CÁC CUỘC THẬP TỰ CHINH CỦA CÔNG GIÁO LAMÃ CHỐNG HỒI GIÁO
Tiếng La Tinh CRUX có
nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu
tượng của đạo Ki Tô. Từ chữ Crux phát
sinh ra danh từ CRUSADE có nghĩa là cuộc viễn chinh của
đoàn quân Công Giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân
cận để tấn công những người Hồi
Giáo trong thời Trung Cổ. Những người lính trong
đoàn quân viễn chinh Công Giáo này đều mang huy hiệu
chữ thập ở phía trước ngực và phía sau
lưng nên được gọi là Thập Tự Quân
(Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ từ 11 đến
13 (1096-1291) những đoàn quân thập tự này đã gieo
rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người
Hồi Giáo Ả Rập. Hình ảnh tàn bạo man rợ của
đoàn quân Công Giáo Âu Châu đã in sâu vào tim óc của thế
giới Hồi Giáo nói chung và của những người
Hồi Giáo Ả Rập nói riêng. Đến nỗi ngày nay,
người Hồi Giáo đã đồng hóa Công Giáo với
chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên
án hành động bành trướng bá quyền của Tây
Phương, họ thường tố cáo hành vi đó là
"Tân chiến tranh thập tự". (Neo-Crusade).
Cổ nhân thường nói "ôn cố tri
tân", chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai
thế kỷ chiến tranh đẫm máu do những
đoàn viễn chinh chữ thập Công Giáo La Mã phát động
chống những người Hồi Giáo ở Trung Đông
trong hai thế kỷ từ 11 đến 13. Những bài
học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong nhiều
vấn đề của thời cuộc hôm nay và cũng
để hiểu thêm thực chất của một tôn
giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo
của Công bằng bác ái!
Để trình bày về đề tài này,
chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây:
1. The
CRUSADES, by Brenda Staleup, Green Haven Press xuất bản 2000.
2. The Oxford Illustrated History of
Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University Press 1986.
3. The Cross and the Crescent, by Malcoms
Billing, Sterling Publication 1988.
NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH
Có hai nguyên nhân dẫn
đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo
anh em (fraternal faiths) kéo dài 195 năm là: sự xung đột
như nước với lửa về giáo lý và sự tranh
chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực
chất cả hai đều là đế quốc).
1. Sự xung
đột về giáo lý
Mặc dầu kinh
Koran là Kinh Thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim
Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng
thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách
thiêng liêng của Jessus. Koran gọi các phép lạ của
Jesus là những trò ảo thuật học mót ở Babylon
(Magic and such things as come down at Babylon - Koran 2:102).
Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội
tổ tông, hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus
trên thập giá. Koran khẳng định người Do Thái
không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not,
nor cruxified him - Koran 4:157)
Muhammad thù ghét Công Giáo vì đạo này
thờ ảnh tượng, vi phạm điều răn
thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad
ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của
đạo Ki Tô. Đối với Muhammad, đạo Ki Tô
là Đa Thần Giáo, đi ngược lại chủ
thuyết độc thần của tổ phụ Abraham.
Hồi Giáo và đạo Do Thái là hai đạo Độc
Thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa Duy
Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công Giáo La Mã
thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà
Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công Giáo là
một tà đạo đa thần chứ không phải là
đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo Do Thái vì Do Thái
gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số
nhiều của El). Đạo Hồi gọi Thiên Chúa
bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả Rập là
Il. Đi liền với Il có chữ "ah" là một
mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả Rập. Vì
thế Il thành Il-ah. Khi chuyển sang Anh Ngữ, các chữ I
đổi thành A, vì thế Il - ah thành ALLAH (cũng như
Ibrahim trong tiếng Ả Rập đổi thành Abraham trong
tiếng Anh).
Muhammad gọi chung những người
theo đạo Do Thái và Ki Tô Giáo là "Những tín
đồ của các sách thánh kinh" (The People/The followers of
the Books) hoặc gọi chung là "Những kẻ không tin
Thiên Chúa Allah" (The Unbelievers). Riêng đối với các
tín đồ Công Giáo, Muhammad gọi là "Những kẻ
thờ thần tượng". (The Idolers).
Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các
tín đồ đạo Hồi Giáo phải chiến
đấu chống lại những kẻ theo Do Thái,
đạo Ki Tô và tất cả những ai không tin theo
đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi Giáo,
bất cứ một ai ngoại đạo đều
phải nộp thuế thân và phải chấp nhận
một địa vị thấp kém trong xã hội. (Fight
those who do not believe God and His Messenger, those who among the People of
the Books, fight them until they personnally pay tax on non - Muslims
adknowledging their inferiority - Koran, sura 9).
Những người Công Giáo thờ
ảnh tượng bị coi là hạng người dơ
bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi Giáo
(The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred
mosques - Koran 9:28).
Các người Do Thái và Ki Tô bị cấm
không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa
nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước
ngực, không được đọc kinh to tiếng và
cấm ngặt rước kiệu trên đường
phố. Người Ki Tô Giáo bị coi là đa thần giáo
có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran
chương 9 câu 5 đã qui định: "Khi những
tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những
kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp
chúng, hãy phục kích để bắt chúng" (When the sacred
months have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take
them captives and wait for them in every ambush - Koran Sura 9: verse 5).
Người Tây Phương gọi
những câu thơ nói trên là "Những câu thơ của
đao binh" (The verses of the swords). Trong thực tế,
những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự
dũng mãnh của những đoàn quân Hồi Giáo trong công
cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah).
Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi Giáo
đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một
phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên
giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những
câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắc
giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.
2. Sự tranh chấp lãnh thổ
giữa hai tôn giáo
Từ thế kỷ
thứ nhất đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng
Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của
các giáo phái Ki Tô. Nhưng đến đầu thế
kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện và bành
trướng với tốc độ vũ bão chưa
từng thấy khiến cả thế giới phải
ngạc nhiên.
Chỉ trong 10 năm kể từ khi
Mohammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán
đảo Ả Rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang
Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước
Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía tây của nước
Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và
Hy Lạp.
Qua đầu thế kỷ 8 (711 - 716) quân
Hồi dám đánh chiếm một nước Âu Châu nổi
tiếng sùng đạo Công Giáo, đó là nước Tây Ban
Nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi Giáo chiếm
trọn Ba Tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm
hết các nước Trung Á ở phía Nam nước Nga,
chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan và
Afganistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận
với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.)
Ki Tô giáo bị mất rất nhiều
đất và đồng thời cũng mất rất
nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó
đế quốc La Mã và Ki Tô bị lâm vào tình trạng chia
rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành vi
trả đũa nào cả!
Đến đầu thế kỷ 11, Ki
Tô giáo chia thành hai giáo phái với hai giáo đô thù nghịch
nhau. Đó là Công Giáo La Mã (Roman Catholic) đóng đô tại
Vatican và Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương
(The Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn
được gọi là Constantinople tức Istambul, thủ
đô của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine.
Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu Giáo
Hội Chính Thống Giáo tuy không ưa Công Giáo nhưng
cũng đành phải gửi văn thư chính thức yêu
cầu giáo hoàng La Mã đem quân đến cứu giúp. Vatican
lúc đó muốn giúp Byzantine thì ít nhưng điều quan
tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem
để giáo dân toàn Âu Châu được tự do
đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất
của dân Công Giáo Âu Châu đối với đạo
Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân
Hồi đã triệt phá Nhà Thờ Kính Mộ Chúa (Church of
the Holy Sepulchre). Tội triệt phá nhà thờ Mộ Chúa
trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù
của Công Giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là
vụ người Hồi Giáo hành hạ những
người Công Giáo Âu Châu đi hành hương ở
Jerusalem năm 1076. Những người hành hương
sống sót trở về Âu Châu đã kể nhiều
chuyện về sự ngược đãi của
người Hồi khiến cho dân Âu Châu rất phẫn
nộ.
Tu sĩ Peter Hermit là người hết
sức cuồng nhiệt vận động quần chúng
tín đồ Công Giáo ở các nước Âu Châu tham gia
cuộc thánh chiến chống Hồi Giáo. Các giáo dân Âu Châu
vào thời đó đa số là những nông dân thất
học và cuồng tín, nhất là giới thanh thiếu niên, trong
số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã
mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch
sử Âu Châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là
"Đoàn quân Nông Dân" hoặc "Đoàn quân con
nít" (Popular Crusade - The Children's Crusade).
Vào thời đó, Âu Châu đang ở trong
thời đại bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên
từ vua tới dân, từ các tu sĩ đến các
bổn đạo, tất cả đều không có một
chút hiểu biết nào về Hồi Giáo, không có một chút
kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và
địa thế của các nước phương Đông.
Sự thiển cận về kiến thức và tinh
thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái
chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát
vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy
chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số
đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên!
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ
NHẤT
(1096-1099)
Như
trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập
Tự khởi đầu từ năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm
1096, tức 5 năm sau, mới thực hiện được.
Đoàn quân thập tự gồm hàng
trăm ngàn người được điều
khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất
phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàn quân của Pháp chia
làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung
tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung
tại Toulouse. Cả hai nhánh này tiến quân thẳng
tới Constantinople.
Trên đường hành quân, khi đi ngang
qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân thập tự
của Pháp đã lùng bắt những người Do Thái
rồi đưa họ ra những bãi hoang chém giết
tập thể. Hiện nay tại vùng đồng bằng
sông Rhin thuôc nước Đức có nhiều nơi
vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên
những người Do Thái bị sát hại trong dịp này.
Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân
thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi
thẳng đến Rome để kết hợp với
50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cùng kéo đến
Constantinople. Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên
khi thấy đoàn quân thập tự chỉ là một
đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá
nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine
lập tức ra lịnh cho quân đội ngăn chặn
không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà
vua cung cấp cho đoàn quân này một số lương
thực,thực phẩm và cho quân đội áp tống
đám thập tự quân này đến Boporus thuộc
miền nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong lúc đoàn quân thập tự trú
đóng tại Boporus thì bị quân Hồi Giáo Thổ Nhĩ
Kỳ bất thần tấn công giết chết rất
nhiều. Đoàn quân còn lại tiếp tục đi
tới Anatolia, một thành phố thuộc phần
đất Á Châu của Thổ Nhĩ Kỳ rồi
đến bao vây thành phố Hồi Giáo Antioch ở phía
cực nam nước Thổ.
Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn
thập-tự-quân bất ngờ bị quân Hồi Giáo Iraq
kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến
ngày 3-6-1098. Đoàn thập tự quân bị kẹt ở
giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập,
trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên
thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau
hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, thập tự quân
cạn hết lương thực nên bị chết đói
rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn quân
thập tự buộc lòng phải chấp nhận một
trận quyết tử để mở đường
máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi Giáo Iraq.
Đoàn quân chữ thập tiếp tục
lên đường trong hơn một năm mới tới
được Jerusalem. Tại thành phố thánh địa
này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn
thập tự quân đã chiếm thành phố thánh
địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi
chiếm Jerusalem, thập tự quân ra lịnh cấm
người Hồi Giáo không được leo lên tháp cao
ở đền thờ để kêu gọi mọi người
đọc kinh, không được ăn chay trong tháng
Ramadan, không được xây đền thờ mới,
cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả
những tín đồ Công Giáo cải sang đạo Hồi
đều bị tử hình.
Chỉ trong vòng vài tuần lễ
đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn thập tự
quân tàn sát những người đàn ông Do Thái và
người Hồi Giáo Ả Rập tổng cộng lên
đến 30.000 người. Thánh địa của cả
ba tôn giáo độc thần biến thành một nhà xác
khổng lồ. Lý do là vì số người chết
nhiều hơn quân số của thập tự quân tại
Jerusalem và không có ai lo chuyện chôn người chết
cả. Cho tới năm tháng sau, các cống rãnh và các thung
lũng ở Jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối
của các xác chết.
Cuộc chiến tranh thứ nhất
của Thập Tự Quân Công Giáo La Mã (The First Crusade) là
một ấn tượng ghê tởm nhất đối
với người Hồi Giáo và Do Thái Giáo, và là một bài
học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế
giới Hồi Giáo về sự man rợ khủng
khiếp của bọn tín đồ Công Giáo cuồng tín.
Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này
mà người Âu Châu đã có cơ hội hiểu biết
về thế giới Ả Rập và Hồi Giáo. Họ
không ngờ thế giới Hồi Giáo quá rộng lớn,
bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu Châu
tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi
Giáo cũng là một nền văn minh, trong đó có
nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học
tiến bộ vượt xa Âu Châu. Cũng từ đó,
người Âu Châu đã dần dần tự giác ngộ
để tự giải thoát ra khỏi thời đại
đen tối (The Dark Age).
Về thành tích giết người tàn
bạo của thập tự quân tại Jerusalem trong
những ngày đầu của cuộc thánh chiến
hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử
độc đáo. Đó là bức thư của vị
tướng tổng-chỉ-huy thập tự quân gửi
từ Jerusalem về Vatican để báo cáo tin mừng
chiến thắng lên Giáo Hoàng Urban II. Bức thư này
hiện được lưu trữ tại Văn khố
của Tòa Thánh. Trong thư có đoạn viết như sau:
"Đức Thánh Cha có biết chúng con đã đối
xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao
không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền Thánh,
đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những
vũng máu dơ bẩn của quân Hồi Giáo Saracenes
ngập cao đến đầu gối của những
con ngựa". (If You would
know how we treated our enemies at Jerusalem know that in the portico of
Solomon and in the Temple, our men rode through the unclean blood of Saracenes
which came up to the knees of the horses - Deceptions and Myths of the Bible,
by Lloyd Graham, p. 462)
Kết quả lớn nhất của
cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân
chữ thập là sự hình thành một vương
quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trãi
dài 800 km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải
mang tên "Vương Quốc La Tinh Jerusalem" (Latin
Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh Antioch và Edessa ở
phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, nước Syria,
nước Liban, xứ Judia và xứ Gallilee, trong đó có
thành phố thánh địa Jerusalem.
Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị
bằng cách phong vương cho người đứng
đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là
"vua" của vương quốc, tòa thánh gọi là
"Người Bảo Vệ Mộ Chúa" (Protector of the
Holy Sepulchre). Vương quốc La Tinh Jerusalem tồn
tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187)
qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong.
Trong 88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân
thập tự đã tàn sát rất nhiều người
Hồi Giáo và Do Thái Giáo, bất kể họ là người
già, phụ nữ hay trẻ em. Quân thập tự cũng
xây cất rất nhiều pháo đài và lâu đài phòng
thủ kiên cố để bảo vệ vương
quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch
sử để lại tại các nước Trung Đông
dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ HAI
(1147-1149)
Nguyên nhân dẫn
đến cuộc Thập Tự Chinh thứ hai (The Second
Crusade) là do biến cố quân Hồi Giáo thuộc giáo phái
Sunni từ các nước Ả Rập và Thổ Nhĩ
Kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc
Vương Quốc La Tinh Jerusalem.
Để thực hiện quyết tâm
phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là
Courad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc
Thập Tự Chinh thứ hai. Năm 1147, liên quân Pháp Ý trong
đoàn quân chữ thập lên đường đến
Thổ Nhĩ Kỳ để chiếm lại Edessa
nhưng đã hoàn toàn bị thất bại. Tàn quân rút
chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria.
Đến năm 1949, toàn bộ đám tàn quân nầy
bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô
Syria ngày nay).
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ BA
(1190-1192)
Đối với Do
Thái Giáo và Ki Tô Giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất
của họ. Đối với Hồi Giáo thì thánh
địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô
của nước Ả Rập Saudi). Thánh địa
thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca
250 dặm về phía Bắc. Và Jerusalem là thánh địa
thứ ba của Hồi Giáo vì tương truyền
rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.
Quân Thập Tự của Vatican chiếm
Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và
đau đớn cho thế giới Hồi Giáo.
Người Hồi Giáo đã phải nuốt hận
chịu đựng trong gần một thế kỷ
mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ
hội phục thù là sự xuất hiện của một
nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị
tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193)
gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được
dân Ai Cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin
trở nên một nhân vật huyền thoại trong
nhiều tác phẩm văn chương của các
nước Âu Châu thời đó. Quả thật, Saladin
đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân
tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh
đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem
và nhiều phần đất khác của vương
quốc La Tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi Giáo
Ả Rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã
được tái chiếm và danh dự của Hồi Giáo
đã được phục hồi.
Nỗi vui mừng chiến thắng
của Hồi Giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau
của Vatican và Giáo Hội Công Giáo càng thấm thía ê chề
bấy nhiêu. Do rút tỉa kinh nghiệm của những
thất bại trước đây, lần này Vatican
chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý
của ba ông vua đầy quyền lực tại Âu Châu là
vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I
- người được mệnh danh là "Richard Trái
Tim Sư Tử" (Richard The Lion - Hearted).
Cũng xin nói thêm ở đây là Giáo Hội
Công Giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền của Vatican do
vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534. Trước
đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền
Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu Châu. Cuộc
thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu
Châu điều khiển nên các sử gia thường
gọi cuộc thập tự chinh này là "Cuộc
Thập Tự Chinh của các vua" (The Crusade of the kings).
Vua Anh Richard I đích thân điều
khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi
chiến dịch kết thúc vào năm 1192. Trong hai năm
chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm
hầu hết lãnh thổ của Vương Quốc La Tinh
Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh
địa Jerusalem thì lại không chiếm được.
Quân Hồi chặn đứng đoàn quân chữ thập
của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc
Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua
Anh Richard The Lion - Hearted đã ra lệnh chém đầu
tập thể trên 3000 người Hồi Giáo Ả
Rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi Giáo
như một bằng chứng về tội ác diệt
chủng của Giáo Hội Công Giáo La Mã. (The Cross and The
Crescent by Malcom Billing - page 116). Hiện nay, tại Thư
Viện Quốc Gia của Pháp (Bibliotheque Nationale) có lưu
trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ
cảnh Vua Richard The Lion-Hearted ngồi trên khán đài
chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu
tập thể những người Hồi Giáo.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ
TƯ
(1201-1204)
Giáo Hội Công Giáo La Mã rất thù ghét Giáo Hội Chính Thống là một giáo hội
Ki Tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập
tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo Chính Thống ở Âu Châu bị cấm không
được đến hành hương thánh địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính Thống tại
Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó là những lý do khiến cho hoàng đế
Byzantine và giáo hội Chính Thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của
Vatican. Để tránh bị lâm vào cái thế "lưỡng đầu thọ địch", hoàng đế Byzantine và
giáo hội Chính Thống thương thuyết với vua Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả hai bên
đạt tới việc ký hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Hòa ước Byzantine - Thổ Nhĩ
Kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính
Thống Giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu
ở Âu Châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong
những nước Công Giáo cuồng tín đã lập
những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động
cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư để tiêu
diệt đế quốc Byzantine và Chính Thống Giáo.
Vatican lợi dụng dịp này ban hành những thông
điệp phổ biến cho giáo dân khắp Châu Âu về
sự phản bội của Byzantine và Chính Thống Giáo.
Cuộc viễn chinh lần này được Vatican ủy
nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức
thực hiện.
Trên danh nghĩa, cuộc Thập Tự
Chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính
Thống Giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu
diệt một đồng minh tương lai của
Hồi Giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201
đến 1204, đoàn quân Thập Tự chiếm trọn
lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên
cho lãnh thổ này là "Đế Quốc La Tinh
Constantinople" (The Latin Empire of Constantinople). Vatican chia
đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong
chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai
trị các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng
đế quốc Byzantine xưa kia thành một xã hội
phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra
một phần để nộp cho Vatican. Đế
quốc La Tinh Constantinople tồn tại được 57
năm (1204-1261).
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ
NĂM
(1217-1221)
Cuộc thập
tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính
trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng
của vua Andrew nước Hungary. Hungary chỉ là một nước
nhỏ nằm ở giữa Châu Âu. Vua Andrew là người
cuồng tín và có quá nhiều ảo vọng quyền
lực. Ông ta đã không luờng sức của mình, tự
ý thành lập một đạo quân thập tự rồi
kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai
Cập. Ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành
phố Dannietta của Ai Cập. Người Ai Cập nhân
danh Hồi Giáo thương thuyết với Andrew là nếu
nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai
Cập thì Hồi Giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo
Hội Công Giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề
nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo
của Ai Cập. Quân Hồi Giáo Ai Cập hết sức
phẫn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt
hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ SÁU
(1228-1229)
Cuộc thập
tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II
thực hiện để trả thù cho Andrew. Vatican đã
cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn
để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập
tự. Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài,
đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm
trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân
chữ thập mới đặt chân lên đất Ai
Cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic
II bị quân Hồi Giáo Ai Cập bắt sống. Vatican
đã phải trả một số tiền rất lớn để
chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi
phóng thích cho về nước an toàn.
CUỘC THẬP TỰ CHINH CUỐI CÙNG
(1248-1254)
Lý do dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ 7 là vụ quân Hồi đánh chiếm thánh địa
Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua
Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc
viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm.
Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy
cuộc viễn chinh, kéo quân qua các nước Syria, Liban,
Palestine... Đi tới đâu đều bị quân Hồi
phục kích tấn công đến đó. Cuôc chiến dai
dẳng không phân thắng bại khiến cho binh sĩ vô
cùng chán nản. Sáu năm sau,
đoàn quân thập tự vẫn không tới
được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi
tổng phản công Louis IX phải bỏ chạy, những
kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu Châu.
Đến năm 1291, quân Hồi chiếm
lại tất cả những phần đất đã
mất về tay đoàn quân chữ thập trước
đây, chấm dứt hoàn toàn Vương Quốc La Tinh
Jerusalem sau 195 năm tồn tại.
Cũng xin nói thêm ở đây là trong
lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai
vua Pháp mang tên Louis tham dự. Vua Louis VII bị thất
bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần
thứ hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong
cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên,
Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được
Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi
Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông
đã được dùng để đặt tên cho
một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố
này có nhiều người Mỹ gốc Pháp.
NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG GHI VỀ CÁC CUỘC THẬP TỰ CHINH
1. Vấn
đề: có bao nhiêu cuộc thập tự chinh?
Khi nghiên cứu
về những cuộc viễn chinh của đoàn quân
chữ thập thời Trung Cổ, chúng ta sẽ gặp
nhiều tài liệu sử học đưa ra những con
số khác nhau về những cuộc chiến tranh của
thập tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài
liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm
cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số
chính xác vì cuộc chiến của thập tự quân kéo dài
gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài
dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc
chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm
những đoàn người đi hành hương hoặc
đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó họ
vẫn có thể thực hiện được những
cuộc tấn công vào quân Hồi Giáo.
Một điều
phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ 11,
nhiều giáo hội Công Giáo Âu Châu tách rời khỏi giáo
quyền Vatican như Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành. Vatican tổ
chức những đoàn quân cũng mang danh là Thập
Tự Quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó.
Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập Tự
Chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm
hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính
Thống Giáo. Vậy có nên coi cuộc thập tự chinh này
là một trong những cuộc Thập Tự Chinh chống
Hồi Giáo hay không? Nhiều sử gia trả lời là có vì
mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một
đồng minh mới của Hồi Giáo.
2. Nhiều con cháu
của thập tự quân trở thành Hồi Giáo
Những thập
tự quân Âu Châu đến Jerusalem trong cuộc viễn
chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm
định cư tại đây, họ dần dần
hiểu được thực tại và tỉnh ngộ
chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại
Jerusalem không có phụ nữ Âu Châu nên lính thập tự
đều lấy vợ Ả Rập Hồi Giáo. Từ
thế hệ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu
hết con cháu của thập tự quân đều thành
người Hồi Giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc
thập tự chinh thứ hai (1147 tức sau 51 năm) và
thập tự chinh thứ ba (1190, tức sau lần thứ
nhất gần một thế kỷ) những con cháu
của thập tự quân đợt đầu đều
rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ
là những chiến sĩ Hồi Giáo chống đối
mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh
2 và 3.
3. Nạn buôn nô lệ:
Các cuộc chiến tranh
của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho
tệ nạn buôn bán nô lệ trở thành một kỹ
nghệ phát đạt. Cả hai phe Hồi Giáo cũng
như thập tự quân đều chú tâm bắt sống
tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm
đóng để đem bán tại các chợ ở khắp
miền Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn
là một món hàng đắt giá nhất được các
nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô
lệ tình dục.
4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang
đường.
Trong suốt năm
1095, Giáo Hoàng Urban II đi khắp các nước Công Giáo Âu
Châu kích động quần chúng tín đồ đầu
quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền
bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần
thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Nhưng
ngôi mộ của Chúa (The Holy Sepulchre) chỉ là chuyện hão
huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã
sống lại và lên trời thì làm gì có mộ của Chúa?
Còn nếu Chúa đã bị quân La Mã đóng đinh trên
thập giá thì theo luật của La Mã là mọi tử
tội đã chết trên thập giá phải bị vứt
xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch
sử La Mã tuyệt đối không có chuyện xác tử
tội được trao cho người nhà đem về
chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La
Mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng
lẽ lại được La Mã dành cho một đặc
ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà
đem về chôn trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ
của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn
đại bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã
làm đổ máu của ba triệu người, trong số
đó có ít nhất là 60.000 trẻ em.
Sử gia Lloyd M. Graham
đã viết về vấn đề này như sau:
"Chúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến
tranh của Thập Tự Quân, đó là những cuộc chiến
tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ "ngôi mộ
của thánh Chúa mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba
triệu người đã bị giết một cách vô ích,
trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em".
(Consider the Crusades, those hellish wars for a "holy sepulchre" that
never existed, three million people neeedlessly butchered, among them sixty
thousand children - Deception and Myths of the Bible, page 350).
Ba triệu sinh
mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải
trả cho một chuyện hoang đường của tà
đạo đa thần Công Giáo La Mã. Ba triệu người
đã tức tưởi chui xuống những nấm
mồ có thật chỉ vì một nấm mồ không có
thật của một người được mệnh
danh là Chúa Cứu Thế!