Vai trò của chính quyền trong mối tương quan Công giáo - Dân tộc
Charlie Nguyễn
Trước
khi đề cập vai trò của chính quyền trong mối
tương quan thường xuyên xung đột giữa
Công giáo và Dân tộc, chúng tôi xin nêu lên bằng chứng
về những thảm họa gây ra cho xã hội do
những đầu óc mê muội cuồng tín tôn giáo,
truyền thống phản quốc của những
người Công giáo đầy rẫy trong lịch sử
thế giới cũng như trong lịch sử Việt
Nam. Chúng tôi cũng xin nêu lên một số đề
nghị để gởi đến Giáo hội Công giáo
Việt Nam và sau này là những đề nghị của
chúng tôi gởi đến chính quyền Việt Nam, nhất
là quí vị có thẩm quyền trong nhành Lập pháp và Tư
pháp, trong hiện tại cũng như trong tương lai.
I. Khởi
đầu từ một nhận thức:
Thảm họa đáng sợ nhất là
sự cuồng tín tôn giáo vì những kẻ cuồng tín
phạm tội ác không bao giơ biết hối hận.
Quê cha đất tổ của tôi là làng Ninh
Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
Định. Năm 1533, do một sự tình cờ nào đó
đã đưa dẩy con thuyền chở giáo sĩ Tây Ban
Nha Ignatio cập bến đò Ninh Cơ ở làng tôi. Sự
tình cờ lịch sử này đã xui khiến các vị
nội tổ của tôi trở thành những người
Việt Nam
đầu tiên theo đạo Công giáo và Ninh Cường quê
tôi trở thành cái nôi của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Trải qua hơn ba thế kỷ cấm đạo
của các triều đại Lê, Trịnh, Nguyễn và các
Phong trào Văn Thân, Cần Vương, hàng trăm ngàn giáo
dân đã bị giết vì đạo, tất nhiên trong
số đó có nhiều vị tổ tiên của tôi. Ông bà
cha mẹ tôi rất hãnh diện về sự theo
đạo “thâm căn cố đế” của dòng tộc
và càng hãnh diện hơn nữa về các thánh tổ tiên
tử đạo. Riêng tôi, tôi không cảm thấy hãnh
diện về những điều đó mà chỉ thấy
đau xót vì tổ tiên tôi đã phải chết uổng
mạng cho một thứ tà đạo của ngoại
bang.
Từ hậu bán thế kỷ 19, đạo
Công giáo tại Việt Nam
thoát khỏi sự bách hại của triều đình và
của các phong trào Văn Thân, Cần Vương.... Song song
với sự đô hộ của thực dân mau chóng phát
triển lớn mạnh như diều gặp gió. Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 oai hùng lẫm liệt
đã vĩnh viễn chấm dứt ách đô hộ
của thực dân Pháp. Trong khi chiến thắng
Điện Biên là niềm vui lớn và là niềm tự hào
vô hạn của mọi người Việt Nam yêu
nước thì “biến cố Điện Biên” lại làm
cho những người Công giáo lo sợ và đau khổ
ghê gớm.
Lý do là vì những người Công giáo đã
xin quân đội viễn chinh Pháp võ trang để thành
lập những khu tự trị. Khởi đầu là khu
tự trị Công giáo Phát Diệm từ đầu năm
1947, Bùi Chu từ 1948 và Thái Bình từ 1949. Từ các căn
cứ của khu tự trị, người Công giáo đã
mang súng đạn đi cướp phá những làng bên
lương sát hại nhiều lương dân chỉ vì
những lương dân này tỏ ý bất mãn với
truyền thống phản quốc thân Tây của
đại đa số người Công giáo.
Do được chứng kiến tận
mắt những hành vi tra tấn thô bạo của các
“vệ sĩ công giáo” đối với những tù nhân do
họ lùng bắt từ các làng bên lương lân cận và
nhất là được chứng kiến tận mắt
những cái chết thê thảm của một số
những người đó, những kỷ niệm này
đã trở thành những ấn tượng hãi hùng,
hoặc nói đúng hơn là những vết sẹo in
hằn lên ký ức và tâm hồn tôi.
Nhưng có một điều khiến cho tôi
phải kinh ngạc khi thấy quí vị linh mục, thày
giảng và các vệ sĩ Công giáo vẫn hoàn toàn thản
nhiên sau khi phạm các tội sát nhân. Trong các buổi lễ
Misa hoặc trong các giờ cầu nguyện, họ
đều tỏ ra là những người thánh thiện
đạo đức như chưa từng phạm
tội ác bao giờ! Có lẽ đối với họ
những kẻ chống đạo Công giáo dưới hình
thức này hay hình thức khác đều là những “kẻ
thù của giáo hội” hoặc là những “kẻ thù của
Thiên Chúa”. Tất cả những kẻ này cần phải
bị tiêu diệt để làm đẹp lòng Chúa, cho nên
khi người Công giáo giết hại những
người mà họ coi là “kẻ thù của Thiên Chúa”
họ đều không cảm thấy mình đã phạm
tội sát nhân!
Vào cuối thập niên 1940, cha tôi sáng tác
một số bài thơ ca ngợi Thiên Chúa và Đức
Mẹ. Hồi còn nhỏ tôi thuộc lòng các bài thơ này.
Tời nay tôi đã quên hết và chỉ còn nhớ vài câu vì
những câu này đã ám ảnh tôi:
“Vô thần: hạt giống Sa tăng
Cứng lòng không chịu ăn năn trở
về...”
Đối với cha tôi, mọi người
ngoại đạo đều là những kẻ vô
thần. Cộng sản cũng như Phật giáo
đều là vô thần. Tất cả con cái là của
quỉ Sa tăng! Những kẻ không chịu “trở
lại đạo” đều là những kẻ cố
chấp (cứng lòng) nên đã không nhận ra cái tội
“ngoại đạo” của mình đẻ mà ăn năn
hối cải và “trở lại đạo” ! Khi nói lên điều này tôi không có ý oán trách
cha tôi, tôi chỉ cảm thấy thương cha tôi mà thôi.
Nhưng càng thương cha bao nhiêu, tôi càng căm ghét cái
đạo phi nhân bấy nhiêu, vì nó đã làm u tối linh
hồn các tín đồ của nó đến nỗi
những kẻ làm điều ác rành rành mà vẫn không biết
mình là kẻ ác.
Theo thường tình thì hầu hết
mọi kẻ phạm tội ác đều biết hối
hận sau khi tâm hồn lắng xuống. Nhưng
điều nguy hiểm là những kẻ cuồng tín tôn
giáo phạm tội ác đều không biết hối
hận vì chính họ không nhận ra tội ác của
họ. Họ bi che mờ tâm trí bời những
định kiến tôn giáo sai lầm . Do đó, sự
cuồng tín mới đích thực là một tội ác nguy
hiểm và đáng sợ nhất vì kẻ cuồng tín không
biết hối hận.
Không riêng gì trường hợp Công giáo
Việt Nam
mà cả lịch sử gần 2000 năm của
đạo Ki-tô cũng đã chứng minh điều
đó. Chúng ta ai cũng biết đạo Ki-tô xuất thân
từ đạo Do thái mà ra. Nhưng những người
Ki-tô giáo lại muốn xóa bỏ cái gốc Do thái của
mình. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc La
mã đã nâng Ki-tô giáo lên thành quốc giáo. Kẻ bị chúng
giết là Jesus được chúng nâng lên thành Thiên Chúa.
Bọn đế quốc La mã đã nham hiểm đổ
tội giết Chúa Jesus cho Do thái vì bọn chúng không thể
tôn thờ một người do chúng đã giết. Vì
thế nên từ cuối thế kỷ thứ 4 đến
giữa thế kỷ 20, người Do thái tại các
nươc Âu Châu theo Ki-tô giáo, nhất là Công giáo La mã đã
bị kỳ thị, bị ngược đãi và bị
giết hại lên tới nhiều triệu người.
Điều hiển nhiên là suốt trong 16 thế kỷ,
người Công giáo Âu Châu đã trải qua hết
đời này sang đời khác mà không có ai tỏ ra
hối hận về tội ác diệt chủng Do thái
cả. Điều đó chứng tỏ sự cuồng tín
tôn giáo đã làm họ mờ mắt nên họ đã không
nhận thấy sự diệt chủng Do thái là một
tội ác tày trời.
Phải đợi đến năm 1960,
những người Do thái đã tổ chức cho Giáo hoàng
Gioan XXIII đi thăm các trại tập trung và các lò
hỏa thiêu người Do thái trong Thế Chiến II
tại Auschwitz, Dachau
và Ravensbrunch. Tại các nơi này, Giáo hoàng Gioan XXIII đã
được tận mắt nhìn thấy những
chứng tích tội ác diệt chủng Do thái của
Đức Quốc Xã với sự tiếp tay của Giáo
hội Công giáo. Sau khi được xem cuốn phim tài
liệu về một trại tập trung được
quân đội Đồng Minh giải thoát, giáo hoàng nhìn
thấy một đoàn người Do thái gồm có đàn
ông, đàn bà và trẻ em từ trong các nhà giam bước
ra. Tất cả đều trần truồng và gầy
trơ xương. Giáo hoàng Gioan XXIII bất chợt kêu lên:
“Ôi lạy Chúa! Đây mới thực là hình ảnh của
Chúa trên thập giá!”. Sau đó, giáo hoàng đã quì xuống
cầu nguyện như sau : “Lạy Chúa, dấu ấn
của Cain in trên trán chúng con. Qua bao nhiêu thế kỷ,
người anh em Abel của chúng con đã chết trên
vũng máu do chúng con làm tuôn chảy vì chúng con làm tuôn chảy
vì chúng con đã nguyền rủa sai lầm những
người anh em Do thái. Xin Chúa tha tội chúng con vì chúng con
không biết việc chúng con làm.”
(The mark of Cain is stamped on our foreheads. Acrosss the
centuries, our brother Abel has lain in blodd which we drew and shed tears we
caused by forgetting thy love. Forgive us, Lord, for the curve we falsely
attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying Theee a second time
in their flesh, for We Knew Not What We Did (Vicar of Christ by Peter de Rosa,
trang 6).
Qua lời cầu nguyện trên, Giáo hoàng Gioan
XXIII đã công nhận tội ác diệt chủng Do thái qua
nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo. Giáo hoàng
cũng thú nhận nguyên nhân chính yếu khiến cho Giáo
hội Công giáo phạm tội ác qua nhiều thế kỷ
là do lòng cuồng tín khiến cho họ không biết mình làm
tội ác (We knew not what we did).
Chính vì không nhận thức được
tội ác trong các hành động của mình nên những
người cuồng tín không biết hối hận. Do
đó, các hành vi tội ác của họ vẫn cứ
tiếp diễn và gây ra nhiều thảm họa trong xã
hội. Từ sự nhận định này tôi bắt
đầu dấn thân vào cuộc chiến đấu
chống hiểm họa cuồng tín tôn giáo và chống
lại truyền thống phản quốc của Giáo
hội Công giáo Việt Nam.
II. Người
Công giáo không thể giữ mãi “bản chất hai mặt”
Người Công giáo không thể cùng một
lúc vừa trung thành với Vatican,
vừa trung thành với tổ quốc. Bất cứ ai
tuyết đối trung thành với Vatican
cũng đều đương nhiên trở thành kẻ
phản quốc. Điều này đã trở thành một
định luật.
Trền đây không phải là những
lời nói hàm hồ hoặc những điều nhận
định vô căn cứ mà thật sự là những
sự kiện hoàn toàn đúng với thực tế qua
mọi thời điểm lịch sử và ở mọi
nơi, Âu cũng như Á, ở những người
đại trí thức cũng như ở nơi những
người cao sang quyền quí.
Để dẫn chứng, chúng ta hãy
đơn cử hai trường hợp tiêu biểu
của hai nhân vật Công giáo rất nổi tiếng trong
lịch sử Ki-tô giáo Âu Châu:
A. Thomas More: “Thà phản quốc chứ không phản
Vatican!”
Thomas More sinh năm 1477 trong một gia đình
Công giáo thuộc giới quí tộc Anh ở Luân Đôn.
Năm 1501, lúc vừa 24 tuổi, Thomas More trở thành
luật sư. Nhờ có trí thông minh xuất chúng và tài hùng
biện, More mau chóng nổi tiếng khắp nước.
Đến nỗi sau đó vua Anh đã nhiều lần
cử More làm trưởng đoàn thương thuyết,
đại diện Hoàng gia Anh, để hội đàm
với các phái đoàn nước ngoài.
Năm 1524, More được bầu làm
Chủ tịch Quốc hội Anh. Năm 1529, More
được vua Anh (Lord Chancellor of England). Đây là
đỉnh cao danh vọng của mọi người Anh
không thuộc hoàng gia.
Từ năm 1530, vua Anh và nhiều nghị
sĩ thuộc Quốc hội Anh có chủ trương
đưa Giáo hội Anh quốc thoát khỏi quyền
lự của Vatican để giữ vững nền
độc lập và chủ quyền quốc gia. More lên
tiếng kịch liệt phản đối, viện
cớ rằng “Giáo hội thánh thiện Công giáo là giáo
hội hoàn vũ” nên không có luật pháp của quốc gia
nào có thể vượt qua. Sau đó, More từ chức
thủ tướng lui về nhà riêng ở miền quê
để phản đối nhà vua.
Tháng 4-1532, Quốc hội Anh bầu Thomas
Cromwell làm chủ tịch. Nhân vật Cromwell là một trí
thức cấp tiến đã cùng Quốc hội Anh mau chóng
đưa ra những nghị quyết quan trọng làm thay
đổi vận mệnh nước Anh vào cuối năm
1532:
1. Giáo hội Công giáo Anh từ nay hoàn toàn tách
rời khỏi giáo quyền Vatican.
2. Hoàng đế Anh quốc vừa là thủ
lãnh quốc gia vừa là giáo chủ của Giáo hội Công
giáo Anh.
Với những nghị quyết trên, một
tôn giáo mới đã thực sự ra đời: Đó chính
là Anh giáo (Anglicanism). Về phương diện giáo lý và nghi
lễ, Anh giáo rất tương đồng với Công
giáo La mã. Điều khác biệt quan trọng duy nhất là
Anh giáo hoàn toàn độc lập với Vatican.
Biến cố lịch sử này cho chúng ta thấy
người Anh rất sáng suốt trong việc tách rời
khỏi đế quốc thần quyền Vatican
để bảo toàn độc lập quốc gia và danh
dự dân tộc. Người dân Anh chọn con
đường Ki-tô giáo để thực sự thờ
kính Chúa và noi gương đạo đức của Chúa
chứ dứt khoát không tuân phục và làm nô lệ cho
đế quốc Vatican.
Với sự xuất hiện của Anh giáo năm 1532,
Hoàng đế và Quốc hội Anh đã thực sự
mở đường cho toàn thể giáo dân Anh trở
về với dân tộc Anh và hoàn toàn thoát khỏi những
nanh vuốt độc ác vô hình của chủ nghĩa
đế quốc tinh thần của bọn Mafia
đội lốt tôn giáo.
Vì quá cuồng tín với giáo lý Công giáo La mã,
More đã viết 7 cuốn sách chống nhà vua và quốc
hội về việc lập ra Anh giáo. More điên cuồng
kêu gọi những người Công giáo cực đoan tái
thiết lập Tòa Án Dị giáo (Insquisition) để
đưa những kẻ phản đạo lên dàn hỏa.
Lập trường ngoan cố và hủ lậu của More
chẳng được ai tán thành. Ngày 16/4/1534, More bị bắt và bị
tống giam tại Tháp Luân Đôn (Tower
of London).
Ngày 1/2/1535, Quốc hội Anh biểu
quyết đạo luật về Quyền Tối
thượng của Quốc Gia (The Act of Supremacy) xác
nhận Hoàng đế Anh quốc (chứ không phải Giáo
hoàng) có quyền tối thượng đối với
chủ quyền quốc gia và là thủ lãnh tối cao
của Quốc hội Anh (King is the supreme head of the church of
England).
Với đạo luật này, Vua Anh có
quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của Giáo
hội Anh và đặc biệt có quyền ra lệnh
giải tán tất cả các tu viện trên nước Anh.
(The disssolution of manasteries – A World History of Christianity, edited by
Adrian Hasting – Eerdmans Pub. Co. 1999, trang 253).
Tháng 6/1535, More bị đưa ra tòa xét
xử về tội Phản quốc vì đã chống
lại đạo luật về chủ quyền tối
thượng của quốc gia. Ngày 6/7/1535, More bị chém đầu tại
công trường Westminster,
London. Trước khi
bị chém đầu, More vẫn xác nhận lòng trung thành
tuyệt đối với Vatican.
Y tuyên bố:
“Công giáo là giáo hội hoàn vũ. Tôi chết
trong giáo hội và cho niềm tin vào giáo hội Công giáo thánh
thiện” (The Catholic Church is univeral. I die in and for the faith of
the Holy Catholic Church)..., “Nghị viện Anh quốc đã
vượt quá luật pháp của Giáo hội hoàn vũ”
(English Parliament overrule the law of the Universal
Church), và “Tôi chết
với tư cách là tôi trung của vua nhưng Thiên Chúa trên
hết!” (I die as the King’s true servant But God First!” (Xin đọc All Saints by Robert
Ellsberg, the Crossroad Pu. Co. 1997, trang 269-270).
Hai mươi bốn năm sau khi More bị
chém đầu, Quốc hội Anh biểu quyết
đạo luật về việc tổ chức Giáo
hội Anh thành một hệ thống tôn giáo thống
nhất trên toàn quốc (Act of Uniformity). Thậm chí các sách
kinh cũng được duyệt xét lại và mọi giáo
dân chỉ được phép đọc các bài kinh
nguyện đã được in trong một cuốn sách
kinh duy nhất là “The Book of Common Prayers” mà thôi.
Năm 1935, tức đúng 400 năm sau khi More
bị chém đầu, Giáo hoàng Pio XI phong thánh cho More.
Điều khôi hài hơn nữa là vào tháng 11 năm 2000, Giáo
hoàng John Paul II đã tôn More lên làm “Thánh Quan thầy của
các chính trị gia” (Patron of Politicians).
Đọc qua tiểu sử của Thomas
More, chúng ta cảm thấy xót xa tiếc thay cho một
người tài hoa đã bị uổng phí một
đời chỉ vì sự mê muội cuồng tín. Sự mê
muội tinh thàn đã làm cho ông ta không nhìn thầy
được bản chất của Vatican
chỉ là một tên trùm đầu sỏ của chủ
nghĩa Đế quốc Tinh thần (Spriritual Imperialism) mà
thôi.
Điều mỉa mai là với cương
vị thủ tướng Anh quốc mà Thomas More đã không
học được bài học lịch sử đen
tối của chính nước mình! Đó là vào cuối
thế kỷ 12, Vatican ra lệnh cho vua Anh
là Richard I, được mệnh danh là “Vua Richard có trái tim
sư tử” (The Lion-Heart), lãnh đạo cuộc Thập
Tự Chinh thứ Ba để tái chiếm thánh địa
Jerusalem
khỏi tay quân Hồi giáo. Vua Richard I đích thân lãnh
đạo cuộc viễn chinh bao gồm cả quân Anh,
Pháp và Đức. Đoàn quân viễn chinh đã bị quân
Hồi chận đứng tại phía Bắc thánh
địa Jerusalem. Nên vua
Richard buộc lòng phải ra lệnh cho đoàn quân viễn
chinh dừng lại tại thành phố Acre.
Trong thời gian trú đóng tại đây từ cuối
năm 1191 đến đầu năm 1192, vua Richard I
đã ra lệnh chém đầu tập thể 3000
người Hồi giáo Ả-rập. Vụ tàn sát tập
thể dã man này đã đi vào lịch sử các
nước Hồi giáo như một bằng chứng
cụ thể cho tội ác diệt chủng vì kỳ
thị tôn giáo của Giáo hội Công giáo La mã (The Cross and the
Crescent, by Malcom Billing, trang 116).
Chỉ vì sự mê muội cuồng tín và lòng
sùng bái Vatican quá đáng, vua Richard I đã
tự biến mình thành một tên tay sai hạ cấp
của Giáo hoàng La mã. Y đã đem sinh mạng của hàng
chục ngàn công dân nước mình đi viễn chinh
để phục vụ cho tham vọng của bọn
lưu manh tại Vatican.
Cũng vì cuồng tín, Richard đã phạm tội ác sát
hại 3000 thường dân Ả-rập Hồi giáo không có
vũ khí trong tay. Cuộc Thập Tự Chinh thứ Ba
(1190-1192) do vua Richard I lãnh đạo đã trở thành
một vết đen trong lịch sử Anh quốc. Thomas
More đã không học được bài học sai lầm
đó với những lời tuyên bố sặc mùi
cuồng tín : “Thiên Chúa trên hết”, “Giáo hội Công giáo là
giáo hội toàn cầu”, “Tôi chết trong và cho đức tin
vào Giáo hội Công giáo thánh thiện”!!!
Tiểu sử Thomas More là một bài học
tiêu biểu cho ta thấy: Bất cứ ai trung thành với Vatican
cũng đều tự dấn thân đi vào con
đường phản quốc. Quyền lợi của
các quốc gia luôn luôn tương phản với quyền
lợi của đế quốc Vatican, cho nên chỉ
những kẻ phản quốc mới có thể trở
thành “thánh” của Vatican mà thôi.
Vào tháng 11/2000, Giáo hoàng John Paul II vinh danh Thomas
More là “Thánh Quan thầy của các chính trị gia”! Đúng vậy, Thomas More là thánh
quan thầy của các chính trị gia vọng ngoại
phản quốc, như Trương vĩnh Ký, Nguyễn trường
Tộ, Trần Lục, Trần bá Lộc, Huyện Sĩ,
Lê hữu Từ, Hoàng Quỳnh .v.v.... Thomas More chỉ là
một kẻ đáng khinh bỉ dưới mắt các chính
trị gia yêu nước mà thôi.
B. Jan Hus : Kẻ tử thù của
Vatican
Đúng vậy, Jan Hus chính là kẻ tử thù
của Vatican,
nhưng là một “anh hùng dân tộc” (a national hero) của
Tiệp Khắc được toàn dân tôn vinh. Hus sinh năm
1369 tại xứ Bohêmia, nay là Cộng hòa Tiệp khắc
(Republic of Czech), đậu tiến sĩ triết học
tại Đại học Prague năm 1396 và được
thụ phong linh mục năm 1401. Linh mục Hus nổi
tiếng là người rất thông minh và có tài giảng
thuyết hùng biện. Năm 1402, linh mục Hus
được bổ nhiệm giữ chức Viện
trưởng Viện đại học Prague.
Ông bỏ ra nhiều thì giờ và công sức nghiên cứu
sâu sắc nhiều vấn đề của Giáo hội Công
giáo.
Vốn có bản chất nhân ái và yêu lối
sống đạo đức khổ hạnh, Hus rất
bất mãn trước cuộc sống lầm than của
đại đa số dân tiệp trong khi các tu sĩ cao
cấp của giáo hội sống xa hoa thối nát.
Vào thời đó, hầu hết các giám
mục và hồng y ở Âu Châu đều sống theo
lối vương giả như những ông hoàng. 60%
tổng số tiền thuế thu được trong
nước được trao cho giáo hội, một
phần phân phối cho các giáo phận (dioceses) và một
phần được chuyển về Vatican.
Do quá dư thừa tiền của, các giáo hoàng và các cận
thần ở Vatican đã sống hết
sức buông thả và vô đạo đức.
Với tư cách là một tu sĩ trí
thức và cũng là một công dân tha thiết yêu
nước, linh mục Hus đã đem hết tâm huyết
hô hào một cuộc cải cách giáo hội trong tác phẩm
“Bàn về Giáo hội Công giáo” (On the Church). Trong sách này, Hus
đã đưa ra những luận điểm sau đây:
- Các linh mục không có quyền tha tội ai,
chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi.
- Không một giáo hoàng nào có quyền
đưa ra những tín điều hay giáo lý mới và không
có quyền bắt buộc giáo dân phải tin vì mọi tín
điều đã có trong Thánh kinh.
- Hus kịch liệt chống lại việc
thờ ảnh tượng Chúa và các thánh vì các ảnh
tượng đều do con người tưởng tượng
bịa đặt.
- Việc đồn đãi chuyện Chúa hay
Đức Mẹ hiện ra ở nơi này nơi khác
đều là những chuyện mê tín nhảm nhí. Hus cực lực chống
đối các cuộc hành hương đến những
nơi có phép lạ và cả cuộc hành hương thánh
địa Jerusalem. Các
cuộc hành hương này đều đã biến thành các
dịch vụ thương mại làm hạ giá tính cách
thiêng liêng cao quí của tôn giáo.
- Hus cương quyết chống lại
việc nhà thờ thu tiền xin lễ của giáo dân
để cầu nguyện cho các linh hồn và chống
lại việc Tòa thánh mở ra các quày hàng bán Ơn
Đại Xá (Indulgences). Hus coi đây là những hình
thức lường gạt để bòn rút tiền
bạc của giáo dân khiến cho họ đã nghèo càng nghèo
thêm.
- Hus tố cáo toàn bộ hệ thống tu
sĩ Công giáo, từ giáo hoàng, hồng y, giám mục
đến các linh mục, đa số là những kẻ
đạo đức giả. Cuộc sống tham nhũng
và hư đốn của họ làm gương mù cho giáo
dân và làm ung thối toàn xã hội.
- Điều quan trọng hơn hết là Hus
kêu gọi giáo dân Tiệp phủ nhận quyền tối
thượng của giáo hoàng, vì quyền này xâm phạm
quyền tối thượng của quốc gia dân tộc.
Chính điều này đã làm cho Giáo hoàng John XXIII tức
giận và ra lệnh “rút phép thông công” Linh mục Jan Hus (Christian Sprituality, by Richard Wood,
Christian Classics 1996, các trang 239, 246, 270).
Theo Hus thì sự cuồng tín của giáo dân
châu Âu thời đó đã tạo cho giáo hoàng La mã một
thứ quyền tối thượng vượt lên mọi
vua chúa ở Châu Âu và vượt lên mọi luật pháp
của các quốc gia. Quyền tối thượng đó
của giáo hoàng đã đưa đến nhiều hành vi
lạm quyền đầy tội ác đẫm máu.
Điển hình là việc giáo hoàng đã ra lệnh tổ
chức hệ thống Tòa án tôn giáo Insquisition để
đưa hàng triệu người chống giáo hội lên
dàn hỏa và giáo hoàng có quyền điều động quân
lính khắp Âu Châu để lập thành các đoàn quân
viễn chinh Chữ Thập đi xâm lược các
nước Hồi giáo trong các thế kỷ 12-13. Quyền
tối thượng của giáo hoàng La mã hoàn toàn đối
nghịch với chủ quyền của các dân tộc.
Bất cứ ai có lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc, đều không thể chấp nhận việc cho
phép giáo hoàng La mã có thứ quyền tối thượng
đó.
Trong khi giữ chức Viện trưởng
Đại học Prague,
Linh mục Jan Hus trông coi một giáo đường nhỏ
gọi là Bethlehem Chapel ở sát cạnh trường
đại học. Sách “On the Church” của ông
được các độc giả Tiệp tán
thưởng nhiệt liệt. Các buổi thuyết
giảng của ông tại Bethlehem Chapel được
giới trí thức Tiệp đặc biệt chú ý.
Chẳng bao lâu sau, Jan Hus trở thành trung tâm của một
cuộc đấu tranh chống Vatican tại thủ đô
Prahue của Tiệp và các hành động của ông
được báo cáo về Rome.
Năm 1415, Jan Hus được Vatican
“mời” đến tham dự Công đồng Constance
(Council of Constance) để trình bày quan điểm. Nhưng
khi đến nơi, Jan Hus đã bị Công đồng Constance,
do Giáo hoàng John XXIII chủ tọa, kết án tử hình. Jan
Hus bị lôi ra pháp trường, bị trói vào cái cọc và
bị thiêu sống. Jan Hus không được phép nói lên
một lời nào để biện minh cho các hành
động chính đáng của ông.
Xin mở ngoặc đơn ở đây
để nói về Công đồng Constance.
Công đồng này kéo dài 4 năm (1414-1418) với 45 phiên
họp. Sau khi xử Jan Hus năm 1415, Giáo hoàng John XXIII
bị chính công đồng này truất phế và xóa tên y ra
khỏi danh sách các giáo hoàng. Do đó, vào năm 1958, Hồng
y Giuseppe Roncalli đắc cử giáo hoàng đã lấy
lại danh hiệu John XXIII. Điều đặc biệt
của Công đồng Constance là bên
cạnh các tu sĩ cao cấp còn có 1415 học giả
thường dân (Secular Scholars) tham dự.
Sau khi Công đồng Constance
cách chức Giáo hoàng John XXIII năm 1415, Giáo hoàng Gregory XII
được chọn lên thay, nhưng chỉ vài tháng sau
giáo hoàng này xin từ chứ. Một hồng y Tây Ban Nha
được bầu lên làm giáo hoàng lấy hiệu là
Benedict XIII. Chỉ hai năm sau (1417), Benedict XIII bị
truất phế và bị đưa đi đày ở Tây
Ban Nha. Công đồng Constance bầu
một hồng y khác lên ngôi giáo hoàng lấy hiệu là Martin
V năm 1417. Để tạo uy tín cho Tòa thánh Vatican,
Công đồng tuyên bố Giáo hoàng Martin V có quyền tối
thượng! (Supremacy).
Công đồng Constance cho thấy tình
trạng rối loạn trong cơ cấu chóp bu của Giáo
hội Công giáo trong thời Trung Cổ. Việc tuyên bố
“quyền tối thượng của giáo hoàng” thực
chất chỉ là một thủ đoạn chính trị
để tái lập trật tự nội bộ của
giáo hội mà thôi.
Trở lại với trường hợp
của Jan Hus : Chúng ta thấy rõ là Vatican
rất sợ ảnh hưởng của vị linh mục
trí thức yêu nước này. Vatican đã
đánh lừa bằng cách mời Jan Hus đến họp
tại Công đồng Constance rồi
bất thần bắt trói đưa ông lên dàn hỏa. Khi
hay tin này, toàn dân Tiệp bàng hoàng và bất mãn cực
độ. Những người Tiệp và Hun-ga-ri ồ
ạt bỏ đạo Công giáo để theo Luther vì
họ coi phong trào của Luther không phải là một tôn giáo
mới mà là một cuộc cách mạng tôn giáo (A religious
Revolt) chống lại chủ nghĩa bá quyền tôn giáo
(religious hegemony) của Vatican.
Cái chết anh hùng của Jan Hus đã làm bùng
lên một cuộc chiến tranh của dân Tiệp chống
Giáo hội Công giáo kéo dài 30 năm.
(A World History of Christianity, by Adrian Hastings, trang 251).
Kết quả là Giáo hội Tiệp hoàn toàn
tách rời khỏi Giáo hội La mã, mang tên “Giáo hội Hus
của Tiệp khắc” (The Hussite Church of Bohemia). Giáo
hội độc lập của Tiệp khắc tồn
tại được gần 200 năm. Đến năm
1620, vua Đức là người sùng đạo Công giáo
đã mang đại quân xâm chiếm Bohemia và tái lập giáo
hội Công giáo La mã tại xứ này bằng bạo
lực.
(Jan Hus, by Caroline T. Marshall, trang 330-331).
Cuộc chiến tranh của dân tiệp
chống Công giáo La mã trong 30 năm có ảnh hưởng
lớn đến các nước lân cận.
Trước hết, vào năm 1539, quốc
hội Thuỵ Điển biểu quyết đạo
luật trao cho nhà vua toàn quyền kiểm soát mọi
thứ tài sản của giáo hội. Năm 1571 là dấu
mốc lịch sử quan trọng đánh dấu ngày
tuyệt đại đa số nhân dân hai nước
Thuỵ Điển và Na-uy bỏ đạo Công giáo
để chuyển sang Tin Lành! Tất cả các hành vi này
nhằm bày tỏ lòng ngưỡng mộ Jan Hus. Đối
vơi dân Tiệp và dân các nước Bắc Âu, Jan Hus là
vị thánh tử đạo trong cuộc cải cách giáo
hội, và là vị anh hùng dân tộc của nhân dân Tiệp
khắc.
Tiểu sử của Thomas More và tiểu
sử của Jan Hus đã đem lại cho chúng ta hai thí
dụ điển hình về sự chọn lựa :
một bên là đạo Công giáo với đặc tính
của nó là sự lệ thuộc tuyệt đối vào
thần quyền của Vatican mà tiêu biểu là thẩm
quyền tuyệt đối của giáo hoàng, một bên là
lòng yêu nước với tinh thần kiên quyết bảo
vệ quyền tối thượng của dân tộc.
Quyền tối thượng của dân tộc luôn luôn
đối nghịch với quyền tối thượng của
Giáo hoàng Vatican.
Thủ tướng Anh Thomas More là tín đồ Công giáo
cuồng tín đã chọn con đường phụng
sự giáo hoàng Vatican nên đã hành
động đối kháng với quyền lợi của
nước Anh và bị kết tội phản quốc.
Ngược lại, Linh mục Jan Hus là người yêu
nước đã đặt quyền lợi tối
thượng của dân tộc lên trên hết nên đã can
đảm công khai chống lại Vatican
và kêu gọi toàn dân Tiệp phủ nhận quyền tối
thượng của giáo hoàng.
Người Công giáo Việt Nam
cũng vậy, họ chỉ có thể chọn một trong
hai : Hoặc mù quáng tuân phục Vatican
để cuối cùng đi vào con đường phản
quốc hoặc trở về với dân tộc bằng
cách dứt bỏ sự lệ thuộc vào Vatican.
Tuyệt đối không thể có chuyện “bắt cá hai
tay” – vừa cam chịu làm thân nô lệ khuyển mã cho Vatican
vừa phục vụ cho những lợi ích của
độc lập dân tộc.
Người Tây phương mỗi khi nói
đến Công giáo luôn luôn dùng danh từ “Roman Catholic” ,
tức “Công giáo La mã”. Danh từ này đã nói lên cái
đặc tính quan yếu nhất của tôn giáo này là
sự lệ thuộc tuyệt đối vào sự lãnh
đạo tối cao của Vatican.
Nếu bỏ tính cách lệ thuộc vào vatican thì sẽ
không còn là “Công giáo La mã” nữa. Điển hình là Anh giáo,
nếu xét về giáo lý và nghi lễ thì Anh giáo giống
hệt Công giáo. Chính yếu tố độc lập
với Vatican đã làm cho Anh giáo không còn là
Công giáo La mã!
Trước đây, một học giả
Việt Nam đã đưa ra đề nghị : Nếu
những người Công giáo Việt Nam đi theo
đường hướng “Công giáo Dân tộc” và sống
hài hòa với các thành phần khác trong Cộng đồng
dân tộc thì chắc chắn sẽ được cả
nước dang rộng bàn tay đón chào. Nhưng thế nào
là “Công giáo Dân tộc”? Liệu có thể có một thứ
gọi là “Công giáo Dân tộc” hay không” Theo thiển ý của
tôi thì không thể nào có được một thứ tôn giáo
có thể dung nạp hai yếu tố đối lập.
Do đó sẽ không bao giớ có “Công giáo Dân
tộc” . Bản chất của Công giáo La mã là đế
quốc tinh thần (Empire of Spirit). Đã là tín đồ
Công giáo thì đương nhiên phải tuân phục giáo hoàng
tuyệt đối vì đối với họ, giáo hoàng là
đại diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ). Họ tôn thờ
Chúa trên hết nên họ cũng tôn kính đại diện
của Chúa trên hết. Quyền lợi của Vatican
được đặt trên quyền lợi dân tộc.
Cho nên, khi đã là một tín đồ Công giáo La mã,
người đó đương nhiên đã có sẵn trong
mình cái bản chất “phi dân tộc” rồi!
Trên thế giới này, chỉ có những
kẻ “phi dân tộc” mới theo đạo “Công giáo La mã” vì
họ luôn luôn hướng linh hồn về La mã để
nhất cử nhất động đều răm
rắp tuân theo các mệnh lệnh “không thể sai lầm”
của Đức Thánh Cha!
Có thể nói “Công giáo La mã” đồng
nghĩa với “Công giáo phi Dân tộc” và từ phi dân
tộc đến phản quốc không cách nhau bao xa.
Ngược lại, đối với
những người có tinh thần dân tộc cao nhã như
Jan Hus chẳng hạn, dù là một linh mục Công giáo
chăng nữa, ông cũng không có một con
đường nào khác hơn là phải chống lại
Vatican, chống lại sự lệ thuộc vào quyền
tối thượng của giáo hoàng để bảo vệ
danh dự quốc gia và độc lập dân tộc.
Nói tóm lại, mọi người Công giáo
Việt Nam
sùng bái Vatican đều là phản
quốc. Nếu Giáo hội Công giáo Việt Nam
thực sự yêu nước và muốn hòa nhập vào
đại khối dân tộc phải công khai tách rời
khỏi Vatican,
ngoài ra không còn một con đường nào khác. Không
một ai có thể cùng một lúc vừa ôm chân đế
quốc vừa tự xưng là người yêu nước
được. Giáo hội Công giáo sùng bái Vatican
là đạo quân thứ Năm của địch nằm
vùng trong lòng dân tộc Việt Nam !