Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Garuda - Chim cánh vàng (Kim sí điểu)


Chim cánh vàng (Kim sí điểu)



NSGN - Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda; ngoài ra, ở Ấn Độ, Garuda còn là biểu tượng cho quân đội... Bên cạnh đó, Garuda là motif trang trí phổ biến trong các công trình kiến trúc truyền thống của các nước châu Á và xuất hiện trong kinh văn Phật giáo - thường được biết đến với tên gọi là “Kim sí điểu” (chim cánh vàng). Tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của Garuda là mục đích của bài viết này.
Garuda trong tín niệm Hindu
Trong Hindu giáo, Garuda là một vị thần, và thường là vật cưỡi của thần Vishnu. Garuda được miêu tả có một thân hình tráng kiện, vàng rực ánh kim của một người đàn ông với mặt trắng, cánh đỏ, mỏ đại bàng và mũ miện trên đầu. Vị thần cổ xưa này thật to lớn, đồ sộ đến nỗi che khuất cả mặt trời.
Garuda được biết là kẻ thù truyền kiếp của loài rắn Naga bởi một lời nguyền. Những con rắn cũng là thức ăn riêng biệt của chim đại bàng Ấn Độ, loại chim, trong thực tế, có đặc điểm là ngón chân ngắn. Do đó, hình ảnh Garuda thường được dùng trên bùa hộ mạng để bảo vệ khỏi rắn cắn và chất độc của rắn. Garudi Vidya cũng là câu thần chú chống lại nọc độc của rắn và xua đuổi mọi điều xấu xa, quỷ quái.
Garuda trong Hindu giáo được xác định trong Upanishad, Garudopanishad, tập họp truyện thần kỳ Ấn Độ Purana, trong đó có một phẩm riêng kể về Garuda (Garuda Purana). Ở từng tác phẩm cổ xưa đó, Garuda là một câu chuyện độc lập và những tên gọi khác nhau được quy cho Garuda là Chirada, Gaganeshvara, Kamayusha, Kashyapi, Khageshvara, Nagantaka, Sitanana, Sudhahara, Suparna, Tarkshya, Vainateya, Vishnuratha...
Kinh Veda nói đến Garuda sớm nhất, dù dưới cái tên Syena, vùng đất nơi con chim to lớn đã mang rượu tiên/ mật hoa từ thiên đường xuống trái đất. Trong chuyện thần kỳ Ấn Độ, ra đời sau đó, cũng đề cập đến Garuda thực hiện một việc tương tự, nhưng nó được định danh là Dyena (từ tiếng Phạn để chỉ chim đại bàng) và Garuda cũng có hành vi tương tự. Một trong những bộ mặt của Sri Pancamukha Hanuman/ Hanuman năm mặt là Mahavira Garuda. Đó là mặt chỉ về hướng Tây. Việc thờ cúng Garuda được tin là sẽ đẩy lùi mọi ảnh hưởng/ tác động của chất độc ra khỏi cơ thể. Ở vùng Tamil Vaishnavism, Garuda và Hanuman đều được biết dưới tôn danh là Periya ThiruvadiSiriya Thiruvadi.
Trong thánh thư Bhagavad-Gita (ch.10, câu/ đoạn thơ 30), ở giữa chiến trường Kurukshetra, Krishna đã giải thích sự có mặt khắp mọi nơi của mình: “Như là đứa con của Vinata, trong hình thức của Garuda, vua của các loài chim”. Điều này đã cho thấy tầm quan trọng bao trùm của Garuda.
Hình tướng của Garuda thường lấy rắn làm “trang sức”. Garuda mang rắn Adisesha trên cổ tay trái và rắn Gulika trên cổ tay phải. Rắn Vasuki làm thành sợi dây thiêng cho Garuda. Rắn mang bành Takshaka quấn thành thắt lưng ở hông Garuda. Rắn Karkotaka được mang như chuỗi hạt. Rắn Padma và Mahapadma là những hoa tai. Rắn Shankachuda được trang trí trên mái tóc thần. Nằm bên sườn Garuda là hai người vợ Rudra và Sukeerthi (hay Sukirthi). Đó là tất cả những yếu tố viện dẫn trong Garuda PanchashathGaruda Dandaka thuộc Vedanta Desika. Garuda với người phối ngẫu Rudra và Sukirthi ở hai bên có lẽ được thờ từ thời xa xưa trong điện thờ Soumya Keshva ở Bindiganavile (hay Mayura puri trong tiếng Phạn) thuộc bang Karnataka của Ấn Độ.
Garuda Vyuha được thờ cúng ở Tantra vì Abhichara và để bảo vệ chống lại Abhichara. Tuy nhiên, một điều thú vị, Garuda là hình thức của Sankarshna - vị chúa tể trong suốt quá trình sáng tạo, đã sở đắc những hiểu biết, tức những khía cạnh kiến thức khác nhau của vị chúa tể. Một điểm quan trọng là Garuda biểu trưng cho năm vayus bên trong chúng ta: prana, vyana, udana, samana, apana qua năm hình thức là Satya, Suparna, Garuda, Tarkshya, Vihagashwara. Năm vayus thông qua yoga có thể bị kiểm soát bởi Pranayama dẫn đến hành vi nhận thức Kundalini đưa đến những cấp độ nhận thức cao hơn.
Garuda đóng vai trò quan trọng trong hóa thân của Krishna. Ở trường hợp đó Krishna và Satyabhama cưỡi trên Garuda đã giết chết Narakasura. Trong trường hợp khác, thần Hari cưỡi Garuda để cứu con voi mộ đạo Gajendra. Người ta cũng nói rằng cánh chim Garuda khi bay sẽ đọc tụng kinh Veda.
Garuda trong thần thoại Hindu
Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Garuda, một vài truyền thuyết bắt nguồn từ văn học Pali và Sanskrit. Các tác phẩm văn học Phạn ngữ (Sanskrit) là Ramayana, Mahabharata và các truyện cổ tích Ấn Độ và trong Pali, đó là bộ Tam tạng (Tripitaka).
Trong tác phẩm văn học Phạn ngữ, Garuda là con của Kasyapa. Nhiều truyền thuyết nói rằng Kasyapa là một nhà hiền triết quyền uy, có nhiều vợ, nhưng hai người vợ được yêu chuộng nhất là hai chị em Vinata và Kadru. Kadru đã cầu xin Kasyapa ban cho mình nhiều con, do đó, cô đã sinh ra 1.000 con rắn Naga. Những con rắn Naga này đã chọn cuộc sống ở thế giới bên dưới sâu trong đại dương. Vinata cũng cầu xin chồng ban cho hai người con nhưng có sức mạnh hơn hẳn những đứa con của Kadru. Vinata sinh ra được hai quả trứng. Vinata đã chờ đợi đến 500 năm nhưng quả trứng vẫn không có động tĩnh gì. Mất hết kiên nhẫn và quá tò mò, Vinata đã làm vỡ một trong hai quả trứng để xem cái gì đang diễn ra bên trong.
Trong quả trứng là một đứa trẻ đã phát triển phần thân trên nhưng không có chi dưới. Biết mẹ là người đã gây nên sự méo mó, dị dạng, đứa trẻ vô cùng giận dữ. Vị này đã thốt ra lời nguyền rủa: Mẹ/ Vinata sẽ trở thành người hầu/ nô lệ cho người chị em Kadru trong suốt 500 năm, rồi bay đi. Cuối cùng vị này trở thành người đánh xe ngựa cho thần Mặt trời Surya (Suriya) mà sau đó được biết đến như là Aruna (Arun).
Quả trứng thứ hai của Vinata 500 năm sau cũng nở và đó là Garuda. Ngay khi nở ra từ trứng, Garuda đã sở hữu một hình thể khổng lồ: khuất lấp cả bầu trời, mỗi cái vỗ cánh khiến quả đất rung lắc dữ dội, một sức mạnh khủng khiếp ngang với đám cháy lớn của vũ trụ, hủy diệt toàn bộ thế giới và kết thúc mọi thời đại. Thậm chí các vị thần còn lẫn lộn ánh sáng rực rỡ phát ra từ thân vàng kim của Garuda với ánh nắng chói chang của mặt trời giống như thần lửa Agni. Quá khiếp sợ, các vị thần đã cầu xin Garuda. Nghe thấy những lời thỉnh cầu khẩn thiết, chim thần đã giảm bớt kích thước và sinh lực của mình.
Lời nguyền rủa của Aruna cuối cùng cũng trở thành sự thật khi Vinata và Kadru tranh cãi về màu sắc của con ngựa trong quá trình quấy biển sữa (tuy mục đích chính của việc quấy biển sữa là để tìm ra thuốc trường sinh amrita). Vinata tin rằng con ngựa có màu trắng tuyền. Còn Kadru nói rằng nó có màu xám, do vậy con ngựa sẽ có vài cọng lông đen. Cuộc tranh cãi dữ dội này đi đến việc đánh cuộc kẻ nào thua cuộc sẽ trở thành nô lệ cho người thắng cuộc suốt 500 năm.
Con ngựa thực tế có màu trắng tuyền. Kadru biết điều đó, nhưng vì không muốn mình là kẻ thua cuộc nên Kadru đã ra lệnh cho những đứa con Naga của mình đính những cọng lông đen vào con ngựa để nó có màu xám. Vinata ngây thơ nên thua cuộc, trở thành nô lệ cho Kadru và bị giam cầm ở thế giới bên dưới cùng với những cư dân Naga.
Garuda sau đó mới biết được âm mưu xảo trá này. Nhưng để giải thoát cho mẹ, Garuda đã thỏa thuận với những con rắn Naga là sẽ mang về cho chúng thuốc trường sinh để đổi lấy sự tự do cho mẹ.
Garuda đấu với các thần linh thuộc hạ của thần Indra. Garuda quá mạnh mẽ đến nỗi lưỡi tầm sét, vũ khí tối thượng của thần Indra đã bị đập vỡ tung. Bấy giờ thần Vishnu lại nhảy vào tiếp chiến. Bất phân thắng bại, để kết thúc, thần Vishnu hứa ban cho Garuda đặc ân bất tử và vị trí cao hơn vị trí các thần khác. Garuda cũng tình nguyện trở thành vật cưỡi cho thần Vishnu và lập kế hoạch lừa những con rắn Naga để lấy lại thuốc trường sinh sau khi giải thoát cho mẹ mình.
Ân huệ mà Garuda giành được từ thần Indra (một vài truyền thuyết nói rằng là từ thần Vishnu) là loài rắn Naga sẽ trở thành thức ăn truyền kiếp của Garuda. Do đó, Garuda chộp và giữ chặt những con rắn Naga dưới móng vuốt của mình, mổ vào đuôi Naga để moi ruột và chỉ ăn những con béo mập, vứt xác chúng xuống dưới đại dương sâu thẳm.
Trên đây là nội dung câu chuyện thần thoại khá phổ biến về nguồn gốc của Garuda cũng như mối thù truyền kiếp giữa Garuda và loài rắn Naga. Câu chuyện trên có rất nhiều dị bản với những tình tiết thêm thắt hay có phần khác biệt...
Quyển đầu của thiên sử thi Mahabharata(1) thêm thắt rằng:... Lúc bấy giờ, thuốc trường sinh amrita được tìm thấy và thuộc sở hữu của các thần. Thuốc trường sinh đó được bao bọc bởi một vòng tròn lửa lớn bao trùm cả bầu trời cộng với những cánh quạt sắc nhọn như lưỡi dao chặn ở lối vào và hai con rắn độc khổng lồ nằm canh sát bên cạnh lọ thuốc.
Biết được ý định của Garuda, các vị thần đã dàn quân để đánh. Garuda đã đánh bại toàn bộ đám đông và rải họ về tứ phía. Lấy nước từ các con sông ngậm vào mồm, chim thần đã dập tắt đám lửa bảo vệ của các vị thần và vứt nó đi. Thay đổi kích thước, Garuda trườn qua những cánh quạt của cổ máy giết người. Và cuối cùng, Garuda xé xác hai con rắn bảo vệ khổng lồ, lấy thuốc trường sinh ngậm trong mỏ mà không nuốt chúng, lao vào không trung, về với những con rắn đang hăm hở chờ đợi.
Cuối cùng, Garuda bay đến và đậu xuống phía trước những con rắn đang chờ đợi. Đặt thuốc trường sinh trên cỏ và mẹ Garuda được thả ra. Garuda đã thuyết phục những con rắn cử hành lễ thanh tẩy trước khi uống thuốc trường sinh. Khi bọn rắn hối hả, gấp rút thực hiện lễ nghi, thần Indra đã lao xuống và mang thuốc tiên đi mất. Những con rắn trở lại sau lễ tắm gội thấy thuốc trường sinh biến mất nhưng còn rơi rớt vài giọt nhỏ đọng trên cỏ. Chúng cố gắng liếm lấy liếm để khiến cái lưỡi bị chẻ/ tách ra làm hai. Từ đó trở đi, những con rắn với chiếc lưỡi chẻ đôi và sự lột da được xem như là một đặc tính của sự trường sinh/ bất tử.
Dị bản khác lại cho rằng: ... Chỉ có thần Vishnu là có khả năng đánh bại Garuda. Và khi Garuda bị khuất phục, thần Vishnu đã nhảy vọt lên trên Garuda để phát lời thề quy phục và phục tùng. Vishnu sau đó đã dùng Garuda làm vật cưỡi cho mình và ban cho Garuda sự bất tử. Trong các thần thoại Hindu sau đó, Krishna, hóa thân thứ tám của thần Vishnu, đã sử dụng Garuda làm vật cưỡi cho thần để đánh bại con rắn Naga to lớn Kaliya.
Ở Thái Lan, các bản dịch cũng coi Krut (Garuda) như là phương tiện chuyên chở cho thần Vishnu và công cuộc tìm kiếm thuốc trường sinh amrita được dựa trên nền tảng truyền thuyết Ấn Độ. Câu chuyện kể rằng Garuda đã đánh bại mọi sinh vật trên trời để giành lấy thuốc trường sinh amrita. Đó là thần dược được bảo vệ nghiêm ngặt, mà không ai có thể lấy được chúng kể cả Narai (Vishnu) ngoại trừ Garuda. Cuối cùng, một thỏa thuận được thực hiện để giải quyết mọi thù hiềm: khi Narai ở trong cung điện trên trời cao của mình, Garuda sẽ có địa vị cao hơn, trên đỉnh cột phía trên cung điện Narai. Tuy nhiên, khi Narai muốn đi du ngoạn đây đó, Garuda phải phụng sự chuyên chở cho Narai.
Từ đó, Garuda được liên kết với các vị thần và là vật cưỡi đáng tin cậy của Vishnu, cũng như sự thù địch không thể nguôi được, Garuda luôn bắt lấy những con rắn một khi có dịp.
Theo Mahabharata, Garuda có 6 người con có nguồn gốc từ loài chim. Những thành viên của loài này có một sức mạnh to lớn mà không có chút lòng trắc ẩn với loài rắn. Vishnu là người bảo hộ, che chở cho chim thần(2).
Trong suốt Mahabharata, Garuda được viện dẫn như là biểu tượng cho sức mạnh dữ dội, cho tốc độ, và sự dũng cảm, tinh thần thượng võ. Những chiến binh hùng mạnh tiến lên một cách nhanh chóng và dũng mãnh trước kẻ thù giống như Garuda lao bổ xuống những con rắn(3). Những chiến binh bại trận giống như những con rắn bị đập bổ bởi Garuda(4). Nguyên soái Drona đã hình thành quân đội theo tên Garuda(5). Krishna thậm chí mang hình tượng Garuda trên ngọn cờ hiệu của mình(6).
Các tình tiết liên quan đến Garuda đặc biệt phổ biến ở các nước Đông Nam Á, thông qua các dị bản của sử thi Ramayana [Phra Lắc-Phra Lam (Lào), Riêmkê (Khmer), Ramakien (Thái Lan) cũng như các di bản khác ở Indonesia, Malaysia...]. Ở đó, Garuda được biết đến nhiều nhất là trận chiến của nó chống lại chúa chằn Ravana (Krông Riếp (Khmer), Tossakan (Thái Lan)...).
Trong dị bản Thái Lan của sử thi RamayanaRamakien, có đề cập đến con chim lớn Sadayu là con trai của Garuda. Nó có một người anh em, cũng là một con chim khổng lồ là Nok Sumpatee. Trong truyện kể, Sadayu là một con chim lớn với thân màu xanh lục. Một ngày nọ, con chim đã chứng kiến cảnh Tossakan (Ravana, nhân vật phản diện chính của truyện) bắt cóc nàng Sida (Sita), vợ của hoàng tử Rama. Chim đã đánh nhau một cách dũng cảm với Tossakan. Tên khổng lồ không thể nào đánh bại Sadayu. Nhưng chim Sadayu đã mắc một sai lầm khi đột nhiên nói rằng: “Ta không sợ bất cứ thứ gì ngoài thần Shiva, thần Vishnu và chiếc nhẫn của nàng Sita”.
Chúa chằn nghe thấy điều đó và nhận ra điểm yếu của chim, hắn lập tức tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay nàng Sita và ném vào Sadayu. Một cánh của Sadayu bị nát tan và chúa chằn cắp lấy nàng Sita mang đi.
Tuy bị đánh bại và trọng thương, Sadayu vẫn cố gắng mang chiếc nhẫn đến trình báo với hoàng tử Rama, trước khi nín thở tự vẫn vì nỗi ô nhục bại trận.
Hình tượng chim Sadayu được thể hiện trong điêu khắc, hội họa các đền, chùa, cung điện cũng như các loại hình nghệ thuật biểu diễn và các thể loại sân khấu truyền thống của các nước Đông Nam Á - đặc biệt là hình thức sân khấu mặt nạ và múa rối bóng.
Bên cạnh đó cũng có câu chuyện về chim Sumpatee - một người con của Garuda và là người anh lớn của Nok Sadayu. Tương tự về hình dáng với Sadayu nhưng thân màu đỏ thay vì xanh lục. Sumpatee là một con chim luôn nghĩ đến người khác bởi hành động dũng cảm của mình.
Câu chuyện xảy ra khi Sumpatee và người em Sadayu, sống ở trên núi Ussakan. Sadayu vì còn trẻ và ngây thơ nên đã mắc sai lầm khi tưởng mặt trời sáng rực kia là trái cây và cố để ăn nó. Thần Mặt trời vô cùng giận dữ đã cố gắng thiêu cháy con chim bằng cách phóng ra những tia sáng chết người. Sumpatee thấy em mình bị trừng phạt bởi thần Mặt trời nên đã lấy thân mình che chắn bảo vệ cho em khỏi những tia nắng bỏng rát, sắc nhọn. Sức nóng của nó khiến lông Sumpatee rơi rụng. Vẫn còn tức giận, thần Mặt trời đã buông lời nguyền rủa khiến Sumpatee vẫn mãi trụi lông và đày tới hang động Hemarantee. Chỉ đến khi quân đội của Hoàng tử Rama mang chiếc nhẫn của nàng Sita tới, lời nguyền rủa mới hết hiệu lực.
Garuda trong tín niệm Phật giáo
Garuda, phiên âm Hán-Việt là Ca-lâu-la điểu hay Ca-lâu-la (Phạn: Garuda, Pali: Garula), loài thần điêu có cánh vàng. Hán dịch: Thực thổ bi khổ thanh, Kim sí điểu, Diệu sí điểu (Phạn: Suparni, Hán âm: Tô-bát-lặc-ni) vì có cặp cánh rất đẹp; hay còn gọi: Gia-lâu-la điểu, Ca-lưu-la điểu, Già-lâu-là điểu, Yết-lộ trà điểu (7).
Đây là một loại chim diều hâu trong thần thoại Ấn Độ được thiêng hóa: thân to lớn và hung dữ, là loại chim của thần Vishnu cỡi. Tương truyền lúc chim này sinh ra, thân phát ra ánh sáng chói lọi, chư thiên lầm tưởng là Hỏa thiên nên kéo nhau đến lễ bái.
Về hình tướng, theo kinh Bồ-tát tùng đâu thuật thiên giáng thần mẫu thai thuyết quảng phổ 7, Kim sí điểu chúa thân cao 160.000km, mỗi cánh dài 80.000km.
Pháp hoa văn cú: Loài Kim sí điểu có cặp cánh màu vàng ròng, ở trên những cây đại thọ trong bốn Đại châu. Loài rồng hay chư long vương rất sợ loài Kim sí điểu. Cặp cánh của thần chim ấy khi xòe ra mà bay đi, thì choán ba trăm ba mươi sáu vạn dặm.
Về thần lực, kinh Niết-bàn cho rằng loài Kim sí điểu, hễ ăn vào các vật như: rồng, cá, vàng bạc và các loại châu báu, thì các vật ấy tiêu hóa hết, chỉ trừ có chất kim cang.
Theo kinh Luật dị tướng 48, chim này quạt cánh phát ra luồng gió có thể làm mù mắt người.
Người ta nói rằng khi Garuda vỗ cánh sẽ tạo ra các trận cuồng phong làm u ám bầu trời và thổi đổ những ngôi nhà. Con người quá nhỏ bé khi so sánh với Garuda và con người có thể ẩn nấp trong bộ lông chim Garuda mà không ai có thể biết được (Kakati Jataka, truyện số 327). Garuda cũng có khả năng bứng toàn bộ cây đa kể cả rễ và mang chúng đi.
Về phân loại, loài Kim sí điểu (Ca-lâu-la) có hai hạng: 1/ Hạng độc ác, hại phá các thú, chim, cá, nhất là ưa sát hại loài rồng (long); 2/ Hạng tu hành, mộ nghe Chánh pháp, ủng hộ những nhà chân tu Đại thừa. Hạng này là một bộ trong bát bộ chúng thường hiện đến nghe Phật thuyết kinh Đại thừa(8).
Ngoài ra, kinh Trường A-hàm 19 cho rằng Kim sí điểu có 4 loại: Noãn sanh (từ trứng sanh ra), thai sanh (sanh từ bào thai), thấp sanh (sanh từ nơi ẩm ướt) và hóa sanh (do biến hóa mà sanh ra). Kim sí điểu thuộc noãn sanh, có thể ăn được cả loại rồng noãn sanh; Kim sí điểu thai sanh có thể ăn loài rồng thai sanh và noãn sanh; Kim sí điểu thấp sanh có thể ăn loài rồng thấp sanh, noãn sanh và thai sanh; Kim sí điểu hóa sanh có thể ăn loài rồng hóa sanh và các loài rồng khác.
Về mối thù truyền kiếp với Naga, theo kinh Quán Phật tam muội hải 1, chim này do nghiệp báo nên ăn được các loài rồng, trong khoảng một ngày ở cõi Diêm-phù-đề có thể ăn một con rồng chúa và 500 rồng nhỏ.
Những con Garuda xa xưa kia vồ chộp các Naga và túm lấy đầu chúng. Loài Naga đã biết được điều đó nên chúng đã nuốt những hòn đá lớn khiến chúng trở nên nặng nề khi Garuda mang đi. Điều này sẽ khiến Garuda chết vì sự kiệt sức hay mệt lử. Khi bí mật này được nhà tu hành khổ hạnh Karambiya tiết lộ cho một con chim Garuda, họ đã dạy chúng cách tóm lấy Naga bằng đuôi và ép chúng nôn ra những viên đá (Pandara Jataka, truyện số 518). Để hạn chế tính sát sanh của Garuda, trong Mahasamyatta Sutta thuật lại việc Đức Phật giải hòa tạm thời giữa Naga và Garuda.
Theo các kinh Đại thừa thì loài chim này được liệt vào một trong 8 đại bộ chúng, cùng với trời, rồng, a-tu-la... tất cả được xếp dưới tòa trong hội thuyết pháp của Phật, và Garuda là một trong số những sinh vật được Sakra chỉ định canh gác núi Sumeru và trời Trayastrimsa khỏi sự tấn công của các Asura.
Thêm vào đó, chúng ta còn thấy kinh tạng Phật giáo đề cập đến Kim sí điểu vương(9) để chỉ vua loài Kim sí điểu, cũng gọi âm theo Phạn: Ca-lâu-la vương. Và Kim sí điểu vương cũng là tiếng dùng xưng tặng Đức Phật. Ví dụ, người ta xưng Phật là: Kim sí điểu vương, Ngưu vương, Tượng vương.
Thời Phật giảng kinh Diệu pháp liên hoa, có bốn vị Kim sí điểu vương (Ca-lâu-la vương) dự nghe, mỗi vị dắt theo rất nhiều quyến thuộc trong loài Kim sí điểu. Đó là 4 vị Kim sí điểu vương: 1/ Vị vua Garuda đầy quyền năng và đức hạnh, 2/ Vị vua Garuda có cơ thể to lớn, 3/ Vị vua Garuda toàn năng, và 4/ Vị vua Garuda thỏa nguyện, có một trăm ngàn thuộc hạ hộ tống theo hầu.
Loài Garuda có các vị vua và vương quốc riêng của chúng, và một vài Garuda có thể biến hóa thành người khi nó muốn quan hệ, giao thiệp với con người. Trong một vài trường hợp, các vị vua Garuda có những mơ mộng, lãng mạn với nữ giới trong hình dạng con người. Chúng ngụ ở các khu rừng nhỏ của simbali hay những cây bông gòn.
Trong kinh Niết-bàn, quyển 38, có câu: Từ xưa đến nay, chưa ai nghe thấy rằng bậc Kim sí điểu vương lại đi tranh với chim quạ! (Tức như bậc đại nhân chẳng thèm hại kẻ tiểu nhân). Điều này cho thấy Kim sí điểu vương là vị nhất bậc tôn kính.
Trong Mật giáo thì Ca-lâu-la là hóa thân của Phạm Thiên, Tỳ-nữu Thiên, Đại Tự Tại Thiên... Có chỗ cho là hóa thân của Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, thuộc hướng Nam của Kim Cang bộ, ngoại viện mandala Thai Tạng giới. Mặt khác, Mật giáo cũng đề cập đến Ca-lâu-la pháp, còn gọi Ca-lâu-la đại pháp. Trong pháp tu của Mật giáo, việc thờ Ca-lâu-la vương (Kim sí điểu) làm bản tôn, là bí pháp tu hành để trừ bệnh hoạn, ngăn gió mưa, tránh sấm dữ...
Theo kinh Ca-lâu-la và chư thiên mật ngôn, người tu pháp môn này có thể qua lại tự tại trong các cõi trời, người, những người oán ghét và quỷ thần đều không dám lại gần; pháp này còn là pháp thành tựu hơn hết trong các pháp. Theo Ca-lâu-la pháp chư quỹ trong Giác thiền sao, thì tu pháp này có thể được những công đức như lợi ích trong thời mạt pháp: chóng linh nghiệm, thành tựu được ngọc báu trong tâm của tất cả loài chim chúa quý, người tu hành được của báu ở Long cung, được cam lộ trên cõi trời, được Long vương đến và tuôn mưa tuyết xuống, tránh khỏi được nạn rắn rít, làm tan rã quân trận, hàng phục oan gia, được người yêu kính, trừ được bệnh hoạn, gọi được người ở xa, kêu được những loại cá... Thêm đó, chúng ta còn thấy có Kim sí điểu ấn(10), còn được gọi là Kim sí điểu vương ấn: hai ngón cái giao nhau, hai bàn tay xòe ra như đôi cánh, kết thành hình Kim sí điểu (chim cánh vàng) động ba lần, như dạng đang bay. Đây là một trong các thủ ấn Phật giáo.
Tín niệm Garuda ở một số quốc gia Phật giáo
Từ tiếng Phạn Garuda được vay mượn và biến đổi trong ngôn ngữ một vài quốc gia. Ở Miến Điện, Garuda được gọi là galone. Trong thuật chiêm tinh Miến Điện, phương tiện di chuyển của hành tinh chủ nhật là galone. Ở Thái Lan, Garuda được gọi là Krut. Ở Indonesia là Burung Garuda với nghĩa chim Garuda/ chim đại bàng. Trong ngôn ngữ Kapampangan của Philippine, từ bản địa để chỉ chim đại bàng là galura. Ở Mông Cổ, Garuda được gọi là Khan Garuda hay Khangarid. Garuda/ Khangarid, biểu tượng của thủ đô Mông Cổ, Ulan Bator. Theo tín ngưỡng phổ biến của người Mông Cổ, Khangarid là thần linh của dãy núi Bogd Khan Uul, người đã trở thành môn đệ trung thành của Đức Phật. Ngày nay, được xem như là người canh gác/ bảo hộ dãy núi và là một biểu tượng của sự can đảm và chân thật. Ngoài ra, trước và sau mỗi vòng đấu vật, những đô vật người Mông Cổ biểu diễn lễ nghi Garuda, một sự cách điệu mô phỏng Khangarid và một con chim ưng/ diều hâu.
Tên Trung Hoa của Garuda là loài chim Bằng khổng lồ (một loài chim thần thoại), vị vua của loài chim với đôi cánh vàng rực lấp lánh. Chúng được biết có khả năng tăng giảm kích cỡ to hay nhỏ, lớn hay bé, xuất hiện hay biến mất. Đôi cánh mở rộng 330 yojanas (1 yojana dài khoảng 40 dặm). Với một cái đập/ vỗ cánh, chim Bằng có thể làm khô cạn nước biển để ngấu nghiến những con rồng nơi đáy biển sâu kia. Với một cái vỗ cánh khác, nó có thể phá sập núi, nhấn núi chìm sâu vào lòng đại dương.
Ở Nhật Bản, Garuda được gọi là Karura(11). Karura là một sinh vật thiêng liêng có thân người, đầu chim trong Phật thoại Hindu Nhật Bản. Karura, tên gọi được phiên âm từ Garuda (Phạn: Garuda, Pali: Garula), dựa trên các bản dịch Phật giáo Nhật Bản. Một sinh vật tương tự, xét theo tên gọi là konjicho (chim cánh vàng) gốc từ tiếng Phạn: suparna.
Karura được xác tín là một sinh vật khổng lồ, thở ra lửa, ăn rồng/rắn; Garuda là tai ương/nghiệp chướng của loài Naga. Chỉ duy nhất một con rồng có một lá bùa phù của Đức Phật, hay một kẻ cải đạo chuyên tâm nghe Đức Phật thuyết pháp, mới có thể tránh được những tổn hại từ Karura. Shumisen/núi Meru được cho là nơi cư ngụ của Karura.
Karura là một trong những sinh vật bị thay đổi tín niệm khởi nguyên và biến thành hình thức người/vật giữ của, canh gác gọi là Hachibushu (chư thiên của bát bộ chúng).
Phổ biến hơn là Karura được thể hiện như là một sinh vật có cánh với thân người và đầu chim, như trong Kim Cương viện (Kongo buin), bộ phận thuộc trung tâm mandala (Taizokai mandara) và những mô tả bằng tranh trong kinh văn và tranh giấy cuộn. Một ngoại lệ là tượng Karura ở điện thờ Kofukuji, Nara (một trong tám tượng chư thiên hiện diện trong lễ khai thị, tổ chức vào năm Tenpyo 6 hay 734 sau Công nguyên). Karura được mô tả mặc kiểu áo giáp đời nhà Đường và do đó không có cánh.
Về hình tướng, Karura có thể bị nhầm lẫn với Hoo hay chim phượng hoàng. Mặt nạ Karura là một loại mặt nạ có đặc điểm cổ xưa được các nghệ sĩ múa sử dụng trong vũ điệu gigaku cổ xưa của Nhật Bản. Trong nghệ thuật tạo hình Phật tượng, những vầng hào quang biết đến với tên gọi “ngọn/ánh lửa Karura” là đặc trưng tiêu biểu được trang trí ở phía sau tượng Fudo-myoo/Bất Động Minh Vương. Và mặt khác, Karura cũng được cho là nguyên mẫu của thuật vẽ/họa tengu hay karasutengu.
Ở Tây Tạng, Garuda được gọi là khyung hay mkha’lding(12); ở đây Garuda Ấn Độ khá tương đồng với Bonpo khading (Tây Tạng: mkha’ lding), chim đại bàng vàng kim có sừng, vua của muôn loài chim và chim Bon của lửa.
Garuda được tin rằng có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển giao Dzogchen của truyền thống Nyingma và Bon. Trong truyền thống Nyingma, Garuda là hiện thân phẫn nộ tướng của Đức Liên Hoa Sinh (Padma-sambhava) và trong terma (Tây Tạng: gter-ma) hay truyền thống chôn giấu châu báu, Garuda được tôn kính như là người canh gác/bảo vệ kho báu. Như là một vị thần, Garuda được nối kết một cách mạnh mẽ với Chấp Kim Cương Thần (Vajrapani) và Mã Đầu Quan Âm (Hayagriva). Bộ ba diệu pháp hay rèn luyện pháp môn của ba vị thần đó sẽ đẩy lùi mọi trở ngại và bệnh tật, đặc biệt là những tai họa do rắn gây ra cũng như đau thận, dịch bệnh và ung thư. Trong luyện tập thực tiễn có nhiều thể thức khác nhau của Garuda được hình dung tương ứng với từng phần khác nhau của cơ thể.
Một nhóm năm Garuda tương ứng với năm màu, nguyên tố, hiểu biết và đặc trưng của năm vị Phật: vàng (đất), trắng (nước), đỏ (lửa), đen (không khí), xanh hay đa sắc (không trung). Garuda đa sắc có màu vàng dưới eo (đất), trắng từ hông đến rốn (nước), đỏ từ rốn đến cổ họng (lửa), đen từ cằm đến trán (không khí), xanh dương hay lục trên đỉnh đầu (sự hiểu biết). Lông cánh của Garuda đa sắc này có năm màu, như ánh sáng của cầu vồng tỏa ra mười hướng, biểu trưng cho các nguyên tố của không khí. Thỉnh thoảng lông ở đầu cánh được bịt vajra. Garuda có hai hoặc ba mắt, luôn vàng rực ánh kim.
Garuda là vật cưỡi của Amoghasiddhi (Phật Bất Không Thành Tựu xanh) của phương Bắc, chúa tể của nghiệp chướng hay những tác động/ảnh hưởng của gia đình.
Garuda trong Phật thoại
Theo ghi chép trong kinh Phật, Garuda được Phật giáo thu nạp, trở thành một trong tám bộ chúng hộ pháp. Sau đây là một trong những truyền thuyết cho thấy rõ sự thu nạp cả hai linh vật đối địch là Naga và Garuda về với Phật giáo, hộ trì cho Phật pháp.
Trong kinh Phật có ghi rằng, Garuda là một loài đại bàng cực lớn, với sải cánh hàng nghìn thậm chí hàng vạn dặm, chuyên ăn thịt rồng. Khi Garuda vẫy đôi cánh lớn về phía biển, nước biển lập tức rẽ làm đôi, đáy biển lộ ra, loài rồng đang núp dưới đáy biển sẽ bị Garuda dùng chiếc mỏ kim cương bắt lấy ăn thịt. Mỗi ngày Garuda phải ăn thịt một con rồng lớn (tức Long vương) và 500 con rồng nhỏ (tức con cháu của Long vương).
Do Garuda tàn sát loài rồng quá mạnh, đã khiến Long vương vô cùng kinh hoảng, bèn cầu xin Phật đà cứu giúp tộc rồng. Đức Phật bèn lệnh cho Long vương thống lĩnh cả gia tộc rồng tiếp nhận Bát quan trai giới, và ban cho Long vương một tấm cà-sa cũ, dặn Long vương xé ra phát cho mỗi rồng cháu rồng con một dải buộc lên trên sừng.
Long vương làm y theo lời dặn của Phật đà. Quả nhiên từ đó về sau, Garuda không còn bắt rồng ăn thịt nữa. Long vương sinh lòng đại hoan hỷ, bèn quy y cửa Phật và trở thành thần hộ pháp của Phật giáo.
Tuy rằng tộc rồng đã được bảo vệ, nhưng Garuda không ăn thịt được rồng trở nên đói khát, bèn tìm đến Phật đà biện bạch. Đức Phật bèn nói rằng: “Ngươi ăn thịt rồng là tạo nghiệp sát sinh, kiếp sau sẽ gặp quả báo. Nếu như ngươi biết quy y Tam bảo, trì thủ ngũ giới, ta sẽ căn dặn đệ tử Tam bảo hàng ngày cho ngươi một bữa cơm chay trong khi cúng Phật, ngươi ăn tự nhiên sẽ thấy no. Như vậy, không cần phải tìm rồng ăn thịt nữa!”. Garuda nghe lời, bèn quy y Tam bảo, tiếp nhận ngũ giới, trở thành thần hộ pháp của Phật giáo.
Trong Mật tông, giáo pháp thần tài Garuda ngoài tác dụng xua đuổi bệnh tật, điều hòa gió mưa, tránh sấm sét, thêm vào đó, theo những ghi chép trong giáo pháp Garuda, tu trì pháp môn này sẽ có các công đức như nhận được báu vật long cung, được mưa cam lồ, nạp tài tiến bảo, cầu mưa, gọi rồng, hàng phục rắn rết, xua đuổi bệnh tật... Cho nên, Garuda đã trở thành vị thần tài ứng nghiệm trong Mật giáo(13).
Như vậy, tín niệm và thần thoại về Garuda khởi phát từ Hindu, về sau hội nhập vào Phật giáo ít nhiều có sự chuyển biến cho phù hợp với giáo pháp nhà Phật. Câu chuyện thần thoại Hindu về Garuda-Naga thể hiện một sự thù hằn dai dẳng hay đó cũng là biểu trưng cho hình ảnh lẽ phải luôn chiến thắng mọi điều sai trái như Garuda chế ngự Naga. Còn trong Phật thoại, Garuda được nhìn dưới cái nhìn vị tha hơn, xóa bỏ mọi hận thù. Vô số tác phẩm nghệ thuật tạo hình Garuda cũng là một kho tàng hết sức đa dạng. Do cách hiểu riêng, cộng với sự tích hợp các tín niệm bản xứ vào Garuda nên mỗi cộng đồng dân cư ở từng quốc gia Phật giáo lại tạo tác nên các hình tướng độc đáo, tạo nên một tập thành vô cùng đa dạng về hình dạng và phong cách. Đề tài hấp dẫn này, chúng ta sẽ đề cập vào dịp khác. 
Huỳnh Thanh Bình
___________________
 Chú thích
 (1) Mahabharata, cuốn I: Adi Parva, phần 23.
(2) Mahabharata, cuốn V: Udyoga Parva, phần 101.
(3) Xem:
- Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 77.
- Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 59.
- Mahabharata, cuốn I: Adi Parva, phần 140.
(4) Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 85.
(5) Mahabharata, cuốn VII: Drona Parva, phần 20.
(6) Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 94.
(7) Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 2, tu viện Huệ Quang, 1995
(8) (9) Theo Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn, Nxb. Tổng Hợp TP.HCM, 2011.
(10) Theo Toàn tập giải thích các thủ ấn Phật giáo, Nguyễn Tuệ Chân biên dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2008.
(11)  Xem: - Shincho encyclopedia of world art, Shinchosha, 1985.
- Hindu gods and goddesses in Japan, Saroj Kumar Chaudhuri, tr.151.
- Japanese dictionary; Shinmura, Izuru; Iwanami; 1976; tái bản lần thứ 2.
- Art research foundation; Murano, Takao; Tetsurô Kôno (dịch), 1997.
(12)  Theo The handbook of Tibetan Buddhist symbols, Robert Beer, Serindia xb, 2003, tái bản 2011.
(13)  Theo Phương pháp thờ thần tài Mật tông, Đại đức Thích Minh Tông, Nxb. Tôn Giáo, 2010.

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

Tìm Hiểu Đạo Tôi: Món Nợ Phải Trả

Điều ngạc nhiên lớn, là khối giáo dân trong suốt thời thực dân, lên đến mấy triệu, là một con số có sức mạnh không chối cãi. Vậy mà, thực dân Pháp chế ngự được, phải là một việc không ngờ sao thực dân đã kiểm soát được.
Cụ Hồ chỉ với 5,000 cán bộ đảng viên mà chiếm được chính quyền, nếu so sánh hai con số, số giáo dân Công giáo hơn gấp bội và trong thời Cần Lao Công giáo, các cha Bắc kỳ di cư, đã xúi khiến giáo dân làm loạn, như "loạn đọc kinh" của tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt.
Bởi vậy, người ta vẫn thắc mắc, vì sao có khối giáo dân khổng lồ ấy, mà giặc Pháp vẫn đè đầu cưỡi cổ được? Câu trả lời là Tây đã dung hàng giáo phẩm mũi lõ mắt xanh để điều khiển giáo dân. Hơn nữa, vì Công giáo là "độc tài giáo phiệt", lại chịu sự cai trị của giáo đoàn độc đoán La Mã, nên thật là một sự dễ hiểu là sao khối giáo dân khổng lồ ấy ngoan ngoãn phải chịu làm công cụ cho thực dân đời và đạo.
Hàng linh mục ta, hồi đó, đã gặp phải thảm hoạ là phải quỳ lạy và hôn chân các linh mục Tây, nên khi đã chịu hôn chân Tây được gọi là những bàn chân ơn phước, vì đã đi sang nước ta để truyền bá tin mừng. Nhưng dù nói gì đi nữa, thảm hoạ hôn chân Tây đã tước đoạt bất cứ một phản ứng phẫn nộ nào của hàng lính mục bản xứ, cho nên đành nỗi chịu nhục đã trở thành gánh nặng đè trên đầu các cha ta, ít nhất là cho đến khi Tây thua trận Điện Biên Phủ.
Rồi trong thời Cần Lao Công giáo, thay vì cùng nhau trở về với dân tộc tổ quốc, các cha của những trại định cư đã rơi mặt nạ, định dùng giáo dân làm loạn khi xúi bẩy họ xuống thủ đô Saigon làm loạn.Nổi bật nhất là cha tổng Hoàng Quỳnh với lời nói phản quốc là :"Thà mất nước chẳng thà mất Chúa!" Chúa nào, Chúa Vatican, nên câu nói đó đã chứng minh một thái độ tuyệt đối vâng lời Vatican, chịu làm tay sai tôi tớ cho nó để được làm thánh La Mã hơn làm quỷ nước Nam. Chúng ta hãy tưởng tượng, nếu không làm tay sai cho Tây, hay cho La Mã, mà giáo dần tiến đến khối đa số, thì nước ta chắc chắn đã trở thành thuộc quốc của Tây hay của La Mã rồi.

Bức họa để trang hoàng trong ngày H
John Paul II phong thánh cho
117 vị tử đạo - Ảnh http://gxdaminh.net/
Nhưng dù rất vâng lời trong tuân phục thực dân và Vatican, hàng giáo phẩm bản xứ vẫn bị khinh rẻ coi thường, không hẳn là hàng giáo phẩm độc lập, mà là hàng giáo phẩm tay sai hết làm con Tây đến con La Mã. Để làm gì vậy, vì thà mất nước hơn là mất Chúa, của nhà nước gian manh La Mã, lâu lâu lại mở một màm bi kịch phủ dụ ban cho những thánh tử vì đạo, mà con số 117 hầu hết là Công giáo phản quốc, làm tình báo cho Tây để giặc có cơ hội cướp nước.
Xem lại lịch sử của Công giáo làm tay sai cho ngoại bang, chúng ta thấy chưa bao giờ có đại hoạ phản quốc để được làm con cái hiếu thảo Việt Nam đối với thần quyền La Mã, dùng phép lạ, phép thánh để đưa giáo dân ta, giáo phẩm ta vào thành phần cuồng tín ngu đạo. Nếu không có hoà bình, thống nhất, cái hoạ Công giáo chịu làm tay sai cho ngoại bang chắc không bao giờ hết, nước ta sẽ như nước Philippines hay mang tên thánh là nước Giuse An-nam!
Như thế rõ ràng là giáo hội ta đã nhìn thấy thời kỳ bán nước cho Tây, nhưng tại sao vẫn không chịu xưng tội với lịch sử. Sự im lặng, chẳng những là đồng loã, mà con là sự im lặng che dấu đại tội. Giáo hoàng La mã đã xưng bẩy núi tội đồ, còn giáo hội ta thì sao. Không lẽ vì bị Tây chà đạp quá nên không đứng thẳng lên làm người được sao? Dù gì cũng phải biết lời nói bất khuất của Trần Bình Trọng :"Ta thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương nước Bắc." Sao không có can đảm như các giám mục Nhật bản để nói lên được :"Ta thà làm quỷ nước Nhật hơn làm thánh của nước La mã!"
Món nợ phải xưng tội với quốc dân, với lịch sử, sớm muộn cũng phải trả, không thể mập mờ đánh lận con đen bằng sự im lặng tội lỗi. Thời Tây và thời Cần Lao Công giáo, các cha ta hung bạo lắm, nhưng thời Tây đã hết, thời Cần Lao Công giáo cũng đã hết luôn. Đại hoạ cuồng tín ngu đạo không còn lý do tồn tại nữa. Nên nhớ, thời Tây các cha ta phải cung kính gọi các cha Tây là "cố thừa sai". Cố là gì? Là bố của cụ, cụ là bố của ông, ông là bố của cha, Như vậy hàng linh mục bản xứ rõ ràng là con, cháu Tây, nên không ngóc đầu lên được. Làm cha linh hướng mà gục đầu sát đất thì linh hướng được cho ai? Không ngạc nhiên cả cha lẫn con đều làm tay sai nô lệ cho ngoại bang.
Đến trường hợp tổng giám mục Giuse Ngô quang Kiết, vì không biết giáo quyền độc tài ở tít trên cao là giáo hoàng. Ông đã xúi giáo dân Hanôi "làm loạn đọc kinh", cho nên bị La Mã đá đít văng khỏi chức vụ giáo phẩm hàng dầu của thủ đô. Như vậy đã đủ chưa để giáo hội ta đứng lên làm người và chạy thoát ra khỏi giáo hội độc tài giáo phiệt La mã?. Hay vẫn thấy hạnh phúc vâng lời chịu nhục để được lên nước Thiên Đàng, là cái bánh vẽ của giáo hội La Mã đã thiu từ lâu rồi. Nếu không vì dân tộc tổ quốc, không vì quyền lợi của hàng giáo phẩm, thì cũng vì tự ái, vì hạnh phúc được làm người mà vùng lên chứ?
caohuutam1939@gmail.com. 

Thứ Hai, 23 tháng 3, 2015

Người Miêu: Lịch Sử Của Một Dân Tộc Lưu Vong (Trần Trúc - Lâm)

Qua cuộc chiến Đông Dương và Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc miền núi đã đóng một vai trò không kém phần quan trọng, thường được báo chí Tây phương nhắc đến, nhất là ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với sự thắng thế của phe cộng sản vào giữa thập niên 70, đã có một làn sóng di dân tị nạn ồ ạt kéo dài nhiều năm sau đó.
Phần lớn dân thiểu số ở Lào sau khi vượt sông Mêkông lánh nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi núi Bắc Thái; một số khác được định cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng lớn lao người đồng bằng của 3 nước Việt, Miên Lào.
Với hơn hai thập niên đầu định cư, vì những nhu cầu và dịch vụ xã hội, đã có sự giao tiếp hòa đồng của các sắc dân Đông Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đã làm quen với những người miền núi của thượng Lào với y phục cổ truyền có màu sắc sặc sỡ khác lạ mắt mà những người lớn tuổi vẫn còn mặc khi đi khám bệnh, đi chợ, đi xe buýt hoặc đến sở welfare v.v...
Riêng nói đến người Lào thì trong khối sắc dân hỗn tạp này, nhiều người Việt chúng ta đã không phân biệt được người Lào đồng bằng, người Lào miền núi (còn gọi là Lào thừng), người Miên (đừng nhầm với người Cao Miên, hay Khmer), người Hmong (mà ở Việt-Nam hay gọi là Mông, Miêu, Mèo), người Kh'mú (còn gọi là người Kha phía nam Lào). Họ có tiếng nói và phong tục văn hóa khác biệt hẳn nhau.
So với người Việt, thì người Miên và người Hmong chỉ có một số ít họ tộc rất dễ nhận: Đối với người Miên thì thường là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; còn người Hmong thì có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao v.v... Với chúng ta thì tên Vang Pao lại cũng rất là quen thuộc.
Nhóm sắc tộc Lào, vốn thích nghi với miền núi và canh tác, khi đến Mỹ đã tụ tập với nhau ở một số địa phương như Minesota, Fresno, Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle...Và theo đà tiến triển, các thế hệ trẻ đã chóng thích nghi với đời sống mới và đạt lắm thành công rực rỡ trong nhiều mặt như học vấn và kinh doanh.
Riêng với sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến Điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ. Đã có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi.
http://e-cadao.com/Coinguon/h'mong2.gif
Người Trung Hoa xưa phân biệt sắc tộc H'mông ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại hoang (sheng). Loại H'mông thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong sống hoang dã ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam vào thế kỷ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người giống caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của Trung Quốc luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, không nương tay, ngay cả đến thời Dân quốc và Trung cộng ngày nay.
Sự kiện này đã làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người H'mông. Nhưng sử sách của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách cổ nhắc đến một cách rõ ràng, không khác gì khi nói về nguồn gốc của Việt tộc. Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên của Hoa tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn Thanh,  người H'mông đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung Quốc.
Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về giống H'mông là cuốn "Histoire des Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc H'mông ở Bắc kỳ và Lào.
Nguồn gốc Miêu tộc
Về sau, nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống H'mông xuất phát từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng-hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Hmong còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Hmong sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể chuyện là "nước cứng" và "cát trắng mịn".
Số phận dân H'mông bắt đầu gắn liền với sử Trung Quốc có thể vào khoảng từ 3000 trước TL đến 1200 trước TL.
Khoảng 2700 trước TL, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà Bắc khi khí hậu ấm áp hơn cho phép, và người H'mông đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà ở vùng thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm tây, Sơn tây và Hà Nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc  này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn đông.
Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung Hoa,  đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy giờ. Theo người Hoa thì Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hoa (khoảng 2697 trước TL), liền tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc dể chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung quốc. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời Hoàng đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán ngày tháng gieo trồng v.v...
Hẳn nhiên Hoàng đế chỉ là một nhân vật huyền thoại của người Tầu, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi suốt lịch sử Trung Quốc.
Cuộc sống mái với Hoa tộc qua các triều đại
Năm 1576 trước TL, vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh một giải đất thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ, định canh, mục súc, tằm tang và chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch bại trận bị bắt làm nô lệ, và còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa. Vào năm 1930, trong một cuộc đào xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương,  người ta tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc Phi Mông Cổ (có nghĩa là gốc caucasian) lẫn lộn.
Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước TL) thì ngay sau khi diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền đày một số tộc Miêu lên vùng biên cương Cam-túc (Kansu), tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác dưới sự kiểm soát của các đội biên phòng, nhưng người Hmong, quen sống tự do bõ trốn vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi. Đến thế kỷ thứ 7 trước TL, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung Quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước TL, và một phần theo giòng sông Vệ vào vùng Tứ Xuyên, rồi trốn vào Tây Tạng yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc.
Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước TL, Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến Quảng Tây, Hồ Nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ Xuyên và Quế Châu, xa khỏi vòng kiềm chế của nhà Chu.
Ấy vậy mà năm 770 trước TL, U-vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ Khuyển-nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình-vương phải dời đô từ Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông đô), nên sử gọi là Đông Chu.
Tiếp sau đó, nước Tầu bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước TL), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước TL.), số phận Miêu tộc không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Tầu. Cùng thời xin nhớ rằng, ở nước Văn Lang khoảng 275 trước TL, Thục Phán dành được ngôi từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây thành Cổ loa.
Mãi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước TL), sau khi nhất thống Trung quốc Tần Thỉ Hoàng (Shih Huang-ti) dời đô về Hàm dương, quyết tâm đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn lý trường thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ phương Bắc. Tần Thỉ Hoàng đã ra lệnh cho tướng Đồ-Thư đánh chiếm các xứ Bách Việt ở phương nam (khoảng các tỉnh Hồ-nam. Quảng đông và Quảng tây bây giờ), rồi cho di dân hơn 50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam-hải là Triệu Đà cai quản. An Dương Vương xin thần phục nhà Tần.
Khi nước Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh hùng thì năm 208 trước TL, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận).
Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 TL), nhờ yên ổn với các rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm. Đời Vũ Đế (134 - 88 trước TL), quân Hán đã đánh chiếm Triều tiên và chia ra làm 4 quận. Năm 111 trước TL lại sai Lộ Bác Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao-chỉ bộ (Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận. Quân Hán còn chiếm các đất của rợ Di, phía Tây nam như Vân-nam, Quế-châu và Tứ-xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng-tây. Năm 41 vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh dẹp cuộc nổi loạn của Hai bà Trưng ở quận Giao-chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn của Miêu tộc ở phía nam Hồ Nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2 vạn quân vì bệnh ôn dịch trong khi hành quân.
Nhà Đông Hán đã trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng mạc người H'mông trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời Chiêu-đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường của Miêu tộc.
Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei, Shu Han, Wu) thì người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần lớn đất Hồ-nam và Quế-châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn nam của Hồ Bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở Hà Nam, Sơn Tây và lan đến phía đông An-huy.
Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) thì nước Tầu suy yếu, rơi vào hỗn loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay còn gọi là Lục triều: 317 - 589) thì khoảng từ 403 đến 561 đã có đến hơn 40 lần người H'mông nổi dậy để đòi độc lập, cùng với những sắc tộc khác ở khắp nơi mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ hồ (Hung-nô, Yết, Tiên-ti, Chi, Khương).
Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Hmong đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá rộng ở  phía tây Trung quốc kéo dài từ Hà Nam, qua Hồ Bắc, Hồ Nam xuống đến Quảng Tây, có thể lẫn lộn biên cương giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ được tiến cử vào các triều. Nhưng thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà Đường (T'ang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), thì bắt đầu đánh dẹp và thu hồi  đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có H'mông. Đổi lại, nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đình.
Chấm dứt một thời oanh liệt
Đến năm 907, nước Tầu lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc Hmong. Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh giành lại các đất vùng Hồ-bắc và Hồ-nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ vương triều của Hmong bị tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời vàng son của bộ tộc Miêu.
Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó như sau: Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì  chiến trận, giàn quân kháng cự quân Tống.  Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn học được phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.
Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hoa bày quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đãi đến chết. Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu diệt được triều thần Hang Tchu.
Người H'mông lại phải chạy trốn vào vùng Quế Châu và Tứ Xuyên; số khác lại tẩu táng xuống Quảng Đông và Quảng Tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người Hoa lại còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y phục có màu khác nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy vậy họ vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là Hoa tộc.
Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ nữ Mông một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau:
"Họ cư trú trên các thung lũng của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Mông, bốn mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường mòn vừa đủ cho người địu gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo. Giữa khung cảnh tịch mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ, bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi bật lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng, Dao ...vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Mông: Đây là cô gái Mông Trắng mặc váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô gái Mông Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Mông Đen quấn vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm mỗi bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Mông Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống." ...
Trở lại câu chuyện gốc gác người H'mông ở Tầu thì sau khi bị phân tán vào các vùng cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống bận rộn trong việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung quốc mà xao lãng quân sự đưa đến việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên-ti (Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang Bắc, Ninh Hạ và Cam Túc. Từ đó nước Tầu lại can qua giữa 3 nước.
Những năm về sau ở nước Liêu, Mãn-tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước Đại Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy Tông liên kết với Đại Kim để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông Cổ phát triển hùng mạnh với Thành Cát Tư Hản (Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm 1224, chọn Yên-kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng là Nguyên-thái-tổ. 
Sau khi Thành Cát Tư Hản mất năm 1227, thì con là Oa-khoát-đài hay A-loa-đài (Ogadai) thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi Oa-khoát-đài mất, Mông-kha (Mongke) lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu Âu và mặt khác sai cháu cuả Oa-khát-đài là Hốt-tất-liệt (Kublai Khan) cử binh đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của nưuớc Nam chiếu (ở vùng Vân-nam bây giờ) vào năm 1253, rồi tiến đánh nhà Nam Tống và nước An Nam. Khi Hốt Tất Liệt đánh vào Quế Châu, Tứ Xuyên, quân Mông Cổ đã không tiến sâu vào vùng cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị sát hại nhiều.
Khoảng từ năm 1267 đến 1279 Hốt Tất Liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông Kha mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279 - 1368) ở Trung Quốc. Vua Tống Cung đế và các đại thần phải nhảy xuống biển tự vận.
Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi lên đánh đuổi được quân Mông Cổ lập nên nhà Minh (Ming: 1368 - 1644). Nhà Minh lại nhắm vào Miến Điện như là cửa ngõ buôn bán với vùng Đông Nam Á, nên quyết bình định vùng Vân Nam. Trước tiên họ đặt ra hệ thống thổ-ty (Tu Si system) và ưu đãi nhóm người Lô-lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2 ngàn đồn biên phòng tại Quế Châu, Tứ-xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn người.
Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm nào mà người Miêu không vùng lên đòi độc lập, và tung hoành một cõi từ Quế Châu đến tận Hồ Nam. Để ngăn chận họ, nhà Minh cho xây một trường thành nhỏ giống Vạn Lý Trường Thành gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên giới Hồ Nam và Quế Châu.
Số phận vẫn còn bi đát
Năm 1616, người Mãn-châu là hậu duệ của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh, Nỗ-nhỉ-cáp-xích quật khởi ở miền Liêu-ninh xưng là Thái-tổ và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm-dương chống lại nhà Minh. Năm 1636, Hoàng-thái-cực kế vị vua cha, đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh phục Triều-tiên, Nội Mông-cổ và miền Đông-bắc của Minh triều và đến năm 1644 thì Thuận-trị dứt được nhà Minh, thiết lập Thanh triều ở Trung-quốc (Ch'ing hay Qing: 1644 - 1911).
Tàn quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang Nhật Bản và Việt Nam. Một số khác do Hoàng Minh và Mã Báo bỏ Quảng Tây trốn vào Quế Châu cốt tìm đường sang Vân Nam. Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho họ toàn bộ vũ khí và còn bày cho cách chế tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu vẫn còn sử dụng.
Sự kiện này đã làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa-đài (Ortai), thống đốc Quế Châu mở chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào Quí Dương (Guiyang)  là thủ phủ rồi vào Liễu Bình (Lip'ing). Quân Hmong đông đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với súng hỏa mai và đại bác nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân Thanh thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ tượng kỷ niệm chiến thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một hòn đảo trên sông Liên, cửa vào Quí Dương.
Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4 thị trấn ven sông. Nhà Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công vào cứ điểm của người H'mông từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng đều bị giết sạch. Điều này làm cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên kết dựng những hỏa đài báo hiệu sự tiến công của quân Thanh trên các sườn núi. Di tích của những hỏa đài này hiện vẩn còn. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến chết. Họ còn giết hết vợ con để khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên cuồng chẹn các đèo vào núi, làm cho cả Bắc Kinh lo lắng.
Dương Quang Sĩ được cử thay Oa-đài ra sức giải tỏa hết các chốt và cắt đường tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ đói khát phải mở đường máu. Hai mươi ngàn quân Miêu bị giết trên chiến trường. Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và một nửa số bị sát hại sau đó. Tổng số súng dài tịch thu lên đến gần 50 ngàn khẩu. Dương Quang Sĩ còn khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng mạc của người H'mông, tước đoạt đất đai của họ. Dân Miêu lại phải trốn chạy vào các vùng lân cận để thoát thân, một số vượt biên giới vào miền bắc Việt Nam, định cư ở Đông Quan và núi Hoàng Su-Phi. Tuy vậy số người H'mông còn ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn khuất phục, thỉnh thoảng vẫn tìm cách nổi dậy.
Đến năm 1740, đời Ung Chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan trực tiếp cai trị vùng Tứ Xuyên, Quế Châu, Vân Nam, Quảng Tây cốt để đồng hóa họ và khai thác các quặng than, bạc và đồng cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu điêu đứng, khiến họ nổi dậy không ngừng.
Năm 1796 người Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới sự lãnh đạo của 2 tù trưởng là Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quế Châu, Hồ Nam để khủng bố nông dân người Hoa vốn do Thanh triều di dân đến dưới mỹ danh là "khách trú" và được quân đội bảo vệ. Bắc Kinh phải vội tăng viện để dập tắt cuộc bạo loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm mới xong. Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành từ lâu đã bị bỏ hoang và tăng cường thêm quân bố phòng để kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của người Hmong và quyết tâm đồng hóa họ. Người Thanh còn bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ Hán và Hoa tộc được quyền cưới phụ nữ Miêu.
Nhiều nhóm Miêu không chịu đựng được sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở những tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ Nam và bắc của Quảng Tây, Miêu trắng dời về phía bắc vào vùng Tứ Xuyên, và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng Vân Nam.
Lúc bấy giờ ở vùng Vân Nam, vốn xưa là nước Đại Lý đã có giống người Hản (Haw) cư ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có liên hệ với người Panthay ở Miến Điện, chuyên về buôn bán thương mãi. Họ thường bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ thị cho nên cũng đã nổi dậy nhiều lần đòi độc lập, như vào các năm 1818, 1826 và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn bạo.  Nhưng từ năm 1855 cho đến 1873 người Hản vùng dậy và làm chủ được toàn vùng dưới sự lãnh đạo của Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) vì nhà Thanh còn bận đương đầu với loạn Thái Bình (Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu tuyên bố Vân Nam là một nước Hồi giáo độc lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay quay lại tái chiếm. Người H'mông cùng tham gia với người Hản nổi dậy nên cũng chịu chung số phận bị tàn sát dã man. Người ta ước tính có đến cả triệu người Vân Nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế là người Hản và người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến Điện và Đông Dương lánh nạn. Nhóm đến Việt Nam lần này đông khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng Văn ở gần biên giới.
Miêu tộc vào Việt Nam
Trước đấy từ năm 1815 đến 1818 đã có người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở Đồng Văn. Sau đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc của ngọn núi Fan Si Pan, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai tìm thấy dấu vết của họ đâu nữa, làng mạc bị bỏ hoang.
Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có liên quan đến một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn Mã. Nhân một chuyến ghé qua Fan Si Pan để thu mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng đất hoang mầu mỡ ở dãy núi Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra thì y chỉ muốn thủ lợi riêng bởi vì người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến để bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên phong được "tiểu vương" (kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu, tìm đến vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là phì nhiêu, thế là trong vòng vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong Het và để tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mã.
Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài năm thì Lo See Pa bị bọn cướp người Hoa giết chết trong một trận tấn công vào làng không thành cốt để đoạt nha phiến. Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc giòng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy trì vài thập niên mãi đến khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lý và nhóm họ Moua xuất hiện.
Nhóm người Miêu họ Lý, lãnh đạo bởi Lý Nghia Vue vốn ở nước Đại Lý xưa kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi dậy cùng với người Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ nhiên là họ không chịu thần phục giòng họ Lo, và vẫn giữ nguyên tiểu vương của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được tôn kính hơn cả.
Cùng đợt tị nạn từ khi vùng Vân-nam bị thất thủ vào năm 1860 và loạn Thái Bình bị đập tan vào năm 1863, một khối lượng đông đảo người từ Trung Quốc tràn xuống Việt Nam, trong đó có cả Miêu tộc. Bọn họ là đám tàn quân nên còn mang theo vũ khí, đi cướp phá mạn thượng du Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bá, miền bắc nước ta dưới triều Tự Đức, nên sử ghi là giặc khách. Mạn Tuyên Quang có Nông hùng Thạc, mạn Cao bằng có Ngô Côn và Lý hợp Thắng chiếm tỉnh lỵ năm 1865. Về sau có dư đảng là bọn Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng và Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, hiệu cờ trắng cùng với giặc biển tên Phụng liên tục quấy phá khắp nơi ở miền Bắc.
Lúc bấy giờ tình hình nước ta thật điêu đứng với giặc ngoại xâm, trong nam thì  đã bị quân Pháp chiếm, mà chúng còn đang hăm he đặt nền bảo hộ và đánh Bắc kỳ. Ngoài bắc thì đám giặc khách uy hiếp làm quan quân ta chống đỡ không nổi. Riêng giặc ở thượng du đã có lúc tràn xuống tận Yên Bái vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức phong cho Nguyễn Tri Phương làm Tây Bắc tổng-thống quân-vụ đại-thần đốc thúc việc tảo trừ, năm 1863 quân ta tái chiếm thành Tuyên Quang. Miêu tộc rút lui về Quảng Bá.
Tại núi Phước ở Quảng Bá lại xuất hiện một thủ lãnh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào lộn và phi thân rất giỏi, tự xưng là tân vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu số khác trong vùng như Mán và Nùng cũng thần phục y, gây một thế lực rất lớn. Chỉ trừ giống Thổ là chống đối. Y xây lâu đài, dựng triều đình, lập quân đội, làm vũ khí với súng hỏa mai. Xiong liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng cư dân lớn hơn khác của người Thổ gần Quảng Bá.  Chiến thắng này làm tăng thêm uy danh của Xiong. Trong vòng 12 năm sau, y giao việc hành quân cướp phá các vùng lân cận cho thuộc hạ, còn y thì chỉ vui hưởng tại cung điện mà thôi.
Sau khi Xiong chết vì ám sát thì vương quốc của y cũng tan rã, kẻ kế vị là Cha Shue, một tù trưởng ở dãy núi Hoàng Su Phi. Vùng y tự trị nằm vắt qua hai biên giới Việt-Hoa, và vào năm 1894 y còn được Thanh triều phong cho chức thổ-ty. Người Pháp lúc bấy giờ đã chiếm Việt-nam làm thuộc địa cũng để yên cho Cha Shue, vì họ cần người Miêu cung cấp gỗ độc quyền cho họ. Về sau Cha Shue còn gây thế lực bằng cánh đánh thuế trên số gỗ bán cho người Pháp. Uy tín của Cha Shue còn được truyền tụng ở Nong Het.
Người H'mông ở Lào và thuốc phiện
Sau khi định cư ở Lào, người H'mông lại phải ác chiến với người Khạ ở vùng Xiêng Khoảng vào nửa cuối thế kỷ thứ 19. Người Khạ hay còn gọi là người Kh'mu vốn là cư dân lâu đời tại Lào, có thể từ thế kỷ thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của nước Phù Nam (Funan), sau lại lệ thuộc vương quốc Chân Lạp (Chenla), và rồi Khmer.  Vào thế kỷ 13 và 14, khi nước Nam Chiếu bị người Mông Cổ diệt, bộ tộc Lào và Tày di dân qua đất hạ Lào trở nên đa số và thiết lập vương quốc độc lập Luang Prabang. Từ đó người Khạ bị người Lào khinh miệt và bị bạc đãi tàn tệ, phải sống ở vùng thượng du.
Khi người H'mông định cư ở Xieng Khoảng, người Khạ bắt họ phải cống nạp nông sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người H'mông còn sống sung túc bằng nghề trồng trọt nha phiến người Khạ lại đòi hỏi thêm thuốc phiện. Điều này đã đưa đến chiến tranh và người Khạ bị thua trận phải kéo chạy về vùng núi gần Luang Prabang.
Thị trường nha phiến trên thế giới khởi phát từ Á-châu bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu thế kỷ 19 đã giúp cho người Hmong đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất chất thô. Bọn đế quốc lại dùng số lợi nhuận khổng lồ để tái tài trợ cho những âm mưu bành trướng thế lực và cai trị thuộc địa. Cuối thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông qua đạo luật ngăn cấm chính phủ tham gia thì Pháp độc quyền thị trường ma túy. Chính vì nguồn lợi này mà Pháp đã thôn tính luôn cả Cam Bốt và Lào để có đường thông thương với thượng du Vân Nam. Ngay cả sau khi Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương vào 1954, ảnh hưởng của họ trên thị trường ma túy vẫn không giảm, và chính tập đoàn buôn lậu đã mua chuộc và làm thối nát chính quyền miền Nam để bọn họ dễ dàng làm ăn, và chắc chắn là bọn họ cũng lũng đoạn chế độ hiện nay tại Việt Nam. Cuối năm 1960, người ta ước tính là nông dân người H'mông ở Lào đã cung cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị trường ma túy của thế giới.
Khi người Pháp đô hộ Lào từ năm 1893, họ dùng người Lào và Tày cai trị dân miền núi cho nên đã xảy ra khá nhiều chuyện bóc lột hà hiếp dân Miêu với thuế khóa nặng nề trên nông sản nha phiến. Năm 1896 người Pháp lại tăng thuế và đòi trả một phần bằng thuốc phiện, làm cho Miêu tộc nổi loạn, họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của người Tầu là Pháp quỉ (Fa kouie). Lần đầu họ thành công khi tấn công đồn lính tây ở Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại ở lần thứ hai khi đánh vào tiểu khu Xieng Khoảng. Vì vậy tiểu vương họ Lo bị truất phế và được thay vào bởi họ Moua, tên Tong Ger. Tân tiểu vương liền xin hòa đàm với nhà cầm quyền thuộc địa tại Bản Ban để được giảm bớt thuế, và sự giao thiệp giữa Pháp và người Hmong bớt căng thẳng.
Quân Cờ Đen và Miêu tộc
Năm 1870, dư đảng của giặc Thái-bình ở Trung-quốc sau khi tràn vào Việt-nam, chia làm hai phe Cờ vàng ở Tuyên-quang và Cờ đen ở Lào-kay chống chọi nhau ở mạn thượng du. Đến năm 1875 giặc cờ vàng bị dẹp tan. Còn Lưu hữu Phúc đầu đảng Cờ đen xin thần phục triều đình nhà Nguyễn rất sớm. Vua Tự-Đức phong cho Phúc làm đề đốc, và khi quân Pháp dưới quyền của Đại úy Hải quân Francis Garnier đánh thành Hà-nội, Garnier đã bị quân của Lưu hữu Phúc phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm 1873.
Âm mưu của Pháp muốn chiếm Bắc Kỳ vẫn không phai, nên đầu năm 1882 Đại tá Hải quân Henri Riviere được lệnh đem tàu chiến ra đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai, thừa thắng hạ luôn thành Nam Định vào tháng ba, năm 1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng 5 thì Riviere lại bị quân cờ đen phục ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen còn bêu đầu của Riviere từ làng này qua làng khác.
Nhiều cánh quân cờ đen khác thường đem quân sang Lào, đánh cướp nha phiến của người Hmong để mua lương thực và vũ khí, và bắt đi đàn bà con gái cho nên Miêu tộc phải nhờ người Pháp bảo vệ. Tháng 11, 1914 quân cờ đen tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau đấy tiến đánh Phong Saly và đã đụng độ đến mấy tháng với lực lượng H'mông và Pháp, trước khi bị bại phải tháo chạy trở về Trung Quốc.
Một thủ lãnh Miêu ở Hà Giang, Việt Nam tên Yang Yilong được tin bèn xin nhà cầm quyền địa phương Pháp trang bị vũ khí để mở những trận du kích đuổi quân cờ đen. Từ đó mở đầu cuộc hợp tác quân sự giữa người Miêu và Pháp, và kéo dài cho mãi về sau. Để trả thù quân cờ đen đốt phá các buôn làng của người Miêu mà họ đi qua.
Cuộc hợp tác giữa người Miêu và Pháp cũng chẳng mấy êm trôi khi chính quyền thuộc địa lại tăng thuế vào năm 1914, gánh nặng bất công đè trĩu trên vai người H'mông. Đã vậy thực dân Pháp lại quyết định mở những trục lộ giao thông giữa Việt Nam và Lào chạy qua Xiêng Khoảng và Phong Saly, và bắt dân H'mông đi làm phu, làm cho việc mùa màng bị đình trệ càng thiếu tiền đóng thuế. Nhiều làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.
Năm 1917, phụ tá của kiatong Moua Tong già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng bóc lột phu phen người Miêu đã đưa đến sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào quân địa phương của Pháp để đàn áp.
Lãnh tụ Chay Pa
Trong khi đó ở buôn làng người Miêu trong vùng Điện Biên Phủ xuất hiện một thủ lãnh tên là Chay Pa, gốc gác từ Vân Nam, biết nói và viết ba thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật, cầm đầu người Miêu chống lại ngươi Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người Miêu  không đóng thuế. Quân Pháp được gởi từ Sơn La đến để truy lùng Chay Pa, nhưng thường bị tập kích. Nhưng đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút quân sang Xieng Khoảng và hô hào người H'mông đứng lên chống Pháp để lập một vương quốc độc lập với kinh đô là Điện Biên Phủ. Chay Pa được sự hưởng ứng của người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh phá các căn cứ của lính thuộc địa. Họ còn ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng hợp tác với Pháp chặt chẻ hơn. Nhà cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính qui từ Việt-nam sang, và áp dụng kế sách ấp chiến lược cô lập quân nổi dậy. Chiến lược này lần hồi thành công và khiến loạn quân tan rã, nhưng quân Pháp vẫn treo giải cho đầu của Chay Pa. Y rút vào rừng sâu sống với vài bộ hạ thân tín nhưng lại bị theo dõi và bị ám sát vào tháng 11, năm 1922.
Lãnh tụ Lý Foung Touby
Sau vụ nổi dậy bất thành của Trịnh Chiếu ở Vân Nam, Tứ Xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có một người họ Lý đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đình và có 3 con; trong số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên May. Hai người có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lý trở nên căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối nhà cầm quyền liền chia cho họ Lý cai quản Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế chức kiatong.
Cùng năm này người H'mông lần đầu theo học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lý và Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian, Touby Lý đỗ xong trung học và theo học trường Hành chánh mở tại Vientiane.
Lo Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ rất phật lòng quan cai trị người Pháp. Nhưng Lý Foung lại khôn khéo đem tiền của mình đền bù giùm nên được lòng tin của quan bảo hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai trò chính trị xán lạn của đứa con trai Lý Touby đã được dọn sẳn. Đến khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em của Tou Song là Faydang rất lấy làm bất bình sinh oán hận Touby, khiếu nại đến hoàng thân Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át.
Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ đứng vững chãi trong guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y đã dùng sản lượng nha phiến do người H'mông trồng trọt để làm áp lực với người Pháp, vì Pháp đang muốn chiếm độc quyền thị trường thế giới lúc bấy giờ. Y còn thuyết phục người Pháp nâng cao vai trò của người H'mông trong xã hội Lào.
Đến năm 1949 Trung Quốc hoàn toàn do đảng Cộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân Nam và biên giới Miến Điện vốn nằm dưới sự cai quản của tàn dư quân đội Quốc dân đảng bị cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên hiệp quốc ký công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương vì chiến tranh leo thang.
Hợp tác với Pháp chống Nhật
Khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã cai trị vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn quyền Decoux được Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đã ra lệnh quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8 năm 1944, khi Paris được giải phóng thì cuộc diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11, quân biệt động Pháp được thả dù xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại dội bom các hải cảng ở Việt-nam.
Tháng 3, 1945 Nhật liền đảo chánh và ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy dù từ Ấn Độ vào thượng Lào với sự bao che của người H'mông. Khi Nhật biết có sự dính líu của người H'mông vào kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền bắt Lý Touby và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên được tha. Chẳng sờn lòng, Touby liền liên lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt động Pháp để hợp tác chống Nhật.
Việc này làm cho quân Nhật điên cuồng, họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp, và vô tình làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác với người Nhật truy diệt lính Pháp.
Tháng 3, 1945 người Nhật bắt giam tất cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng 10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla cầu cứu với Việt minh, cùng với nhóm H'mông của Faydang để chống Pháp, thế là bộ đội Việt minh được chính thức mời vào lãnh thổ Lào cùng với một khối cư dân Việt. Việt minh lại còn tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt Nam. Tháng 11,  lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong của Touby đánh bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là cộng sản, và đến mùa hè năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào (Cộng đảng Lào).
Lúc bấy giờ Hoa Kỳ, là đồng minh với Liên Xô chống phe trục, lại âm thàm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích quân Việt minh để quấy phá quân Nhật ở Đông dương làm cho thế lực của Việt minh gia tăng thêm. Đến khi Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945, Hồ Chí Minh cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà Nnội, thành lập chánh phủ liên hiệp và tuyên bố Việt Nam độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho Việt minh.
Pháp không chịu công nhận Việt-nam độc lập, nhưng lại mời Hồ Chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở lại Đông dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ý dân. Đồng thời Pháp lại hổ trợ cho một nội các chống Việt minh được dựng lên ở Sài Gòn, và còn có ý định lập một nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống hòa bình gượng gạo với Việt minh không kéo dài được lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc đụng độ võ trang Việt Pháp ở Hải Phòng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông dương.
Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc lập trong Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người trong gia đình Touby đắc cử vùng Xiang Khoảng, đó là Lý Foung Toulia. Họ tranh đấu để được đối xử bình đẳng như công dân Lào, và có đại diện trong hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng của người Hmong trong chính quyền Lào.
Việt minh cũng chú ý đến nguồn lợi nha phiến để mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn. Người ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400 triệu đồng bạc Đông dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất cảng của toàn Đông dương cùng năm. Vì thế Pháp đã bằng mọi giá phải kiểm soát được nguồn tài nguyên này, năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép người H'mông hầu như độc quyền trồng nha phiến ở Lào.
Cùng năm, Touby được đưa về Sàigòn để Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực lượng biệt động địa phương chống Việt minh. Từ năm 1951 cho đến 1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho thi hành "chiến dịch X" để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu số. Phi cơ quân sự được lệnh chở thuốc phiện cuả người Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sài Gòn, giao cho Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ là Giám đốc Cảnh sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đã nhận được khoảng 4 triệu đô-la cho lực lượng người H'mông.
Đội Biệt Động Dù G.C.M.A.
Cuối năm 1950, quân Pháp không còn kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với Việt minh. Việt minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ dàng tiếp nhận viện trợ vũ khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân công chuyển qua đường rừng núi.  Việt Minh mở những trận phản công lại trùng với chiến cuộc Cao Ly, nên trước những đe dọa phối hợp của Cộng sản quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương trong vòng 4 năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận Việt cộng.
Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều toán du kích người sắc tộc thiểu số Đông dương, đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt nam và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi Cơ quan Tình báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đã được huấn luyện tại đây để về lãnh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly, Xieng Khoảng và Sầm Nứa.
Trinquiner quyết gấp rút thành lập một lực lượng du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn khu của Việt minh tại Sip Song Chau Thai, phía tây Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo Quang Chao, tù trưởng H'mông ở Lào Kay sức vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la. Đến tháng 4 năm 1952,  GCMA ở Hà nội đã thả dù cho Lo 2,500 cây súng trường để đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi. Trinquiner hài lòng với những chiến công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng biên giới Việt Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc bị giết chết vào tháng 8 năm 1953, và nhóm du lích của y tan rã
Tháng 4 năm 1953, Việt minh và Pathet Lào phối hợp chia thành hai gọng kìm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang, Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dã chiến tại Cánh đồng Chum để tăng phái quân cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đã đẩy lui được các cuộc tấn công của địch tại Lào, và Việt minh rút quân về lại Việt Nam để tập trung vào chiến dịch Điện Biên Phủ.
Vang Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam
Pháp bị đại bại tại Điện biên phủ vào tháng 5 năm 1954, đưa đến hiệp định Geneva. Pháp rút lui dần khỏi địa bàn Đông dương. Việt nam bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn cộng sản ở Đông Nam Á nên gia tăng viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái lan, Nam Việt và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để khuynh đảo các chính quyền địa phương, và đã đi vào con đường mà GCMA đã vẽ ra.
Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng phần lớn ở lại Lào để gây dựng quân đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến việc tranh dành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào cộng được tham gia vào chính phủ liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân độ Bắc Việt liền chiếm  hết những tỉnh của Lào chạy dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, và yểm trợ cho quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ hậu thuẩn phe Hoàng gia.
Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia, tự cho mình là trung lập,  làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt được cuộc nội chiến, đã ra lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh.
Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm 1962, một chính phủ liên hiệp khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma lãnh đạo. Phe cộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ vào chính trường Lào, bất lợi cho họ nên đã rút vào rừng tiến hành vũ trang với sự tiếp tay của quân Bắc Việt. Cuộc chiến giằng co mãi làm Hoa kỳ sốt ruột, quyết định dội bom ồ ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng được cán cân.
Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và cả Đông dương. Thủ tướng Souvana Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21 tháng 2 năm 1973. Phe Pathet Lào tìm mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại bộc phát từ 1974 cho đến 1975. Tháng 3 năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8. Tháng 12, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm chủ tịch, và bải bõ chế độ quân chủ ở Lào.
Trong cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đã bị hy sinh. Số phận của họ đều nằm trong tay một người phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy cho lính biệt động Tây, rồi lên chức đội cò và theo thời gian với chiến cuộc gia tăng đã leo lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao.
Suy Ngẫm
Đọc lịch sử nổi trôi của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm, đã từng một thời chen vai thích cánh với các sắc dân khác ở Trung Quốc. Nhưng đã không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành trướng của Hoa tộc mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước khác ở Đông Nam Á. Luật đào thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lý. Mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước lớn luôn tìm cách thôn tính nước bé. Một khi sức tự cường của một dân tộc không còn thì sự tồn vong chắc là chóng mai một.   Tìm hiểu lịch sử để chúng ta phải thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đã không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua bao đời đã kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để cho con cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng?
Trần Trúc-Lâm
Tháng Giêng, 1999
Mùa Giổ Tổ Hùng Vương
-----------------------
Tài liệu tham khảo
1. Cultural Atlas of China, Caroline Blunden, Mark Elvin - Facts on File, Inc. N.Y. 1983.
2.  A Short History of the Chinese, Mary A. Nourse - 3rd Edition, The New York Library,  N.Y.  1943.
3. Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh - Xuất Bản Bốn Phương, 1942.
4. Hmong - History of a People, Keith Quincy, EWU Press, 2nd Edition, 1995.
5. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - CSXB Đại Nam tái bản 1971.
6. Microsoft Encarta 97 Encyclopedia CD, Microsoft Corporation.

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015

10 giáo phái kỳ lạ nhất thế giới


Mỗi một giáo phái tôn giáo đều mang một niềm tin, thực hành tín ngưỡng theo cách khác nhau, sau đây là danh sách 10 giáo phái kỳ lạ nhất thế giới do The Richest đăng tải.
Giáo phái tia sáng miền Đông (eastern lighting). Tín đồ giáo phái tia sáng miền Đông tin rằng Chúa Giê-su đã đầu thai vào Yang Xiangbin, vợ của người sáng lập nhóm. Giáo phái này có một lượng lớn các thành viên, khoảng hơn một triệu người ở khắp các vùng của Trung Quốc. Ở Trung Quốc, giáo phái này bị cấm và thường được nhắc đến với cái tên "tà đạo".
Giáo phái Raelian. Claude Vorilhon, người Pháp, giáo chủ giáo phái Raelian tin rằng con người được tạo ra bởi người ngoài hành tinh từ hàng nghìn năm trước. Cuối năm 2002, giáo phái Raelian gây rúng động khi vị giáo chủ của nó cùng Công ty Clonaid chuyên cung cấp dịch vụ sinh sản vô tính do ông ta sáng lập tuyên bố đã cho ra đời những đứa trẻ vô tính đầu tiên trên thế giới.
Giáo phái mến mộ hoàng tử Philip. Nhóm tín đồ giáo phái tại hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương tin rằng hoàng tử Philip (Công tước xứ Edinburgh, là chồng của Nữ hoàng Elizabeth II) là người được Thiên Chúa gửi đến cho họ.
Giáo hội Sa-tăng (Satanist Church). Trái với suy nghĩ của nhiều người, giáo hội Sa-tăng không thờ Sa-tăng, mà họ tin rằng Thiên Chúa hay quỷ sứ không xứng đáng được thờ phượng. Họ tự coi mình là các “nhà tư tưởng” có thể tự vận dụng logic chung để đi đến kết luận và đặt niềm tin.
Giáo phái sáng tạo. Giáo phái sáng tạo là một tôn giáo mà chỉ có người da trắng được phép tham gia. Nhóm này được biết gây ra nhiều vụ đe dọa và khủng bố. Giáo phái này theo chủ nghĩa vô thần, phủ nhận "đức tin" vào thần thánh nên không thờ bất cứ ai.
Giáo phái Scientology. Đây là một trong những giáo phái tôn giáo nổi tiếng nhất vì có sự tham gia của vài ngôi sao nổi tiếng Hollywood. Đối tượng mà Scientology hướng đến là tâm hồn, chứ không phải thể xác hay trí tuệ bởi giáo phái này cho rằng con người không đơn thuần chỉ là sự tương tác giữa gene với môi trường sống và con người có thể có được tự do tinh thần đích thực với Scientology. Các thành viên của giáo phái này tin rằng đời sống con người luôn bị cản trở bởi các ký ức tiêu cực trong kiếp trước và chỉ thông qua việc áp dụng phương pháp điều trị tâm lý với tên gọi Dianetics (Thuyết xuyên hồn) của người sáng lập Hubbard, họ mới có thể đạt được cảnh giới “trong sạch”.
Giáo phái khủng bố Yahweh ben Yahweh. Giáo phái này được thành lập ở Miami, Mỹ, không theo Kitô giáo cũng không theo Do Thái giáo, thay vào đó, nhóm giáo phái này kết hợp niềm tin của nhiều tôn giáo khác nhau thành một tôn giáo mới, dựa trên nền tảng của phong trào Do Thái của người da màu.
Nhóm giáo phái Universe People (dân tộc vũ trụ). Nhóm giáo phái có trụ sở tại Séc này đặt tín ngưỡng vào người ngoài hành tinh, vào sự thần giao cách cảm. Các tín đồ của đạo này đặt niềm tin vào sự tồn tại của vật ngoài trái đất.
Giáo hội của cái chết nhân đạo (The Church of Euthanasia). Giáo hội này tự đặt ra nhiệm vụ khôi phục lại sự cân bằng giữa con người và các loài đang cư ngụ trên Trái đất. Chỉ có một quy tắc trong giáo hội và đó là cái chết nhân đạo. Nhóm này ủng hộ việc tự tử và phá thai cũng như kê gian (giao hợp giữa đàn ông với đàn ông).
Phái Nuwaubianism. Tổ chức tôn giáo được thành lập và lãnh đạo bởi Dwight York. Các tín đồ coi York là một người ngoài hành tinh đến từ hành tinh Rizq. Niềm tin của họ là những thứ chẳng hạn như sau khi bạn có con, bạn phải chôn cái nhau để ác quỷ không sử dụng nó để tạo ra một bản sao của em bé.