Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
Charlie Nguyễn
Nếu chúng ta bị một
người nào đó chỉ vào mặt mà mắng rằng:
“Mày là đồ ngu như bò!” thì chắc chắn chúng ta
sẽ nổi giận phát điên lên và coi đó là một
lời nhục mạ nặng nề xúc phạm đến
danh dự của chúng ta. Nhưng cách đây trên 5000 năm,
con vật bốn chân bị coi là ngu
đần lại được người ta tôn thờ
như một vị thần dũng mãnh hơn hết các
vị thần. Người Babylon gọi nó là Il,
người Do thái gọi là El. Người ta tin rằng
thần El thường hiện hình thành một con bò
đực nên vị thần này được gọi là
Thần Bò El (The Bull El hoặc El the Bull).
Đạo thờ bò lan rộng ra khắp vùng Trung Đông, từ
Babylon đến
Canaan
và Phoenicia. Hầu hết các sắc
dân Do thái và Ả rập đều tôn thờ thần bò El
từ khỏang 3000 năm trước Công nguyên cho
đến thời Moses (1250 TCN) thì đạo thờ bò El
biến thể. Chúng ta không thể ngờ
được là tất cả các đạo thờ Thiên
Chúa như đạo Do thái, đạo Ki tô (Công giáo, Anh
giáo, Chính thống giáo, Tin Lành) và cả đạo Hồi
đều là những biến thể của đạo
thờ bò El. Đây là một sự thật lịch sử
đã được chứng minh bởi các sử liệu
giá trị và các kết quả nghiên cứu đầy công
phu của ngành khảo cổ. Vấn đề này cũng
đã được trình bày rất rõ ràng trong các bộ
Tự điển Bách khoa (Encyclopedia) lừng danh thế
giới.
Mặc dầu
đạo thờ bò El đã phát sinh ở
Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó
được chính thức du nhập vào dân tộc Do thái
từ thời Abraham khỏang năm 2000 TCN. Điều
đáng chú ý là Abraham và dân tộc Do thái coi El là vị
thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân
tộc chung quanh tôn thờ thần El cùng
với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera
v.v... Chính vì yếu tố khác biệt quan
trọng này mà Abraham đã được coi là ông tổ
của các đạo độc thần (monotheistic
religions). Do thái được coi là dân tộc
được Chúa chọn vì nước này là quốc gia
đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El)..
Để dẫn
chứng một cách đầy đủ và khách quan về
đạo thờ bò El và các diễn tiến biến
thể (transformation) của nó, chúng tôi xin nêu lên những tài
liệu chứng minh rút ra từ những bộ Tự
điển Bách khoa hoặc những sách do các trường
Đại học có uy tín bậc nhất thế giới
xuất bản sau đây:
1. The Oxford Illustrated
History of the Bible, edited by John Rogerson, Oxford Uuniversity press,
xuất bản năm 2001, trang 7:
Trong tài liệu cổ
sử Ai cập, được viết dưới triều
đại Pharaoh Merneptah (1222-1214 TCN) có nói đến
nước Do thái dưới quốc hiệu ISRAEL. Sử
liệu này giải thích ISRA là cai trị
(to rule), El là thần bó El. Do đó,
ISRAEL có nghĩa là một quốc gia
được cai trị bởi
thần bò El.
2. Theological Dictionary of
the Bible (Tự điển Thần học về Thánh Kinh),
edited by Walter A. Edwell, Baker Book
xuất bản, trang 289-299:
Người Do thái
thờ thần bò El từ lâu đời, cho nên El có
nghĩa là “Thiên Chúa của Do thái” (El is God of Israel) hoặc
“Thiên Chúa của Abraham”. Ngôn ngữ Hebrew gọi Thiên Chúa El
bằng nhiều danh từ: El, Eloah, Elim, Elohim. Vì họ tin
Thiên Chúa El thường hay xuất hiện ở các núi
đá (Rock mountains) tiếng Hebrew là
Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa El là El-Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa El nói trên
đã được nhắc đi nhắc lại tới
2.250 lần trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do
thái. Riêng trong các bài Thánh Vịnh (Psalms) của David, tên
của Thiên Chúa El đã được nhắc tới 238
lần! [Ghi chú: David sau Maisen 300 năm.]
3. The Illustrated Guide to the
Bible, by J. R. Porter, Oxford University Press 1995, trang 45:
Trước khi đặt tên nước là Do thái là
Israel, Jacob (cháu nội của Abraham) đã
đến thị trấn Luz của xứ
Canaan.
Tại đây, Jacob nằm mơ
được thiên thần cho một cái thang. Jacob
đã leo thang lên tới thiên đàng và
được gặp Thiên Chúa El mặt đối
mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã
đổi tên thị trấn Luz thành Beth-El, có nghĩa là
“Nhà của Chúa” (House of El). Câu chuyện
về giấc mơ của Jacob được kể
lại trong Cựu ước (Genesis 28:12).
Do thái không phải là
nước duy nhất thờ thần El. Hầu hết các
giống dân quanh vùng Canaan đều thờ thần El và
rất nhiều thần khác.Tuy nhiên họ quan niệm
đồng nhất với nhau ở chỗ tất cả
đều coi thần El là vị thần cao nhất (The
Highest God) và là cha của các thần (father of all gods). Abraham
và dân tộc Do thái thời đó chưa có quan niệm Thiên
Chúa là Duy nhất (Unity God) như quan niệm củ
đạo Do thái sau này mà chỉ có quan niệm đơn
giản: Thiên Chúa là vị thần mạnh nhất mà thôi.
Nơi trang 65, tác
giả cho biết người Do thái đã thờ thần El
dưới hình tượng của một con bò vàng (the
golden calf) khởi đầu từ thời Abrahm, Jacob cho
đổi đời Mai-sen. Chính anh ruột của Mai-sen
là Aaron đã điều động dân chúng gom góp nữ
trang, nấu chảy đúc thành một con bò vàng để
tôn thờ vào khỏang năm 1250 TCN (Exodus 32-33).
Aaron và tuyệt
đại đa số dân Do thái thời đó đều
tin tưởng thần bò El chính là đấng Thiên Chúa
đã cứu dân Do thái thóat vòng nô lệ của Ai cập.
Sách Cựu ước Exodus (32:4) thuật lại lời
tuyên bố của Araon trước bàn thờ tuợng bò
vàng như sau: “Hỡi dân
Israel, đây là Thiên Chúa của các
người, đây chính là đấng đã đưa các
người ra khỏi đất Ai cập”.
Trong lịch sử
đạo Do thái, Mai-sen (Moses) là cái mộc chia đạo Do
thái thành hai thời kỳ:
- Thời kỳ
đầu từ Abraham (2000 TCN) đến Mai-sen (1250 TCN)
kéo dài 750, đạo Do thái được gọi là
Đạo Cũ, hoặc đạo Do thái
trước-Mai-sen (The pre-mosaic Judaism). Trong thời kỳ
này, người Do thái gọi Thiên Chúa là El, Eloha hoặc
Elohim và tôn thờ Ngài qua hình tượng con bò vàng.
- Từ thời Mai-sen
(1250 TCN) đến nay, đạo Do thái được
gọi là Đạo Mới hoặc đạo Do thái Mai-sen
(Mosaic Judaism). Sự đổi mới quan trọng nhất
của Mai-sen là công bố “Mười Điều Răn”,
trong đó chủ yếu nhắm vào hai điểm: cấm
thờ ảnh tượng bò vàng và cấm gọi tên Thiên
Chúa là El, Eloa hoặc Elohim. Mai-sen bắt dân chúng phải
gọi Thiên Chúa là Jehovah, có nghĩa là “Thiên Chúa của các
tổ phụ” (God of fathers: Abraham, Isaac, Jacob). Mặc
dầu Mai-sen rất tàn bạo và đã giết nhiều
người bất tuân lệnh của y trong việc
cải cách tôn giáo này, nhưng ngay trong sách Cựu
ước cũng cho thấy tới 3 thế kỷ sau khi
Mai-sen chết dân Do thái vẫn tiếp tục thờ Thiên
Chúa El với tượng bò vàng:
- Các bài Thánh vịnh
của David vẫn gọi Thiên Chúa là Elohim.
- Các vua David, Solomon
(thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm
biểu tượng cho Thiên Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
- Vua
Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN) là cháu nội của David
lấp nhiều đền thờ Thiên Chúa El với
tượng bò vàng từ thành phố Bethel đến thành phố Dan.
4. The New Encyclopedia
Britannica (15 edition, Volume 4, trang 411)
Bộ
Tự điển Bách khoa Britannica đã nối tiếng
khắp thế giới từ lâu đời. Tự điển này đã dịch danh
từ El như sau: “El là Thiên Chúa của giống dân Semetic
(tức các chủng tộc Ả rập – Do thái) còn gọi
là Con Bò Thần El, được coi là cha của các vị
thần khác, ngoại trừ thần Baal. Các tác giả
viết Kinh thánh Cựu ước đã dùng danh từ El
vừa để gọi chung các thần
thánh vừa như một danh từ đồng nghĩa
với Jehovah”.
Điều khẳng
định trên cho ta thấy Thiên Chúa Jehovah (Yahweh) mà Jesus
gọi là “Cha ta ở trên trời” chính là Con Bò El (El the Bull =
sysnonym for Jehovah!). Các sách Kinh thánh Tân
ước xưng tụng Jesus là “con một của
Đức Chúa Trời” (the only son of God) thực chất là
con một của Thần Bò El.
5.New Larousse Encyclopedia
of Mythology (Tân Tự điển Bách khoa Larousse và Huyền
thoại, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch Anh
ngữ do Premethus Press xuất bản, in lần thứ
tư 1971, các trang 74-80):
Theo các bản văn
viết bằng chữ cuneiform của xứ Babylon
thuộc niên đại 1400 TCN trên những tấm
đất sét phơi khô (hiện lưu trữ tại
Bảo tàng viện Louvre ở Paris) thì thần El
được tôn thờ bởi các sắc dân Canaanites và
Semites. El cũng được coi là vua
của các dòng sông (king of rivers) là thần mặt trời
(the Sun God) và cũng là Thiên Chúa Tối cao (the Supreme God).
Các giống dân
Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng
của một con bò đực. Đối với họ,
con bò đực là biểu tượng của sức mạnh . Cũng vì vậy,
mỗi khi nói đến thần El họ thường
gọi Ngài là Bò Thần El (Bull-El).
6. The Encyclopedia of Middle
Eastern Mythology and Religion (Bách khoa Tự điển về
Huyền thoại và Tôn giáo vùng Trung Đông, của Jan
Knappert, element 1993). Tác giả là một
người Ả rập rất rành về các ngôn ngữ
Ả rập, trong đó có ngôn ngữ Sumerian là ngôn ngữ
chính của xứ
Babylon vào thời cổ xưa
cách đây nhiều ngàn năm.
Theo sự nghiên
cứu của tác giả, tên của xứ
Babylon cũng do tên của thần El mà ra. El là
danh từ theo tiếng Hebrew.
Người Ả rập gọi El là Il.
Khi đổi ra số nhiều Il thành
Ilun. Người xứ
Babylon rất tự hào về
đất nước của họ và họ tự coi
đất nước của họ là “cái cổng của
Thiên Chúa”. Theo
ngôn ngữ Sumerian thì “Bab” là cổng và “Ilun” là Thiên Chúa.
Ghép hai chữ này lại sẽ thành “Babilun”,
về sau người ta đọc trại đi thành
Babylon.
Như vậy, chữ
Babylon có nghĩa là “cái cổng của
nhà Chúa” (Gate of God).
Tại
các thành phố thuộc xứ Babylon người ta
thường làm lễ tế thần El với những
lời ca tụng ngài là “Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò” (The
Bull-God). Theo niềm tin
của người Babylon, thần El là vị chủ
tọa các hội đồng thần thánh ở trên
trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ
vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con
người.
7. Near Eastern Mythology
(Huyền thọai vùng Cận Đông, tác giả John Bray, nxb
Peter Bedrick Book NY 1985, các trang 68-69):
El là
vị thần chính yếu được tôn thờ
tại vùng Lưỡng Hà Châu. Theo các huyền thoại của vùng
Canaan
(giữa sông Jordan và Địa Trung Hải) thì thần El là một con
bò đực (Bull) có sức mạnh vô song và sức sáng
tạo vô bờ bến. Vì vậy, thần El
là “đấng Tạo hóa của mọi vật thụ
tạo” (Creator of all created things).
Như trên đã trình
bày là Mai-sen ra lệnh cấm thờ thần El vào năm
1250 TCN nhưng đến thế kỷ 10 và 9 TCN, các vua và
dân Do thái vẫn tiếp tục thờ thần El với
hình tượng bò vàng (1 King 12:28).
Trong cuốn sách này,
tác giả cung cấp cho chúng ta thêm một chi tiết là
đến thế kỷ 6 TCN, tức 700 năm sau khi Mai-sen
ra lệnh cấm gọi tên thần El, vị tiên tri
rất nổi tiếng của Do thái là Ezekiel đã cầu
nguyện Thiên Chúa bằng tên El. Lời cầu nguyện
như sau:
“Lời
của Ngài, ôi Thiên Chúa El, là khôn ngoan. Ngài là đấng khôn ngoan muôn
đời”
(Thy word, oh El, is wise
Thou art eternally wise,
Ezekiel 28:2-10)
Những điều
ghi chép rành rành trong các sách Genesis, Exodus, Kings và Ezekiel (trong
bộ Thánh kinh Cựu ước) đã chứng tỏ
rằng: Dù trước Mai-sen (từ 2000-1250 TCN) hay sau
Mai-sen (từ 1250 TCN đến Ezekiel thuộc thế
kỷ 6 TCN) đạo Do thái vẫn giữ nguyên bản
chất của đạo thờ bò El với hình
tượng bò vàng.
8. New Catholic Encyclopedia
(Tân Tự điển Bách khoa Công giáo la mã). Đây là bộ
tự điển bách khoa vĩ đại
gồm 17 tập, ấn bản mới nhất in năm
1981. Thần bò El được trình bày rõ ràng nơi trang
136 của tập 5 như sau: “El là danh hiệu lâu
đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng
Thế ký (sách
đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước)
28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với
Elohin và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo
tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ
Ilu theo ngôn ngữ cổ ở
Babylon là Akkadian. Tất cả đều do
căn ngữ Semistic “Yl”, có nghĩa là “hùng mạnh”. Trong các
đền thờ của người Phoenicians, thần El
được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao,
Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên
đàng” (xem tập 5, trang 136)
9. A Muslim Primer, tác
giả Ira Jeff là
một học giả Ả rập Hồi giáo, sách này do
Thư viện Quốc hội Mỹ xuất bản, in
lần thứ hai năm 1992.
Theo tác giả, cả
ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi đều có chung
một ông tổ là Abraham và đều có chung nguồn
gốc về tên gọi Thiên Chúa (sách đã dẫn, trang
31-32).
Tác giả đã dùng
Từ Nguyên học (Etymology) và Ngôn ngữ học (Linguistics)
để chứng minh rằng: Dù cho tên gọi Thiên Chúa
của các đạo độc thần bề ngoài khác
nhau: Elohim, Jehovah, Allah nhưng tất cả đều
bắt nguồn từ thần EL mà ra.
Các âm I
trong tiếng Ả rập biến thành âm E trong tiếng
Hebrew (Do thái).
Thí dụ: Ismail = Ismael
(Hebrew, con của Abraham); Gabril = Gabriel (thiên thần
truyền tin); Mikail =
Michael (tổng lãnh thiên thần); Il = El (Bò
thần).
Trong ngôn ngữ Arabic,
người ta không gọi Thiên
Chúa
IL (tức El) một cách trống không mà
thường thêm mạo tự ‘ah’ ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên
Chúa
Il trở thành Illah (Il + article ‘ah’).
Về ngôn ngữ
học, các âm I trong tiếng Arabic khi chuyển sang tiếng
Anh hoặc Pháp đều đổi thành A. Thí dụ tên
của ông tổ các đạo độc thần trong ngôn
ngữ Arabic là Ibrahim, khi chuyển sang tiếng Anh hay Pháp
đã trở thành Abraham. Do những biến chuyển
của ngôn ngữ, thần bò Il của
babylon đã thành Thiên Chúa Elohim và Jehovah của
đạo Do thái, tức Chúa Cha của đạo Ki tô.
Cũng do biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il thành Illah trong tiếng Arabic và Allah trong ngôn
ngữ Tây phương.
Tác giả viết:
“Tên gọi Thiên Chúa là Allah có căn ngữ theo
từ-nguyên-học bắt nguồn từ
Babylon. Chính cái căn ngữ này đã nối
kết cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi. Căn cứ Il của Babylon đã trở thành El / Elohim trong tiếng
Hebrew. Những người Ki tô giáo
đầu tiên đã gọi Jesus là Emmanu-El có nghĩa là
“Thiên Chúa El ở cùng chúng ta”. El trong tiếng Arabic luôn
đi theo với mạo tự “ah” trở thành Il-ah và
cuối cùng khi chuyển sang Anh ngữ đã trở thành
ALLAH!”.
(sách
đã dẫn, trang 32)
10. Islam của
tiến sĩ Ceasar Farrah, giáo sư môn Hồi giáo học
tại Đại học Minnesota. Tác phẩm
được tái bản lần thứ 6 trong năm 2000.
Tác giả là người Ả rập Hồi
giáo. Điều đặc biệt tác
giả nhấn mạnh trong tác phẩm của ông là bác bỏ
quan niệm sai lầm cho rằng Hồi giáo Ả rập
đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa của Do thái
giáo và Ki tô giáo (Islam, trang 28).
Tác giả chứng
minh ngược lại là chính Do thái giáo và Ki tô giáo đã vay
mượn ý niệm về Thiên Chúa do sự biến
thể của “Allah” là El (Il) Thiên Chúa
của đa thần giáo Ả rập. Tác giả viết:
“Il-ah hoặc Allah là Thiên Chúa tối cao của bán
đảo Ả rập Đa thần giáo. Đối
với những người Babylon thì Ngài là Il và sau đó
Ngài được biết đến bởi người
Do thái với tên của Ngài là El. Những người
ở miền Nam bán đảo Ả rập tôn thờ Ngài
dưới danh hiệu Illah và người Bedouins lại
gọi ngài là Allah. Quan niệm Thiên Chúa của Do thái giáo và
Ki tô giáo đã phát sinh từ sự biến dạng của
Allah (Il / El) tức Thiên Chúa của
tất cả các đạo Độc thần. (Islam, trang
28)
Muhammad và các tín
đồ Hồi giáo chấp nhận danh từ Allah
để gọi Thiên Chúa, mặc dầu danh từ này là
biến thể của tên gọi Bò Thần El, nhưng
người Hồi giáo không bao giờ nghĩ rằng Thiên
Chúa đã hiện thân thành một con bò đực. Trái
lại, lịch sử và các sách Thánh kinh Cựu ước
đã chứng tỏ Do thái đã thờ Thiên Chúa
dưới hình tượng một con bò bằng vàng từ
thời Abraham (2000 TCN) cho đến thời các vua David,
Solomon (thế kỷ 10 TCN) và vua Jeroboam I (thế kỷ 9
TCN). Cũng có thể đạo thờ bò El
đã kéo dài đến đời tiên tri Ezekiel vào thế
kỷ 6 TCN. Như vậy, đạo thờ bò El
đã tồn tại ở Do thái trong một thời gian
rất dài, từ 1000 đến 1400 năm!
Đây chính là lý do
khiến cho Muhammad đã chê trách dân tộc Do thái trong kinh
Koran như sau: “Những tín
đồ của các sách Kinh thánh - tức dân Do thái – đòi
hỏi anh phải đưa cho họ một cuốn sách
mang từ trên trời xuống, nhưng rồi họ
đã tôn thờ con bò vàng thay vì thờ Thiên Chúa.” (Kinh Koran
4:153)
Lịch sử Do thái
ghi nhận: Trong Vương quốc
Judah là một vương quốc bao gồm
lãnh thổ Do thái và những vùng khác từ Biển Chết
đến Địa Trung hải (931-586 TCN) rất
thịnh hành đạo thờ thần Molech. Đây
là một biến thể của đạo thờ bò vì
tượng thần có thân hình người nhưng
đầu của vị thần là đầu bò.
Mỗi khi tế lễ thần Molech, nhưng vật hy sinh
để dâng lễ luôn luôn là những đứa bé sơ sinh vô tội. Đứa bé
được đặt vào hai bàn tay
của thần bằng kim loại đã được
đun nóng từ bên trong. Đứa bé và cha mẹ nó la thét
thảm thiết nhưng tất cả đều bị át
đi bởi những tiếng kèn, trống và phèn la khua lên inh ỏi.
Sau khi thịt của
đứa bé đã bị nướng chín trên hai bàn tay của thần (thực chất là hai cái
chảo bằng kim loại) các tu sĩ và giáo dân chia nhau
ăn thịt người giống như các tu sĩ và tín
đồ Công giáo ăn bánh thánh ở nhà thờ ngày nay.
Như
chúng ta đã biết, bó thần El chính là Thiên Chúa Elohim
hoặc Jehovah của đạo Do thái. Jesus luôn luôn gọi Thiên
Chúa Jehovah của đạo Do thái là CHA. Jesus
dạy các môn đệ đọc kinh cầu nguyện
Jehovah bằng kinh “Lạy Cha”.
Trước khi
chết trên thập giá, Jesus đã than trách jehovah: “Cha ơi,
sao cha bỏ con!”. Chính vì Jesus xác nhận jehovah là Cha nên con bò đực El đã
trở thành Đức Chúa Cha của đạo Ki tô (bao
gồm Công giáo, Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin
lành). Mặc dầu các đạo thờ Chúa
đều là những biến dạng của đạo
thờ bò, nhưng Công giáo La mã đã thừa kế
nhiều nhất những quan niệm và nghi lễ dã man
của đạo này. Vì vậy, Công giáo La mã rất
xứng đáng được tuyên xưng là “Đạo
Thờ Bò Cải Biến” tiêu biểu trong thời
đại hiện nay.
Chúng ta hãy xét một
số đặc điểm của đạo thờ bò
El đã được tiếp nối bởi đạo
Công giáo La mã dưới những hình thức sau đây:
1. Quan niệm Thiên Chúa
là giống đực:
Đạo
thờ bò El phát sinh từ nên văn hóa du mục của
giống người Semites, bao gồm Do thái và các bộ
tộc Ả rập. Từ nhiều ngàn năm trước cho
đến ngày nay, phần đông giống người
Semites sinh sống bằng nghề du mục. Nghề
này đòi hỏi con người phải có sức khỏe
và lòng can đảm mới đủ sức chống
chọi với thời tiết khắc nghiệt ở sa mạc và
đủ loại thú dữ để bảo vệ
đàn gia súc của mình. Do đó, chỉ có những thanh
niên khỏe mạnh và dũng cảm mới có thể
đảm nhiệm công việc. Hình ảnh con bò
đực (bull) đã được dân du mục chọn
lựa làm biểu tượng cho sức mạnh của
nam giới. Về sau, mỗi khi nghĩ đến Thiên
Chúa, họ cũng hình dung Thiên Chúa là một vị đàn
ông, chỉ khác một điều Ngài là một
“Đấng đàn ông Toàn năng” (the Male Almighty). Vì
vậy, trong các sách Kinh thánh Cựu ước cũng
như Tân ước, mỗi khi nói đến Thiên Chúa, các
tác giả Thánh kinh đều xử dụng các từ
ngữ giống đực (grammatically masculin) như : He, His,
Him .... kế thừa tinh thần tôn
trọng giống Đực của nền văn hóa du
mục Ả rập, con bò El đã biến thành Đức
Chúa Cha của đạo Ki tô. Người Ki tô giáo chỉ
nói tới Đức Chúa Cha (Father God) chứ không bao
giờ nói tới một vị Thiên Chúa nào được
gọi là “Đức Chúa Mẹ” .
2. Quan niệm Thiên Chúa
dạy dỗ loài người bằng lời nói:
Người
du mục Semites, quan niệm thần El thường dạy
dỗ loài người bằng cách hiện ra trên núi đá,
trong bụi rậm hoặc trong đống lửa và từ
đó ngài phán điều này điều nọ để
dạy dỗ loài người. Những cuốn sách đầu tiên
của bộ Thánh kinh Cựu ước là những sách ghi
chép những lởi nói được gán cho là của
thần El, tức Thiên Chúa Elohim. Những cuốn sách
được viết sau đó đổi tên Thiên Chúa
Elohim thành Jehovah; nhưng dù Thiên Chúa mang tên gì chăng nữa
thì tất cả những điều được
viết trong Thánh kinh cũng đều được coi
là “những lời của Chúa” (Words of God). Khi đã tin
những điều trong Kinh thánh lời “lời Chúa”,
hầu hết các tín đồ đều cúi đầu
vâng phục tin theo mà không cần phân biệt phái trái đúng
sai. Đó là niềm tin mù quáng không cần lý
trí. Trong thực tế, tất cả các
sách Cựu ước hoặc Tân ước đều là
sản phẩm của con người. Tất cả
những điều được viết trong đó
đều là “lời của người” (words of man). Chẳng có một lời nào là lời của Chúa
thật mà chỉ là những lời người gán cho Chúa
mà thôi. Bọn tu sĩ lưu manh đã
xử dụng “Lời Chúa” giả tạo để
biến nó thành một sức mạnh thần bí nhằm
buộc tập thể tín đồ phải thực
hiện những ý đồ đen tối của chúng.
Mặt khác, bọn tu sĩ lưu manh cho rằng Kinh thánh
của chúng là Lời Chúa, lời của Đấng
Tối Cao, cho nên Kinh thánh là chân lý tuyệt đối,
bất di bất dịch. Ai chống lại Kinh thánh
của chúng đều bị chúng gán cho tội “rối
đạo”, “dị giáo” (heretics) để có cớ
đưa người đó lên dàn hỏa! Trong thời Trung cổ, ít
nhất đã có 10 triệu người bị thiêu sống
ở Âu châu vì đã dám cãi lại “Lời Chúa” của Công
giáo La mã!
3. Quan niệm Thiên Chúa
khát máu như ma-cà-rồng (Catholic = Vampiric God)
Trong
mỗi xã hội, phương cách thờ cúng luôn luôn
phản ảnh những nét đặc thù của nền
văn hóa thuộc về xã hội đó. Chẳng hạn, như xã hội
Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn chủ
yếu sinh sống bằng nghề trồng lúa và hoa màu, khi
thờ cúng tổ tiên hoặc Thần, Phật,
người Việt thường dâng lên bàn thờ
những sản phẩm nông nghiệp như hoa, nhang, trái
cây, oản xôi hay các thứ bánh làm bằng lúa gạo....
Trong lịch sử Việt
Nam, chúng ta chưa bao giờ nghe nói
đến những thói tục dã man giết người
để tế thần như đã xảy ra trong
nhiều ngàn năm tại các xứ Trung Đông.
Điều đó chứng tỏ hùng hồn rằng:
Nền văn hóa nông nghiệp lâu đời của dân
tộc Việt Nam rất phù hợp với tính hiếu
sinh của đạo Phật. Cả hai yếu tố này
đã un đúc nên bản chất nhân ái
và hiếu hòa của dân tộc Việt
Nam. Nói cách khác, tinh thần
nhân ái hiếu hòa là dân tộc tính của người
Việt chúng ta.
Trái lại, từ
nhiều ngàn năm qua, các dân tộc Do thái - Ả rập
chủ yếu sinh sống bằng nghề du mục.
Họ nuôi đủ loại súc vật với mục
đích để ăn thịt, giết
sinh vật là công việc hằng ngày của họ. Họ trở thành những gnười quá quen
thuộc với sự đổ máu và không còn cảm
thấy xót thương trước sự đau
đớn cùng cực của các sinh vật bị giết.
Thiên Chúa hoặc các vị thần linh của giống
người Do thái - Ả rập luôn luôn phản ảnh cái
tâm linh hiếu sát của chính họ. Phương
cách thờ cúng của người Semites phản ảnh
nếp sống văn hóa du mục của họ. Từ nhiều ngàn năm trước Công nguyên cho
đến ngày nay, mọi nghi lễ thờ cúng Thiên Chúa luôn
luôn phải có máu. Điều đó
đủ chứng tỏ đạo Chúa là một thứ
văn hóa phi nhân bản. Do ảnh hưởng của
nền văn hóa du mục và các giáo điều cuồng tín
của đạo Chúa (thực chất là đạo
thờ bò cải biến), các tín đồ Công giáo dần
dần bị tiêm nhiễm tính hiếu sát, hiếu
thắng, xa rời dân tộc và rất dễ dàng phạm
tội phản bội tổ quốc. Vì
một khi đã đánh mất dân tộc tính, người
Công giáo đã mất đi chất keo gắn bó với dân
tộc. Bản tính hiếu sát và khát máu của Thiên
Chúa Jehovah (tức Đức Chúa Cha của đạo Ki tô)
đã được xác định trong nhiều sách
của bộ Kinh thánh Cựu ước và Tân ước:
- Levitica 17:11 (Cựu ước) và Hebrew
9:22 (Tân ước) đều ghi: “Sự
đổ máu là điều bắt buộc để
được tha tội” (Shedding of blood is required to be
forgiven of sins).
- Từ thời
Abraham, qua thời Moses cho đến nhiều thế kỷ
về sau, người Do thái luôn luôn tế lễ Thiên Chúa
Jehovah bằng máu sinh vật. Việc giết
sinh vật để thờ Chúa là điều bắt
bắt buộc trong luật Torah của Moses. Sinh vật bị giết để lấy máu
rưới lên bàn thờ, thịt của chúng bị
đốt để tạo “mùi hương dịu dàng dâng
lên Thiên Chúa” (Sweet scent to God – Exodus 29:18, Leviticus 1:9).
Theo “Tự
điển về Kinh thánh” (Bible Dictionary của tập
thể 193 tác giả thuộc mọi tôn giáo, nhà Harper Collins
xuất bản lần đầu 1946, tái bản 1971, trang
694) : Dân Do thái thờ thần Molech đầu bò trong
những năm từ 735 đến 575 TCN. Mỗi khi làm lễ
tế thần ở thung lũng Hinnon thuộc ngoại ô
Jerusalem họ luôn luôn giết trẻ con rồi
xe thịt đem nướng chín
để làm món ăn tế thần. Tục lệ tế
thần bằng thịt con nít được mô tả trong
nhiều sách Kinh thánh Cựu ước như Deut. 12:31,
Kings 16:3, Jer. 7:31, Ezek.
16:21
và Chron. 28:8.
Thần
El cũng như thần Molech đều là những vị
thần có hình tượng đầu bò và đều là
những vị thần khát máu. Thiên Chúa Jehovah, tức Chúa Cha của đạo Công
giáo, là hậu thân của các ác thần nói trên nên Thiên Chúa Cha
cũng giữ nguyên cái bản chất khát máu như
vậy.
Người Công giáo
thường đọc kinh ca ngợi Jesus là Con của
Thiên Chúa (Son of God) và ca ngợi Jesus là đấng lòng lành vô
cùng (Merciful God) nhưng thực ra Jehovah chẳng bao giờ
coi Jesus là Con mà chỉ coi Jesus như một thứ ‘súc
vật’ bị giết để làm một món barbecue mà
thôi. Chính người Công giáo đã vô tình
thừa nhận điều này trong lời kinh cầu
nguyện của họ. Trong các lễ Misa, các tín
đồ Công giáo thường đọc câu kinh bề
ngoài có vẻ ca tụng Jesus nhưng thực ra là hạ
nhục ông ta : “Lạy Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian...”. Hiển
nhiên một điều là Jesus tuyệt đối không có
khả năng xóa tội cho bất cứ một ai trên
đời này, nhưng câu kinh đó đã xác nhận Jesus
chỉ là một thứ ‘súc vật’ để tế
thần. Dù là một con chiên thường hay là “Chiên
Thiên Chúa” (Lamb of God) thì cũng chỉ là Con của Chúa Cha
Jehovah thì Chúa Cha là một thứ ma-cà-rồng hoặc
một thứ ác quỉ. Nếu Jehovah không phải là
một thứ ác quỉ hay ma-cà-rồng thì tại sao nó
lại ăn thịt con trai nó là Jesus?
4. Nghi lễ tại
các nhà thờ Công giáo là nghi lễ của những bộ
lạc ăn thịt người.
Tôi đã
trình bày vấn đề này dưới tiêu đề
“Nguồn gốc huyền thoại Ki tô” (Chương
Một, phần II trong Công giáo - huyền thoại và tội
ác, GĐ xuất bản Hè 2001). Do đó, tôi chỉ xin trình bày lại rất vắn
tắt ở đây mà thôi.
Một
trong những cuốn sách nghiên cứu dầy công về
đạo Công giáo là cuốn Babylon Mystery Religion của
Hội nghiên cứu Thánh kinh Raph Woodrow ỏ
California. Hội này đã cho
xuất bản và phát hành tới 600.000 bản in sách nói trên.
Trọn chương 7, từ trang 115 đến 126, tác
giả chứng minh nghi lễ của đạo Công giáo
hầu như đã bắt chước trọn vẹn
những nghi lễ của các đạo thờ bò của
xứ Babylon thuở xưa. Một trong những nghi lễ
dã man nhất là tế thần bằng các trinh nữ
hoặc các bé trai đầu lòng. Các nạn nhân đều
bị giết và bị nướng chín (burnt offerings)
để dâng lễ tế thần rồi sau đó các tu
sĩ và tín đồ chia nhau ăn
thịt nạn nhân.
Trong nghi lễ ở
nhà thờ Công giáo, các linh mục và giáo dân chia nhau ăn bánh thánh và uống rượu nho mà
họ tin rằng đó là thịt thật và máu thật
của Jesus. Dù chỉ là ăn thịt uống máu
người tưởng tượng một cách ngây ngô ngớ
ngẩn như vậy nhưng những hành vi ấy cũng
đủ cho ta thấy tâm hồn của những
gnười Công giáo là tâm hồn của những kẻ bán
khai, vì chỉ những kẻ bán khai mọi rợ mới
ham thích ăn thịt uống máu người như vậy
mà thôi.
Cái
gọi là “Phép Bí-tích Mình Thánh Chúa” là một dấu ấn
đậm nét chứng tỏ Công giáo là một thứ
đạo thờ thần bò Molech trong thời hiện
đại.
Tấp thể giáo dân
Công giáo chẳng khác gì một bộ lạc của
giống mọi ăn thịt người sống lạc
lõng trong xã hội văn minh của loài người chúng ta.
Để giúp cho 7% đồng bào của chúng ta thoát
khỏi vùng bóng tối tâm linh (spriritual darkness) chúng ta
cần phải gia tăng công tác giáo dục. Một trong
những điều quan trọng của sự giáo dục
là cần phải vạch rõ cho họ thấy rằng: Công
giáo không phải là một ôn giáo cao quí đáng hãnh diện,
cũng chẳng phải là “Đạo Thánh của
Đức Chúa Trời” như họ lầm tưởng,
Công giáo chỉ là hậu thân của đạo thờ bò
cải biến còn tồn tại trong thời đại
hiện nay.
Bất
cứ ai không đồng ý với những điều trên
đây thì xin cứ việc thẳng thắn lên tiếng
phản bác. Từ mấy
năm qua đến nay tôi vẫn mong đợi sự lên
tiếng của quí vị tu sĩ cao cấp trong Hội
đồng Giám mục, các vị tiến sĩ thần học
uyên bác và nhất là những vị trí thức Công giáo đã
từng nổi tiếng sừng sỏ trong nhiều năm
qua, nhưng tôi chỉ được đáp lại bằng
sự im lặng khó hiểu. Tôi mong rằng qúi vị hãy
cố gắng vận dụng trí não để sớm
nhận ra sự thật và dù sự thật làm cho quí
vị đau lòng chăng nữa thì quí vị hãy can
đảm nhìn nhận nó, bởi vì không có tôn giáo nào có
thể cao hơn sự thật.