành 6 điều chính
yếu được gọi là "SÁU TRỤ CỘT
CỦA ĐỨC TIN" (The Six Pillars of Faith):
1. Tin có một Thiên Chúa Duy Nhất (The
Only God).
2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ
3. Tin các sách Mặc Khải (Books of
Revelation)
4. Tin các vị Thiên Sứ
(Messengers/Prophets)
5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ
chết sống lại, mọi người sẽ được
Thiên Chúa xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng.
6. Mọi việc do Thiên Chúa tiền định,
nhưng mọi người đều có ý chí tự do.
TÍN ĐIỀU 1: TIN CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT
Điểm đặc biệt trong quan
niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi là luôn luôn
nhấn mạnh đến đặc tính duy nhất
tuyệt đối của Thiên Chúa (the absolute Oneness of God). Đạo Hồi hoàn toàn phủ nhận các
huyền thoại về "Con của Thiên Chúa"
hoặc "Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người".
Kinh Koran ghi như sau: "Thiên Chúa không chọn ai làm con và
không chọn một đồng sự nào trong thẩm
quyền tuyệt đối của Ngài".
(God had
chosen no son, nor had He any partner in the absolute sovereignty - Koran 25:
2).
Căn cứ vào kinh Koran, giáo lý của
giáo phái Sunni đã giảng rộng thêm như sau: "Thiên
Chúa là Một, không có một ai tương đương
với Ngài, Thiên Chúa không có khởi đầu và không có
kết thúc. Ngài là thường hằng
vĩnh cửu. Ngài vừa là Alpha vừa
là Omega - chữ đầu và chữ cuối trong mẫu
tự Hy Lạp - Ngài vừa ẩn vừa hiện. Ngài có thật và muôn đời".
(Allah is One, without any like him, having no equal,
having no beginning, having no end. Ever - existing.
He is both Alpha and Omega. The Manifest and the Hidden.
He is real and eternal).
Đạo Hồi phủ nhận con người
là hình ảnh của Thiên Chúa vì Thiên Chúa là đấng vô
hình, không có thân thể (God is not a formed body). Ngài chẳng bao
giờ xuống thế làm người và vì là vô hình nên
chẳng có ai ngồi ở bên tả hay bên hữu của
Ngài.
"Thiên Chúa là đấng chỉ có
Một ngôi duy nhất (không bao giờ có ba ngôi) Ngài không sinh
Chúa Con và cũng không do ai sinh ra. Chẳng
một ai giống Thiên Chúa cả."
(Allah is One. He begets
not, nor is He begotten. And none is like Him - Koran 112: 1-4)
Đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa
là Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo vũ trụ theo đúng quan niệm của đạo Do
Thái và Ki Tô trong sách Sáng Thế Ký (Genesis). Kinh Koran nhắc
lại những điều đó như sau:
"Thiên Chúa dựng nên bầu trời
và mặt đất trong sáu ngày và rồi Ngài ngự trên
ngai của Ngài. Ngài kéo màn đêm phủ lên ban ngày và ngày
đêm cứ nối tiếp nhau không ngừng. Sau đó Ngài
dựng lên mặt trời, mặt trăng và những vì
sao". (Allah created the heavens and the earth in six
days then He descended his throne - He throws the veil of night over the day
which it pursues incessantly and then He created the sun and the moon and the
stars - Koran 7: 54).
Đạo Hồi, cũng như đạo
Do Thái và đạo Ki Tô, đều tin tưởng Thiên Chúa
đã tạo dựng nên tổ tiên của loài người
là Adam và Evà từ một cục đất sét:
"Ta đã dựng nên con người
từ đất sét khô và ta thở vào nó tinh thần
của Ta". (We created man from dry clay and breathed of My Spirit
into him - Koran 15: 23).
Trong kinh Koran (chương 2 và chương
20) thuật lại chuyện Adam và Evà ăn
trái cấm giống như trong sách Sáng Thế Ký của đạo
Do Thái. Nhưng Hồi Giáo cũng như Do Thái Giáo đều
không tin hành động ăn trái cấm của Adam - Evà
cấu thành "Tội Tổ Tông" đến nỗi
Con của Chúa Trời phải đầu thai làm người
và chịu chết trên thập giá để chuộc cái
tội đó! Huyền
thoại về Tội Tổ Tông (The Original Sin) là sản
phẩm tưởng tượng của tên đạo khùng
Augustine (354-450) gốc Algeria. Tên đạo khùng Augustine
được coi là kẻ lập ra đạo Ki Tô đứng
hàng thứ hai sau Phao lô.
Tóm lại, ý niệm về Thiên Chúa
của đạo Hồi hoàn toàn đồng nhất
với ý niệm của đạo Do Thái. Cả hai đạo
độc thần này kịch liệt chống lại ý
niệm Ba Ngôi Thiên Chúa và lề thói tôn thờ ảnh tượng
của đạo Ki Tô (Công Giáo và Chính
Thống).
TÍN ĐIỀU 2: TIN CÓ CÁC THIÊN THẦN VÀ MA QUỈ
Niềm tin vào các Thiên thần, nhất
là các Thiên thần hộ mạng, là niềm tin chung của các đạo Thiên Chúa. Theo các nhà nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay có
tới 70% dân Mỹ tin có Thiên thần. Nói chung, người ta cho rằng Thiên thần
là những sinh vật linh thiêng (spiritual beings) có nhiệm
vụ làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Vì
vậy Thiên thần cũng được coi là Thiên sứ
(messengers of God).
Ý niệm về Thiên thần đã có
từ trên 4000 năm qua. Các nhà khảo
cổ đã tìm thấy tại thành phố
UR ở
Babylon một
phiến đá có khắc hình nổi một người đàn
ông có hai cánh. Hình này được xác định
thuộc niên đại 2300 năm TCN. Tuy nhiên, ý
niệm về Thiên thần của Babylon đã
không đi vào Kinh Thánh Do Thái.
Các nhà tôn-giáo-học chuyên nghiên cứu
về Thiên thần cho rằng ý niệm Thiên thần phát
xuất từ Hỏa Giáo Ba Tư (Zoroastrianism). Hỏa
Giáo được sáng lập bởi một triết gia Ba
Tư tên là Zoroaster vào khoảng thế kỷ 12 TCN. Hỏa giáo trở thành quốc giáo của đế
quốc Ba Tư từ thế kỷ 10 TCN đến
thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Vào năm 579 TCN, đế
quốc Ba Tư chiếm Babylon (tức Iraq ngày nay),
đến năm 539, Ba Tư chiếm Do Thái và cai trị vùng này nhiều thế kỷ. Do đó,
đạo Do Thái đã du nhập các ý niệm về Thiên
thần của Hỏa Giáo từ thời gian này. Các sách Kinh Thánh
Cựu Ước của Do Thái có trước thời gian
này đều không nói gì đến các Thiên thần.
Ki Tô Giáo du nhập ý
niệm Thiên thần của Hỏa Giáo Ba Tư qua sách Kinh
Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Tuy nhiên, Ki Tô Giáo đã khai thác ý niệm Thiên thần
nhiều hơn đạo Do Thái.
Đối với Ki Tô Giáo, Thiên thần Gabriel
trở thành một Thiên thần chuyên về việc đi
thông báo các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Chẳng hạn
Gabriel báo tin cho bà Maria về việc bà thụ thai để sinh ra Jesus hoặc báo tin cho
Joseph phải trốn sang Ai Cập v.v... Thiên thần Micae được
Công Giáo La Mã khắc họa như một tên lính La Mã tay cầm cái giáo dài đâm vào đầu
một con rắn mà ông ta đạp dưới chân. Dưới
thời Ngô Đình Diệm làm tổng thống VNCH, Thiên
thần Micae (Micheal/ Saint Michel) được Diệm
chọn làm thánh tổ của binh chủng nhảy dù. Con
rắn ở dưới chân của thiên thần Micae được
giải thích là biểu tượng của chủ nghĩa
"Cộng Sản vô thần" . Trong
thực tế, binh chủng nhảy dù đã là lực lượng
chủ yếu làm cuộc đảo chánh chống Diệm
năm 1960 và lật đổ chế độ Diệm năm
1963. Con rắn dưới chân Thiên thần Micae trong
thực tế là biểu tượng của chính chế độ
Công Giáo Ngô Đình Diệm!
Ý niệm về các Thiên thần của
Hỏa giáo Ba Tư truyền qua đạo Do Thái và đạo
Ki Tô sang đạo Hồi. Trong đạo Hồi, thiên thần Gabriel trở
thành một vị Thiên sứ đặc biệt của
Thiên Chúa Allah truyền mọi mệnh lệnh và mọi điều
mặc khải cho Muhammad ghi chép. Vì
vậy kinh Koran được gọi là "Thiên Kinh"
ghi chép lời Chúa (Words of God). Nếu
không tin có Thiên thần thì kinh Koran sẽ bị mất
hết giá trị và không thể có đạo Hồi.
Tin tức đầu tiên mà Gabriel thông báo cho Muhammad biết
là việc Thiên Chúa đã chọn ông làm Tông Đồ
của Ngài: "Này Muhammad! Con đã được Thiên Chúa
chọn làm tông đồ của Ngài! và ta
là Gabriel!" (Oh Muhammad! Thou art the Apostle
of God and I am Gabriel! - Muhammad, a biography of the Prophet, by Karen
Amstrong, Harper San Francisco 1992, p.83)
Ngoài hai vị Thiên thần Gabriel và Micae
rất nổi danh trong các đạo độc thần còn
có một số Thiên thần khác không được các đạo
này đồng nhất tin theo:
- Thiên thần Raphael được Công
Giáo La Mã tin là vị Thiên thần chuyên cứu nguy (the helpful
angel). Đạo Do Thái, đạo Hồi và Tin Lành phủ
nhận sự hiện hữu của Thiên thần Raphael.
- Về Thiên thần của sự
chết: Ki Tô Giáo tin rằng tên của
ngài là Andrew. Ngài rất đẹp và nhân
từ, thường giúp người ta trút linh hồn trong
bình an êm ái. Đạo Hồi gọi tên
ngài là Arazel. Ngài đón linh hồn các tín đồ
ngoan đạo để rước về thiên đàng.
Ngài hành hạ những kẻ không tin Chúa và
vứt linh hồn của chúng xuống hỏa ngục.
- Thiên thần Israfel: Cả hai đạo
Ki Tô và Hồi đều tin rằng đến ngày tận
thế, tức là Ngày Phán Xét Cuối Cùng, Thiên thần Israfel
sẽ thổi kèn trumpet để đánh thức tất
cả mọi người chết sống dậy để
tập trung tại thung lũng Kindron ở ngoại ô
Jerusalem nghe Chúa phán xử lần chót có tính chung quyết!...
Quan niệm về Quỉ: Cả ba đạo độc
thần đều đồng nhất trong quan niệm cho
rằng quỉ là những Thiên thần sa ngã (fallen
angels) nên bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục.
Ki Tô Giáo học theo sách Enoch (Book of Enoch) trong bộ Kinh Thánh
của Do Thái, một sản phẩm du nhập thần
học của Hỏa Giáo Ba Tư, cho rằng Thiên thần
Lucifer lãnh đạo một cuộc đảo chánh trên
Thiên Đàng để cướp ngôi của Thiên Chúa. Lucifer
trở thành hiện thân của lòng kiêu ngạo bị Chúa
phạt thành quỉ có đuôi, có sừng và có tai
giống tai dơi. Từ đó Lucifer mang tên
là Satan. Người Hồi Giáo gọi
Satan là Shaitan hoặc Iblis (do phiên âm từ tiếng Hy
Lạp Diablos).
Hồi Giáo tin rằng Satan sẽ được
Thiên Chúa tha tội trong ngày Phán Xét Cuối Cùng và được
phục hồi tư cách thiên thần như xưa. Satan
không phải là thủ lãnh của bầy quỉ cai quản hỏa ngục mà chỉ là kẻ
cai quản các kẻ ác trên thế gian. Thiên
Chúa trao chức vụ thủ lãnh hỏa ngục cho thiên
thần Malik (Koran 43: 77).
Ngoài niềm tin về Thiên thần và
quỉ, đạo Hồi còn có thêm một loại thần
linh thứ ba là Jinn (số ít) hoặc Jinni (số
nhiều). Ki Tô Giáo không tin có
loại thần linh này. Theo đạo Hồi thì Jinn là
một loại thần linh thường biến hình thành người
hoặc loài vật, được Thiên Chúa cấu tạo
nên từ lửa. Kinh Koran ghi rằng: "Con người được
tạo nên bằng đất sét, Jinn được
chế tạo từ ngọn lửa" (Man is created from
clay, jinn from flames of fire - Koran 55: 14- 15).
Quan niệm về Jinn xuất phát
từ Babylon vào khoảng 3000 năm TCN. Người Babylon gọi Jinn là "Cherubims".
Đạo Do Thái du nhập "Cherubims" vào Sách Sáng
Thế Ký (Genesis) là sách đầu tiên trong bộ thánh kinh
của đạo Do Thái. Sách Sáng Thế Ký kể rằng:
Sau khi Adam và Evà phạm tội ăn trái cấm liền
bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.
Chúa sai các Cherubims trú đóng ở phía đông vườn
Địa Đàng để chặn lối dẫn đến
"Cây của Sự Sống". (God drove out the man
and He placed at the east of the Garden of Eden Cherubims to keep the way of
the Tree of Life - Genesis 4: 23-24).
Cũng cùng một nguồn gốc
từ Kinh Thánh Cựu Ước, Ki Tô
Giáo bác bỏ Cherubims nên không bao giờ nhắc tới chúng.
Trong khi đó, đạo hồi chấp nhận niềm
tin vào Cherubims và gọi chúng bằng tiếng Ả Rập
là Jinn.
TÍN ĐIỀU 3: TIN CÁC SÁCH MẶC KHẢI (KINH
THÁNH)
Kinh Koran nói rất nhiều đến
các sách Mặc Khải (Books of Revelation). Nhưng kinh Koran là sách mặc khải cao quí
nhất và quan trọng nhất đối với đạo
Hồi. Do vậy, Koran được gọi là
"Mẹ của tất cả các sách" (Mother of Books).
Kinh Koran coi sách Cựu Ước
của Do Thái cũng là một phần của sách mặc
khải: "Các người không thấy những người
Do Thái đã được Chúa ban cho một phần
của sách mặc khải hay sao? Họ đã được
mời gọi đến với Sách mặc khải
của Chúa" (Have you not considered Jews who are given a portion of
Book? They are invited to the Book of Allah - Koran 3: 23)
Bộ Kinh Thánh của đạo Do Thái
có nhiều sách, nhưng chỉ có sách Torah (sách Luật)
của Maisen là được kinh Koran nhắc đến
nhiều nhất. Sách Torah của đạo Do Thái, sách Phúc
Âm của đạo Ki Tô và kinh Koran đều được
coi là các sách do Thiên Chúa mặc khải để dạy
dỗ và hướng dẫn loài người. Koran ghi
lời của Thiên thần Gabriel nói với Muhammad:
"Thiên Chúa đã mặc khải cho con Sách Thánh Kinh của
chân lý để xác nhận những điều đã được
mặc khải trước đó như Ngài đã mặc
khải trong Kinh Torah và trong Phúc Âm để hướng
dẫn loài người và bây giờ Ngài gửi cho con kinh
Koran". (God hath revealed into thee the Scripture of Truth confirming
that which was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel, a guidance for the people and He sent you the Qur'an - K3:
3).
Mặc dầu Muhammad ca ngợi các sách
mặc khải của đạo Do Thái và đạo Ki Tô,
nhưng Muhammad biết rõ thái độ cố chấp
hẹp hòi của các tín đồ Do Thái và Ki Tô nên ông đã
cảnh giác các tín đồ Hồi Giáo như sau:
"Người Do Thái và Ki Tô không bao giờ hài lòng với các tín đồ
Hồi Giáo, ngoại trừ trường hợp các người
theo đạo của họ". (The Jews will not be pleased
with you, nor the Christians, until you follow their religions - Koran 2: 120).
Các tín đồ Do Thái và Ki Tô đều
độc quyền chân lý. Đối với họ,
chẳng ai có thể được vào thiên đàng,
ngoại trừ phải là tín đồ đạo Do Thái
hay đạo Ki Tô. (None shall enter the paradise, except he who is a
Jew or a Christian - Koran 2: 111). Muhammad gọi chung
những tín đồ Do Thái và Ki Tô là "Những người
của các sách Thánh Kinh" (The people of the Book). Ông cảnh cáo họ đừng quá lộng hành
trong tôn giáo của họ. (Oh people of the Book, commit no
excesses in your religion - Koran: 4: 171)
Những người Do Thái và Ki Tô chửi bới nhau và giết hại nhau
trong thời của Muhammad vào cuối thế kỷ 6, đầu
thế kỷ 7. Do đó, Muhammad viết trong kinh Koran:
"Người Do Thái chê người Ki Tô không theo điều tốt, người Ki Tô chê
người Do Thái không theo điều tốt, mặc
dầu họ đều đọc cùng một sách mặc
khải. Cho nên Thiên Chúa Allah sẽ xét xử những điều
khác biệt của họ trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng"
(The Jews say: the Christians do not follow anything good, the Christians say
the Jews do not follow anything good while they recited the same Book. So,
Allah judge between them on the Day of Resurection in what they differ - Koran
2: 113).
Muhammad thù ghét những người Ki Tô Giáo vì họ là những kẻ thờ
ảnh tượng (idolers). Tại chương 9, câu 5
của kinh Koran, Muhammad ra lệnh cho tín đồ giết
hoặc bắt bỏ tù những kẻ thờ ảnh tượng:
"Khi các tháng thiêng liêng đã qua đi, các tín đồ hãy
giết những kẻ thờ ảnh tượng ở
bất cứ nơi nào gặp chúng hoặc bắt chúng làm
tù binh". (When the sacred months passed away, then slay the idolers
wherever you find them or take them captives - Koran
9: 5).
Về các sách mặc khải, kinh Koran
nói rất nhiều đến sách Torah của Maisen, các Thánh
Vịnh (Psalms) của David và Sách Phúc Âm (Gospel) của đạo
Ki Tô. Vậy tôi xin trình bày sơ
lược về những sách này và tìm hiểu ảnh hưởng
của chúng trong đạo Hồi như thế nào:
1. Torah
(The Law). Nhiều sách kinh
của Hồi Giáo gọi sách này là Tawrah theo phiên âm Ả
Rập. Đây là sách mặc khải quan trọng nhất
của đạo Do Thái về người Do Thái đồng
hóa Đạo Do Thái với Luật Do Thái hoặc người
ta gọi Đạo Do Thái là Đạo của Luật.
Bộ Luật này được Thiên Chúa mặc khải
trên núi Sinai vào thế kỷ II TCN, tóm tắt lại thành
"Kinh Mười Điều Răn" (The Ten
Commandments). Đem phân tích luật Torah, mười điều
răn trở thành bộ luật Pentateuch gồm có 613 điều
luật. Bộ luật này đã chi phối toàn bộ đời
sống tinh thần, đời sống kinh tế xã
hội của mọi người dân Do Thái trong nhiều
ngàn năm qua. Có nhiều điều luật rất chi
tiết, chẳng hạn như những điều
luật về nghi lễ thờ kính Thiên Chúa: Khi đi
lễ phải mang theo súc vật,
giết súc vật lấy máu để rưới lên bàn
thờ và phải đọc sách mặc khải cho mọi
người cùng nghe...
- Luật Torah của đạo
Do Thái đã đi vào đạo Ki Tô với bài "Kinh Mười
Điều Răn" trong các sách Kinh Nguyện.
- Đạo
Hồi không có Kinh Mười Điều Răn như đạo
Ki Tô nhưng Kinh Koran cũng liệt kê mười điều
tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một
Thiên Chúa.
2.
Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3.
Tôn trọng quyền của người khác.
4.
Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5. Tránh giết người,
ngoại trừ trường hợp cần thiết.
6.
Cấm ngoại tình.
7.
Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ
mồ côi.
8.
Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9. Hãy trong sạch trong tình
cảm và tinh thần.
10.
Hãy khiêm tốn
2. Thánh Vịnh David (Psalms of David).
Theo đạo Hồi thì các Thánh
Vịnh của David là do Thiên Chúa mặc khải. (God revealed
to Dawood/David Zabur/ Psalms -Sura 4: 163). Sở dĩ David được
đề cao trong đạo Do Thái vì lịch sử của
dân tộc Do Thái coi David là một anh hùng và là một minh quân
hàng đầu. David trở thành biểu tượng
của một vị "Cứu Tinh Dân tộc". (Savior of the people). Cứ mỗi lần Do Thái
gặp nguy khốn, dân Do Thái lại cầu xin Chúa ban cho
họ một đấng Cứu Nguy (Savior) dần dần
tạo nên tâm lý của toàn dân Do Thái mong chờ một Đấng
Cứu Thế (Messiah) với ý nghĩa là "một David
mới" (The New King David). Cũng do vậy nên đã
nẩy sinh truyền thuyết cho rằng Đấng
Cứu Thế phải là người thuôc dòng dõi vua David.
- Đạo Ki Tô khai thác triệt để
truyền thuyết này nên đã tìm mọi cách chứng minh
Jesus thuộc dòng dõi của vua David và là Chúa Cứu Thế
mà Do Thái mong đợi từ lâu.
- Đạo Hồi không quan tâm đến
những điều nói trên mà chỉ quan tâm đến
những lời ca ngợi Thiên Chúa đầy nhiệt tình
của David mà thôi.
(Trong bài
viết "Chủ nghĩa khủng bố là đặc
tính chung của các đạo Chúa",
tôi đã trích dẫn nhiều câu trong Thánh Vịnh David nên
tôi xin miễn nhắc lại ở đây)
3. Phúc Âm (Gospels) Sách Phúc
Âm là một bộ sách viết về cuộc đời
của Jesus sau khi Jesus đã chết trên 40 năm. Jesus
sinh trưởng tại Do Thái nhưng lại nói tiếng
Aramaic là ngôn ngữ của xứ Syria. Các sách
Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy
Lạp căn cứ trên những lời đồn đại
về Jesus ở Jerusalem trên 40 năm
trước! Chỉ bấy nhiêu sự
kiện cũng đủ cho thấy các sách Phúc Âm không có gì
là chính xác.
Đạo
Do Thái hoàn toàn phủ nhận các sách Phúc Âm của đạo
Ki Tô. Trái với đạo Do Thái, đạo Hồi công
nhận các sách Phúc Âm là các sách Mặc Khải của Thiên
Chúa và công nhận Jesus là một sứ giả của Thiên
Chúa (messenger of God) đứng hàng thứ hai sau Muhammad. Tuy
vậy, quan niệm của đạo Hồi về Phúc Âm
và Jesus rất khác biệt với quan niệm của Ki Tô Giáo. Tôi đã trình bày vấn đề này
trong bài "Jesus dưới cái nhìn của Do Thái và Hồi
Giáo", vậy xin miễn nhắc lại ở đây.
TÍN ĐIỀU 4: TIN CÁC VỊ THIÊN SỨ
Theo
giáo lý của đạo Hồi thì từ tạo thiên
lập địa đến nay, Thiên Chúa đã gửi
xuống thế gian 25 sứ giả của Ngài để
dạy dỗ loài người. Vị sứ giả đầu
tiên chính là Adam, tổ tiên của loài người và vị
sứ giả cuối cùng chính là Muhammad. Sau
Muhammad không còn bất cứ một sứ giả nào khác.
Tất cả các người kế vị
Muhammad được gọi là Caliph (khalif) đều
chỉ là kế vị với tư cách lãnh đạo
cộng đồng Hồi Giáo mà thôi (leader of Islamic community)
chứ không ai có tư cách kế vị thiên sứ cả
(no successor to Messsenger of God). Muhammad là thiên
sứ bất khả kế nhiệm và là thiên sứ
lớn hơn tất cả mọi thiên sứ khác. Đối
với các tín đồ Hồi Giáo, thiên sứ Muhammad
chỉ là một người thường như mọi người
nhưng không có ai vượt qua Ngài về sự khôn ngoan và
đạo đức.
Trong 25 vị thiên sứ thì đạo
Do Thái chiếm tới 18 vị, 3 vị thuộc Ki Tô Giáo và
4 vị còn lại thuộc về Ả Rập. Trong
phạm vi bài biết này, nếu kể hết tiểu
sử của 25 vị Thiên sứ thì bài này sẽ thành
một quyển sách. Chúng tôi xin tóm lược
tiểu sử một số vị quan trọng trong cả
ba tôn giáo độc thần mà thôi.
Một
số tiên tri của đạo Do Thái cũng là Thiên sứ
của đạo Hồi:
" Adam: Đạo Hồi có một quan
niệm về Adam khác với đạo Do Thái và đạo
Ki Tô. Ngoài thiên chức là tổ tông của loài người,
Adam còn là vị Thiên sứ đầu tiên của Chúa. Vì vậy, sau khi dựng nên Adam, Thiên Chúa đã ra
lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp xuống để
kính chào Adam và phải tuân lệnh của Adam. Theo đạo Hồi, Adam cao quí hơn các thiên
thần - Thiên thần Iblis (Lucifer) không chịu cúi chào Adam
nên bị Chúa phạt thành quỉ Satan.
Kinh
Koran nói về Adam: "Khi Thiên Chúa Allah tạo nên Adam xong,
Ngài thổi thần linh của ngài vào Adam. Xong
ngài ra lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp
xuống để chào Adam. Tất
cả các thiên thần đều vâng lời Chúa. Chỉ một mình Iblis (Lucifer) không chịu vâng
lời nên bị Chúa phạt thành quỉ từ đó cho đến
ngày Phán Xét Cuối Cùng".
(When
your Lord said to the Angels: Surely I am going to create a mortal from dust.
So when I have made him complete and I breathed into him My Spirit, then all
angels fall down making obeisance to him. And the angels did obeisance, all of
them. But not Iblis because he was proud. Surely, my
curse is on Iblis/ Shaitan to the Day of Last Judgement - Koran 38: 71-78).
" Noah. Người Công Giáo
Việt Nam thường gọi ông là NO-E. Noah là cháu đời thứ 10 của Adam-Evà.
Noah là người công chính trong thế hệ
của ông nên Chúa cho ông biết tin trước về
trận đại hồng thủy. Ông đóng
một chiếc tàu lớn để chứa gia đình ông
và mỗi thứ súc vật một cặp. Sau trận đại hồng thủy thì cả
loài người đều chết hết chỉ còn
lại những ngừơi và những vật ở trên
tàu mà thôi. Trận lụt kéo dài 7 ngày.
Khi nước rút thì tàu của Noah bị
kẹt trên đỉnh núi Ararat (cao 5168 m ở miền đông
Thổ Nhĩ Kỳ). Noah và mọi người
giết súc vật làm lễ hy sinh để thờ lạy
Chúa. Chúa ngửi thấy mùi thịt nướng sinh
vật nên Ngài từ trời nhìn xuống chúc phúc lành cho Noah
và các con của ông sinh sản con cháu đầy mặt đất.
Noah sống đến 600 tuổi mới
chết. Con út của ông tên Shem là tổ phụ các dân tộc Do Thái và
Ả Rập. (Sau này Do Thái Ả Rập được
gọi chung là giống người Semites, có nghĩa là con
cháu của tổ phụ Shem).
" Maisen (Moses) và Aaron. Chuyện về hai nhân vật hàng
đầu sáng lập đạo Do Thái hiện hành là Maisen
và Aaron được kể trong 2 cuốn sách thuộc
Cựu Ước là Xuất Hành (Exodus) và Dân Số Ký
(Numbers).
Chương
34 sách Exodus kể rằng: Chúa truyền cho Maisen mang hai
tảng đá lên núi Sinai (ở gần Biển Chết).
Tại đây, Chúa hiện ra và dùng ngón tay
của Ngài viết lên hai phiến đá. Mỗi phiến đá
Ngài viết 5 điều răn, tổng cộng là Mười
Điều Răn. Viết xong Ngài biến mất. Maisen ở lại trên núi nhiều ngày để
tạ ơn Chúa.
Dân
chúng Do Thái qui tụ dưới chân núi Sinai nhiều ngày để
chờ đón Maisen mà không thấy Maisen xuống, họ
nghĩ rằng Maisen đã chết. Do đó, dân chúng Do Thái đã
tôn người anh của Maisen là Aaron lên ngôi vị lãnh đạo
dân tộc Do Thái thay thế Maisen.
Theo
truyền thống lâu đời của dân Do Thái kể
từ thời Abraham đến nay là 850 năm, dân chúng
vẫn quen thờ thần El dưới hình tượng
Con Bò Vàng (The Golden Carf). Do vậy, Aaron ra lệnh thâu góp các
nữ trang của dân chúng để đúc thành tượng
một con bò to bằng thật để thờ.
Sau khi đúc xong tượng
bò vàng, dân Do Thái đã lập bàn thờ ở chân núi và đặt
tượng bò lên bàn thờ. Xong dân chúng làm lễ cúng
tế thần bò El và cùng nhau nhảy múa ca hát tưng
bừng. Vừa lúc đó thì Maisen ở trên núi đi
xuống thấy vậy bèn nổi giận và ông dùng 2
phiến đá phá nát tượng bò thần El. Ông ra
lệnh cho dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng
từ đó và đổi tên Thiên Chúa từ Elohim (số
nhiều của El) thành Jehovah.
Do
chuyện trên trong Cựu Ước Do Thái, Muhammad đã
kết tội dân Do Thái là những kẻ thờ bò thay vì
thờ Chúa. Ông tôn trọng Maisen trong việc cấm thờ
ảnh tượng và ông tin là Chúa đã cho Maisen thẩm
quyền cai trị. Kinh Koran ghi như
sau: "Những tín đồ của Kinh Thánh đã thờ
bò thay vì thờ Thiên Chúa mặc dầu Chúa đã tỏ cho
họ thấy những dấu hiệu rõ ràng về Ngài. Nhưng
Chúa đã tha thứ cho họ tội này và đã ban cho Maisen
thẩm quyền cai trị." (The followers of the Book took the
golden carlf for God after clear signs had come to them. But we pardoned this
and gave to Moses clear authority - Koran 4: 153).
" Elijah (Elisha).
Chương 4 sách Các Vua (Kings) kể chuyện Elijah làm
nhiều phép lạ như biến một cái bình không thành
một bình đầy dầu (oil) hoặc biến mấy
cái thúng trống rỗng thành những cái thúng đầy
những ổ bánh mì khiến cho nhiều trăm người
ăn no. (Sau này các sách Phúc
Âm cũng kể chuyện Jesus làm phép lạ tương
tự như vậy). Kinh Koran ca ngợi Elijah là
một trong những người tốt nhất thế
gian và là tông đồ của Chúa (Koran 6: 86, 38: 48)
" Jonah (Yunus)
Thiên Chúa dự tính hủy diệt thành phố
Nineveh vì thành
phố này có nhiều kẻ không tin Chúa. Thiên
Chúa sai Jonah tới thành phố này để khuyên họ
trở lại với Chúa thì Chúa sẽ tha tội và không
hủy diệt nữa. Chúa ra thời
hạn 40 ngày để Jonah thi hành.
Thay vì đi Nineveh, Jonah đã bất tuân
lệnh Thiên Chúa dùng
thuyền tới thành phố Tarshish. Để
trừng phạt Jonah Chúa đã tạo nên một cơn bão
lớn. Các
thủy thủ trên thuyền biết đây là một hình
phạt Chúa dành riêng cho Jonah nên họ đã ném Jonah xuống
biển. Một con cá lớn đớp Jonah vào
bụng. Jonah biết Chúa đã phạt mình về tội
không vâng lời nên ông đã ăn năn
hối cải và cầu nguyện Chúa suốt 3 ngày ở
trong bụng cá. Cuối cùng, Chúa tha tội cho Jonah và hóa phép
cho con cá lớn nhả ông ra trên bãi biển. Câu
chuyện này được cả ba đạo Do Thái, Ki Tô
và Hồi Giáo công nhận là chân lý. Kinh Koran ca ngợi
Jonah là tông đồ của Chúa (K.6: 86, 21: 87)
" Solomon. Solomon là
con thứ của vua David. Y giết anh là
Adonaijah để đoạt ngôi vua. Bản
chất của Solomon còn dâm dật hơn David nên khi lên làm
vua y đã xây cất cung viện rất lớn để
chứa trên 3000 cung nữ. Tuy vậy, lịch sử
và đạo Do Thái vẫn coi Solomon như một minh quân.
Solomon xây một ngôi đền thờ Chúa được
dân Do Thái gọi là Đền Thánh (The
Holy
Temple) và được
truyền tụng là một kỳ công kiến trúc. Thực
sự ngôi đền rất nhỏ (rộng 12 mét x dài 37
mét). Nếu so sánh với đền Ankor Watt của xứ
Kampuchea, được xây vào thế kỷ 8, thì đền
Ankor lớn hơn đền của Solomon rất nhiều
(75 mét x 176 mét). Solomon nổi tiếng là người khôn
ngoan và là tác giả cuốn sách Châm Ngôn (Proverbs) trong bộ
Kinh Thánh Cựu Ước. Kinh Koran ca ngợi Solomon "là
tôi tớ xuất sắc của Thiên Chúa và luôn luôn quay
về với Chúa" (Solomon was most excellent the servant and he
was frequent in returning to Allah - K 28: 30)
" Isaiah. Isaiah xuất hiện trong thế
kỷ 8 TCN, ông được coi là người đầu
tiên trong đạo Do Thái đưa ra thuyết Tận
Thế và tiên đoán sẽ có một vị Cứu Thế
(Messiah) ra đời. Tuy nhiên, ông đã định nghĩa
"Chúa Cứu Thế là người giải thoát tất
cả mọi người bị áp bức" (To let the
oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Như vậy, Chúa Cứu
Thế nào không giải thoát được những kẻ
bị áp bức trên thế gian thì đó chính là Chúa Cứu
Thế giả mạo. Đạo Hồi hoàn
toàn phủ nhận tư cách "Chúa Cứu Thế"
của Jesus, nhưng họ không qui trách Jesus mà qui trách các tín
đồ Ki Tô là những kẻ lầm lạc đã tin
những điều bậy bạ như vậy.
Ba vị của Ki Tô Giáo được
Hồi Giáo coi là Thiên Sứ: Ba
nhân vật trong Phúc Âm Ki Tô Giáo được Muhammad đề
cao trong kinh Koran là: Jesus, Gioan Baotixita và thân phụ Gioan là
Zakaria.
Jesus được Muhammad ca ngợi
trong 114 câu thơ, rải rác trong 15 chương sách của
Kinh Koran. Điều đó chứng tỏ
Jesus có một chỗ đứng khá quan trọng trong đạo
Hồi. Người Hồi Giáo tôn kính gọi Muhammad
là Thiên Sứ (Nabi) và họ cũng gọi Jesus là Thiên
sứ theo ngôn ngữ Ả Rập là Nabi
Isa.
Mặc dầu tôn kính Jesus và coi trọng
sách Phúc Âm, đạo Hồi đã có những quan niệm
rất khác biệt về Jesus và Phúc Âm so với quan
niệm của các tín đồ Ki Tô Giáo.
Kinh Koran rất tôn trọng Gioan Baotixita
và song thân là ông Zakaria và bà Elizabeth (Công Giáo
Việt Nam gọi là bà thánh I-sa-ve). Zakaria là cậu
của bà Maria. Khi bà Isave có mang Gioan được 6
tháng thì bà Maria mới bắt đầu mang thai
Jesus. Khi bà Maria đến nhà thăm vợ chồng Cậu
Zakaria thì bà I-sa-ve đã chúc tụng bà Maria như sau:
"Hỡi bà Maria, Chúa đã chọn bà và thanh tẩy bà,
Chúa đã chọn bà cao hơn hết thảy các người
nữ trên thế gian" (Oh Mary! Allah has chosen you and purified
you and chosen you above all the women of the world - Koran 3: 42). Lời chúc tụng của bà Isave (mẹ của
Gioan Baotixita) đối với bà Maria (mẹ của Jesus)
như nói trên là ý chính của kinh Kính Mừng (Hail Mary) trong đạo
Công Giáo: "Bà có phúc lạ hơn mọi người
nữ". Đạo Hồi cấm thờ ảnh tượng
nhưng họ vẽ tranh treo tường hoặc dệt
thảm những bức họa diễn cảnh Abraham hy
sinh con trai Ismael (chứ không phải là Isaac) để
tế lễ Thiên Chúa và họ cũng thường vẽ
tranh bà Maria bế hài nhi Jesus. Trong đền thờ Káaba
ở Mecca là thánh địa
thiêng liêng nhất của thế giới Hồi Giáo
hiện vẫn còn một bức tranh vẽ Bà Maria bế
hài nhi Jesus.
Bức tranh này đã được người
Ki Tô Giáo vẽ vào thế kỷ 6. Tháng
giêng năm 630, Muhammad mang 10.000 quân đến chiếm Mecca,
ông đã ra lệnh phá hủy tất cả các tượng
thần và các tranh vẽ trên tường của đền
thờ Káabe. Tuy nhiên, Muhammad đã tỏ lòng tôn kính đặc
biệt đối với bà Maria và Thiên sứ Jesus nên ông đã
cổi áo choàng của mình phủ lên bức tranh duy nhất
của Ki Tô Giáo tại đền Kaaba và ra lệnh không ai được
phá hủy bức tránh này. Nhờ đó, bức tranh vẫn
tồn tại đến ngày nay.
Các Tiên Tri Ả Rập. Kinh Koran chỉ
kể tên vài vị tiên tri Ả Rập như Hud, Salid... nhưng
không kể tiểu sử của họ nên chúng ta không có tài
liệu để bàn tới. Như vậy, chỉ
còn một vị tiên tri duy nhất là Muhammad mà thôi. Nhưng nói về Muhammad thì có tới biết bao
nhiêu sách nói cho hết. Sau khi đọc nhiều sách
về tiểu sử của Muhammad, tôi đã cố
gắng tóm lược trong hai bài:
1. "Muhammad
tại Mecca (570-622)
2. "Muhammad
tại Medina
(622-632)".
* *
Trong số 25 vị thiên
sứ (gồm có 18 vị thuộc đạo Do Thái, 3
vị thuộc đạo Ki Tô và 4 vị Ả Rập)
chỉ có 6 vị được đạo Hồi coi là
những vị Thiên sứ quan trọng nhất. Đó là:
Tên phiên âm
Tên Anh Ngữ theo
tiếng Arabic
1. Thiên Sứ Mohammed Nabi Muhammad
2.
Thiên sứ Jesus Christ Nabi
Isa
3.
Thiên sứ Moses (Maisen) Nabi
Musa
4.
Tổ phụ Abraham Nabi
Ibrahim
5.
Thiên sứ Noah (ông No-e) Nabi
Nuh
6.
Thiên sứ Adam (ông A-dong) Nabi Adam
Đối với đạo Hồi, chỉ
có Moses và Jesus là người Do Thái, còn các vị khác như
Adam, Noah và Abraham không thuộc chủng tộc nào cả. Điều
đặc biệt cần nhấn mạnh: Đạo
Hồi không coi Moses là người lập đạo Do Thái
hay Jesus là người lập đạo Ki Tô. Đạo Hồi coi tất cả các vị Thiên
sứ đều là những tín đồ đạo
Hồi.
TÍN ĐIỀU 5: MỌI NGƯỜI CHẾT SẼ
SỐNG LẠI TRONG NGÀY TẬN THẾ - TẤT CẢ
KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT ĐỀU ĐƯỢC
CHÚA XÉT XỬ TRONG NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
Tín điều 5
là một tín điều tổng hợp liên quan đến
nhiều vấn đề phức tạp nhưng lại
là những điều mà cả 3 đạo độc
thần chấp nhận hoàn toàn. Đó là:
1.
Tin rằng con người có hai phần, hồn và xác. Hồn là phần linh thiêng vĩnh cửu. Xác
sau khi chết bị hủy hoại hoàn toàn, nhưng đến
ngày tận thế xác của mọi người đều
sống lại nhập với hồn và sẽ tồn
tại vĩnh cửu.
2 . Tin có ngày tận thế.
3.
Khi chết, mỗi người đều đã được
Chúa xét xử tạm thời. Đến
ngày tận thế, tất cả mọi người
sống và chết (sống lại) đều được
xét xử chung trong Ngày Phán Xét Cuối
Cùng.
4.
Tin có Thiên Đàng và Hỏa ngục. Riêng đạo
Hồi tin Hỏa ngục không có tính vĩnh cửu mà
chỉ là hình phạt tạm thời.
Chúa là đấng nhân lành nên mọi tội đều
được Chúa tha thứ. Ki Tô
Giáo trái lại tin rằng Hỏa ngục là hình phạt đời
đời. Đạo Do Thái và đạo Ki Tô nói rất ít
về thiên đàng. Trái lại, Đạo Hồi mô tả
Thiên Đàng với nhiều chi tiết hấp dẫn: Thiên
đàng có những con sông nước mát và trong vắt, có
những con sông đầy sữa hoặc đầy
ruợu nho, có những con sông đầy mật, những khu vườn đầy
trái cây và đặc biệt có những cô trinh nữ đẹp
tuyệt trần chưa bao giờ có ai đụng tới
(bashful virgins whom neither man nor a spirit have touched before - Koran 55:
41). Những trinh nữ mắt đen cư ngụ trong
những căn lều, dựa lên những chiếc gối
màu xanh và những chiếc thảm đẹp (Dark-eyed
Virgins sheltered in their tents, they recline on green cushions and fine
carpets. Which of your Lord's blessing would you deny? - Koran 55: 68). Đó
là những thứ Chúa ban cho anh, há anh lại từ chối
sao?
Ngày tận thế là ngày trái đất này bị
hủy diệt hoàn toàn. Kinh Koran mô tả: Toàn mặt đất
và núi non đều bị nâng lên và đập xuống
vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh
(The heaven will split asunder). Ngày tận thế cũng là ngày
mọi kẻ chết sống lại (Day of Resurrection, K 50:
42) Ngày họp mặt của toàn thể nhân loại (Day of
Assembly K42: 7, 64: 9) ngày mở đầu cuộc sống
vĩnh cửu (Day of Eternal Life - Koran 50: 34) và cũng là ngày
tính sổ của Thiên Chúa (Day of Reckoning K37: 19-74). Kẻ lành
được lên Thiên Đàng, kẻ ác bị đầy
xuống hỏa ngục. Đối với niềm tin
Hồi Giáo thì những kẻ không tin vào tính duy nhất
của Thiên Chúa (như thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) hoặc
thờ ảnh tượng đều phải sa hỏa ngục.
Cũng
xin nói thêm ở đây là Hồi Giáo và Do Thái Giáo chỉ tin
có hai nơi trong đời sau là Thiên Đàng và Hỏa
ngục. Riêng Công Giáo La Mã tin có một nơi thứ ba là
Luyện Ngục (Purgatoroy). Đó là một
thứ ngục tối để giam giữ linh hồn có
tính cách tạm thời mà thôi.
TÍN ĐIỀU 6: MỌI SỰ DO
THIÊN CHÚA TIỀN ĐỊNH NHƯNG CON NGƯỜI CÓ Ý CHÍ
TỰ DO.
Cả
3 tôn giáo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo) đều
xác nhận mọi sự trên đời đều do Thiên
Chúa tiền định, như người ta thường
nói: "Sợi tóc ở trên đầu rụng xuống
cũng do ý Chúa định từ trước vô cùng".
Nếu đã tin vào thuyết tiền định
(Predestination) thì người ta có thể nói rằng: mọi
hành vi tốt hay xấu của mỗi người
cũng do Chúa định, vậy không một ai phải
chịu trách nhiệm về những hành vi của mình
cả. Nói cách khác, con người không có quyền tự do
chọn lựa vì số phận của con nguời tốt
hay xấu, sướng hay khổ đều đã do Thiên Chúa
ấn định từ trước vô cùng.
Sự
tiền định của Thiên Chúa và Ý chí tự do của
con người là hai ý niệm tương phản nhau.
Nếu đã tin vào thuyết tiền định thì không
thể tin rằng con người có ý chí tự do. Ngược
lại, nếu đã tin con người có quyền tự
do chọn lựa thì không có tiền định.
Tuy
vậy, cả ba tôn giáo độc thần đều
chấp nhận cả hai. Hồi Giáo lập luận:
"Thiên Chúa dựng nên ta là Ngài đã ấn định
số phận của ta" (Thy God hath created and hath fixed thy
destinies - Koran 87: 2-3). Nhưng
mỗi người có quyền tự do chọn lựa,
hoặc tin hoặc không tin: "Chân lý từ Thiên Chúa, ai
muốn thì hãy tin, ai không muốn thì đừng tin" (Say
the truth is from your Lord, whoever wisheth he may believe, whoever wisheth
not he may disbelieve - Koran 18: 30).
* * *
Sau
khi đã tìm hiểu sáu tín điều trụ cột
của đạo Hồi, chúng ta nhận thấy chỉ có
sự khác biệt về chi tiết so với các tín điều
của đạo Do Thái và đạo Ki Tô. Xét theo đại thể, các tín điều
của ba đạo độc thần đều
thống nhất.
Muhammad
đã xác nhận đạo Hồi không mang lại một điều
gì mới mà chỉ xác nhận lại những điều
Thiên Chúa đã mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước
của đạo Do Thái và trong sách Phúc Âm của đạo
Ki Tô. Kinh Koran chỉ là một SỰ NHẮC LẠI (Nay, It
is an Reminder - Koran 80: 11). Muhammad cũng
tự coi mình là một kẻ nhắc lại: "Kẻ
nhắc lại đó đến với anh từ Thiên Chúa để
cảnh báo anh" (A Reminder has come to you from the Lord that he
might warn you - Koran 7: 69)