MÀN KỊCH BỊP BỢM “PHÉP LẠ LỘ ĐỨC” DO VATICAN VÀ HOÀNG GIA PHÁP DÀN DỰNG NĂM 1858 ĐÃ NÔ LỆ HÓA NHỮNG LINH HỒN MÊ MUỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Charlie Nguyễn
Để trình bày chuyện bịp “hang đá
Lộ Đức” một cách rành rẽ và để qúi vị
độc giả dễ nắm bắt các tình tiết hết
sức phức tạp của câu chuyện này, tôi phải bắt
đầu kể chuyện hầu qúi vị bằng những
khám phá mới nhất của Nhân Chủng Học
(Anthropology) mới được công bố và được
các tuần báo lớn nhất của Mỹ loan báo trong tháng
6-2003 vừa qua. Sau đó tôi sẽ đối chiếu với
khoa thần học hoang tưởng của St.
Augustine để tố cáo thủ đoạn
lừa bịp của Vatican
qua các tín điều do họ công bố nhằm mục đích
đầu độc và nô lệ hóa con người. Cuối
cùng là vạch trần âm mưu
của Vatican cấu kết với chính quyền hoàng gia Pháp
giữa thế kỷ 19 trong việc dàn dựng màn kịch
bịp bợm “hang đá Lộ Đức” như thế nào.
Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ tinh thần nô lệ đáng
xấu hổ của giáo hội Công giáo Việt Nam là giáo hội
luôn luôn chỉ biết cúi đầu vâng phục Vatican một
cách mù quáng hèn hạ nên đã đạt kỷ lục xây cất
nhiều “hang đá Lộ Đức” vượt trội tất
cả các giáo hôi công giáo khác trên khắp thế giới !
Đây là một hiện tượng bất
bình thường trong sinh hoạt chung của cộng đồng
Công Giáo hoàn vũ. Hiện tượng bất thường
này đã vô tình hé mở cánh cửa bí mật của lịch
sử để chúng ta thấy được một phần
nào của sự thật đã bị che khuất về vai
trò gián điệp của nhân vật Nguyễn Trường
Tộ. Có một điều mà toàn dân Việt Nam nên nhớ:
Cả hai soạn giả kiêm đạo
diễn của vở kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ
Đức” là Giáo Hoàng Pio IX và hoàng đế Pháp Napoléon III đã
luôn luôn sát cánh với nhau trong chủ trương xâm chiếm
Đông Dương để mở rộng thuộc địa
và nước Chúa. Cả
hai nhân vật chóp bu về thần quyền và thế quyền
này đều có quan hệ mật thiết với các giáo sĩ
Pháp nổi tiếng ở Việt Nam thời đó là giám mục
Pellerin, giám mục Puginier, linh mục Huc, giám mục Gauthier và “gián
điệp”Nguyễn Trường Tộ. Giám mục Gauthier là thầy dậy của Nguyễn
Trường Tộ trong 10 năm. Nguyễn Trường Tộ
luôn luôn tỏ ra trung thành với các giám mục Pháp, hết lòng
tuân phục Giáo Hoàng và tuyệt đối trung thành với
Tòa Thánh Vatican.
Tóm lại màn bịp bợm “Phép
lạ Lộ Đức” chẳng những là một biến
cố thần học trong nội bộ giáo hội Công Giáo.
Đồng thời về
mặt chính trị, “Phép
lạ Lộ Đức” cũng
có những hệ lụy oan trái in hằn lên vận mệnh
đau thương của dân tộc Việt Nam trong giai
đoạn đầu của lịch sử mất
nước hồi hậu bán thế kỷ 19. Đây là
một vấn đề nhức nhối dễ gây tranh cãi
và dù sao cũng còn là một nghi vấn lịch sử cần
được các sử gia làm sáng tỏ thêm. Do đó, tôi
xin dành vấn đề này lại để trình bày trong một
bài viết riêng. Sau đây, tôi chỉ xin đề cập đến
những vấn đề liên quan trực tiếp đến
“Phép lạ Lộ Đức” mà thôi.
I.- Nhân
chủng học đối diện với lịch sử
qua bằng chứng cụ thể về “Bà Evà thật”.
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 23-6-2003 (trang 14) có đăng bài “Nhân
chủng học đối diện với lịch sử”
(Anthropology in the face of History). Kèm theo bài báo là hình ảnh
chiếc sọ hóa thạch của một phụ nữ, bên
dưới có ghi chú: “Tất cả
sự thật về Bà Evà: Tấm ảnh chụp sọ người
cổ xưa nhất đã được tìm thấy tại
Phi Châu” (All about Eve: Portrait of the oldest human from Africa).
Tác giả bài báo Mary Carmichael viết: “Đối với họa sĩ
Michael Angelo thì bà Evà là một phụ nữ da nâu, mắt đen
dễ thương. Đối với họa sĩ Pháp
Rodin thì bà Evà là một phụ nữ đầy cám dỗ nhục
dục. Đối với các nhà khoa học, khuôn mặt thật
của bà tổ nhân loại thật khó nắm bắt (the
human matriarch’s face has always been elusive). Tuy nhiên vào năm
1987, các nhà di truyền học (geneticists) đã kết luận
rằng: Bà Evà Phi Châu (có hình
sọ kèm theo bài báo) đã
sống trên mặt đất 160,000 năm trước
đây là “bà tổ cuối cùng” của toàn thể loài người
(The African Eve who lived 160,000 years ago, was the last ancestor of all
humans). Đó là sọ hóa thạch của con người
khôn ngoan (Homo Spiens) cổ nhất nhân loại đã được
tìm thấy. Gọi là “tổ tiên cuối cùng” vì con người
khôn ngoan (Homo Sapiens) là loại người xuất hiện
trong giai đoạn chót của quá trình tiến hoá của nhân
loại.
Các cuộc khảo cứu tổng hợp của
các nhà khoa học khảo cổ, nhân chủng học, di truyền
học và cổ sinh vật học đã đi đến
hai kết luận :
1.- Nguồn gốc con người xuất phát
từ Phi Châu, từ đó con người di chuyển đến
các lục địa khác trên thế giới.
2.- Điều đặc biệt đáng chú ý
là từ xưa đến nay người ta chỉ tìm thấy
các sọ người hóa thạch
một cách riêng rẽ và chưa bao giờ tìm thấy sọ
cùng với xương thân mình và xương chân ở một
chỗ. Đây là bằng chứng cụ thể về thói
tục ăn thịt người (cannibalism) trong sinh hoạt
thường ngày của loài người Homo Sapiens. Trước
khi bị ăn thịt, đầu của nạn nhân luôn
luôn được chặt ra để vứt bỏ, thân
mình và tay chân của nạn nhân được nướng
chín trên đống lửa hoặc được nấu
chín. Do đó, chỉ có xương sọ là còn tồn tại
đến ngày nay, còn các xương
mình và tay chân đều đã bị hủy hoại và bị
vứt bỏ riêng rẽ cách xa xương đầu.
Tuần báo Time, số ra ngày 23 tháng 6-2003, hai tác
giả Lemonick và Dorfman cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết
về “bà Evà thật của nhân loại” (trang 56-58) như
sau: “Người khôn ngoan đầu
tiên của nhân loại có hình hài như chúng ta, đi đứng
như chúng ta và trong một số phương cách nào đó,
họ cư xử như chúng ta” (The first Homo Sapiens look like
us, walked like us and in some ways acted like us as well).
Sở dĩ sọ người phụ nữ
có hình in trên báo Newsweek được coi là “Bà Evà của khoa
học” vì đó là sọ người khôn ngoan (homo spiens) cổ
nhất. “Người khôn ngoan” là loại người xuất
hiện trong giai đoạn chót của quá trình tiến hóa của
nhân loại. Nếu con người bị coi là bắt đầu
biết phạm tội thì chỉ có thể phạm tội
khi bắt đầu có trí khôn mà thôi. Người đàn bà đầu
tiên của “loài người đứng thẳng” (Homo
Erectus) cách chúng ta 2 triệu năm không được coi là
“bà tổ Evà” của nhân loại vì “bà tổ” (matriarch) này giồng
vượn nhiều hơn giống chúng ta !
Sọ người đàn bà Homo Sapiens cổ
nhất đã được tìm thấy tại miền
Herto thuộc nước Ethiopia do một sự tình cờ
vào năm 1987. Vào dịp đó, một cơn bão làm nước
biển dâng lên tràn ngập miền Herto làm trơ ra rất
nhiều xương hóa thạch đã từng bị chôn vùi
nhiều ngàn năm dưới những lớp đất
sâu.
Sọ của “bà Evà thật” được
phát hiện cùng một lúc với nhiều bộ xương
hóa thạch của hà mã, cá sấu, sư tử, ngựa vằn
và chó rừng. Tất cả các hóa thạch này đều có
chung một niên đại là 160,000 năm. Điều đó
cho thấy các tổ tiên xa xưa của chúng ta đã phải
chiến đấu rất gay go để tồn tại
giữa một môi trường đầy thú dữ và với
đồng loại thích ăn thịt đồng loại.
Cuộc khảo sát “sọ bà Evà Homo Sapien” là một
công trình khoa học quốc tế, được đặt
dưới sự điều khiển của giáo sư Tim
White thuộc đại học Berkeley
tiểu bang California. Đầu
tháng 6-2003, ủy ban khoa học này công bố kết quả
nghiên cứu trước báo chí: “Sọ người khôn
ngoan đầu tiên được xác định niên đại
160,000 năm” (The very first true Homo Sapien dated 160,000 years ago).
Trong khi đó “Bà Evà của Thánh
Kinh Cựu Ước Do Thái” tính tới nay mới có 6 ngàn
năm mà thôi. Điều này cho thấy bà Evà của huyền
thoại tôn giáo “trẻ” hơn bà Evà của khoa học tới
154,000 năm.
Trong quá trình tiến hóa hai triệu năm từ
“loài người đứng thẳng” (homo erectus) đến
loài người khôn ngoan (homo sapiens) có những giống người
khác xuất hiện. Đáng kể nhất là giống người
Neanderthals. Giống người này xuất hiện tại
Phi Châu 500,000 năm trước đây, sau đó họ di
chuyển qua Âu Châu và bị hoàn toàn diệt chủng vào
30,000 trước. Giống người này được
coi là một nhân chủng ngoại tộc (a side branch) không
thuộc dòng tiến hóa của loài người hiện đại
của chúng ta.
Những kết qủa nghiên cứu về sọ
hóa thạch của “bà Evà Phi Châu” mới được Ủy
Ban Khoa Học Quốc Tế công bố trong tháng 6, 2003 là những
kiến thức khoa học giá trị dung để cập
nhật hóa sự hiểu biết của chúng ta về nhân
chủng học. Qua đó, chúng ta nhận thức được
một điếu rất rõ rệt là: Trí óc của con người đã tiến triển hết
sức chậm chạp. Từ trí óc của loại “vượn
người đứng thẳng” (Homo Erectus) đến trí
óc của loại người Homo Sapiens đòi hỏi một
thời gian tiến triển tới 2 triệu năm! Trí óc của “bà Evà Phi Châu” cách đây
160,000 năm thực sự cũng chỉ ở trình độ
trí óc một em bé sơ sinh ngày nay mà thôi. Từ trí óc “sơ
sinh” đó đến trí óc “trưởng thành” của nhân loại
ngày nay đòi hỏi một thời gian 160,000 năm !
Đó là sự thật không thể chối cãi
về qúa trình tiến hóa của tâm linh và trí tuệ loài người.
Sự thật khoa học đó xác định rằng:
Không thể bỗng dưng có ngay
một bà Evà hoàn chỉnh được Thiên Chúa tạo nên
từ một khúc xương sườn cụt của
Adam!. Cách đây 6000 năm, ngay từ lúc vừa mới được
tạo thành, bà Evà đã có đủ trí khôn phân biệt thiện
ác, và có đủ “ý chí tự do” để quyết tâm chống
lại Thiên Chúa bằng cách xúi chồng ăn trái cấm để
phạm cái tội tày trời là TỘI TỔ TÔNG!
Thần thuyết “Tội Tổ Tông” là nền
tảng của Ki Tô Giáo (gồm cả Công Giáo – Tin Lành) đã
hoàn toàn bị sụp đổ trước các bằng cớ
xác thực của khoa học và lương tri con người.
Các thần thuyết khác như Sự Cứu Chuộc của
Jesus, Phép Rửa Tội, các tín điều về Đức
Mẹ, v.v… đếu là những chuyện ngụy tạo
vì tất cả đều đã được suy luận
ra từ thần thuyết Tội Tổ Tông.
II.- St. Augustine và học thuyết Tội Tổ Tông.
St. Augustine
sinh năm 354 tại Algeria,
cha là người ngoại đạo, mẹ là tín đồ
Kitô Giáo. Khi Augustine lên 16 tuổi được mẹ dẫn
qua Ý và đến thăm thành phố Milan.
Tại đây, Augustine có dịp nghe giám mục Ambrose thuyết
giảng về Thiên Chúa Ba Ngôi, tội Tổ Tông và nhiều
điều về bà Maria. Khi trở lại Algeria,
Augustine say mê nghiên cứu Kitô giáo và viết sách liền trong
34 năm, tạo dựng nên cả một tòa lâu đài đồ
sộ về thần học Kitô giáo. Do công trình vĩ đại
về thần học, Augustine được cử làm giám
mục địa phận Hippo ở Algeria.
Y chết năm 430, thọ 76 tuổi. Augustine được
các triết gia Tây Phương coi như người thứ
hai sáng lập đạo Kitô sau PhaoLồ và là bậc thầy
tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ.
Chỉ tiếc một điều là Augustine đã
xây dựng cả một nền thần học Kitô giáo đồ
sộ trên đống cát, đó là huyền thoại Vườn
Địa Đàng của Babylon
(The Garden of Eden). Huyền thoại Vườn Địa Đàng
nguyên là sản phẩm tưởng
tượng của dân Babylon
từ 5000 năm trước Công Nguyên. Trong thế kỷ
10 đến thế kỷ 6 TCN, những người viết
Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã vay mượn chuyện
Vườn Địa Đàng để phịa ra chuyện
ông Adam và bà Evà tổ tông của loài người ăn trái cấm
nên đã phạm tội tổ tông di hại cho cả loài
người tới ngày nay !
Căn cứ vào huyền thoại Vườn
Địa Đàng, Augustine đã xây dựng các học thuyết
thần học hão huyền cho Kitô giáo. Quan trọng hơn hết
là học thuyết về Tội Tổ Tông, vì đây là học
thuyết căn bản và tử đó đẻ ra các học
thuyết khác của Kitô Giáo :
Học
thuyết Tội Tổ Tông : Augustine giải thích nguồn
gốc mọi đau khổ của nhân loại đều
bắt nguồn từ tội lỗi “ăn trái cấm” của
tổ tiên loài người là Adam và Evà. Tội này được
gọi là “Tội Tổ Tông” hay “Nguyên Tội” vì đây là tội
đầu tiên của loài người chống lại Thiên
Chúa (The Original Sin). Tội
Tổ Tông được di truyền cho con cháu muôn
đời do sự giao cấu tội lỗi của cha
mẹ. Dù là sự giao cấu hợp pháp giữa vợ
chồng cũng là điều tội lỗi vì hành động
giao cấu đã bị ô nhiễm do sự thúc đẩy của
sự ham muốn nhục dục (The inherited guilt was passed on
to all his descendants through the sexual act which was polluted by what is
called concupiscene).
Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm
cuốn “On Female Dress” để nguyền rủa phụ nữ.
Augustine gọi mỗi
người phụ nữ trên thế gian là một Evà,
kẻ đồng lõa với ma qủi và luôn luôn xúi giục
đàn ông chống lại Thiên Chúa. Chính vì tội lỗi
xấu xa bắt nguồn từ phụ nữ mà chúa Jesus là
con một (the only son) của Thiên Chúa đã phải chết.
Đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa (vì Thiên Chúa là Đàn ông
Toàn Năng – The Male Almighty), còn đàn
bà là cửa hỏa ngục (the devil’s gate). Chính Augustine là
người đã đem lại cho những người Công
giáo niềm tin rằng chỉ có Đức Mẹ Maria là người
duy nhất trên thế gian không mắc tội Tổ Tông. Vì
thế Đức Mẹ được tôn xưng là Đấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội! Chỉ có một phụ nữ duy
nhất trên thế gian không bị Augustine nhục mạ, đó
chính là đức mẹ Maria. Đức Mẹ trở thành
một biệt lệ vĩ đại !
Mọi người Việt Nam
bình thường chúng ta khi nghe nói đền chuyện Adam
Evà trong Vườn Địa Đàng đều hiểu rằng
đó chỉ là một chuyện thần thoại để
kể cho con nít nghe chơi mà thôi. Còn chúng ta có nghe ai thuyết
giảng về “Tội Tổ Tông” chắc chắn đa số
chúng ta chỉ mỉm cười nghe qua rồi bỏ. Nhưng
chúng ta không thể tưởng tượng nổi là cái
chuyện hoang đường Adam Evà ăn trái cấm đã
khống chế tâm linh Âu Châu suốt 16 thế kỷ qua do
những học thuyết thần học hoang tưởng
của Augustine!
Học thuyết
“Tội Tổ Tông” của Augustine đã trở thành hòn đá
tảng vĩ đại của nền văn hóa Kitô giáo Tây
Phương và là nền tảng giáo lý cho tất cả các đạo
Kitô gồm có Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống Giáo.
Các đạo Kitô bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực
sự chỉ khác nhau về tổ chức và về một
số nghi lễ mà thôi.
Nội
dung chính yếu về giáo lý của Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và
Chính Thống Giáo đều đồng nhất như sau :
“Tất cả mọi người đều sinh ra
trong tội lỗi (born in sin) và bị Thiên Chúa ruồng
bỏ vì Tội Tổ Tông. Chỉ vì Tội Tổ Tông mà
con người phải đau khổ và phải chết.
Không một ai có thể tự
cứu mình khỏi tội Tổ Tông, chỉ có một con
đường cứu rỗi duy nhất là tin thờ Chúa
Jesus là Chúa Cứu Thế mà thôi”.
Chính vì tin vào thuyết Tội Tổ Tông như
trên nên các đạo Kitô đều coi trọng Phép
Rửa Tội (Baptism). Nhiều người nghĩ
rằng Phép Rửa Tội là một hình thức cải đạo
cho những người tân tòng nhập đạo Kitô hoặc
là một “phép bí tích” để cho một đứa bé sơ
sinh nhập đạo Chúa một cách long trọng chính thức.
Thực sự không phải vậy. Chính vì các người
Kitô giáo tin rằng mọi người sinh ra đều nhiễm
tội Tổ Tông, cho nên các đứa
trẻ mới được sinh ra cũng cần phải
được rửa tội để nó được
lãnh nhận ơn cứu chuộc của chúa Jesus! Mặc dầu đứa bé sơ
sinh hoàn toàn vô tội về phần nó, nhưng nó đã bị
nhiễm tội Tổ Tông do Adam và Evà truyền lại qua sự
giao cấu tội lỗi của cha mẹ nó. Đó là lý
do chính yếu dẫn đến sự rửa tội cho mọi
đứa bé mới sinh theo học thuyết của
Augustine (The inherited guilt was passed on to all his descendants through the
sexual act of their parents).
Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ kỹ sẽ
nhận ra một điều mâu thuẫn là khi hai người
nam và nữ làm đám cưới tại nhà thờ là đã
“thánh hóa” bởi phép “bí tích hôn phối”. Vậy chẳng lẽ
“phép bí tích hôn phối” của Chúa lập ra không có khả năng
“thánh hóa” việc chăn gối của vợ chồng bắt
buộc phải có để sinh con hay sao? Vậy vợ chồng làm phép hôn
phối theo đúng luật đạo để làm gì khi hành
động giao cấu giữa vợ chồng rất tự
nhiên và hợp pháp ấy vẫn cứ truyền tội Tổ
Tông cho đến muôn đời?
Thật sự ngày nay chẳng còn mấy tín đồ
Kitô giáo tin vào tội Tổ Tông, nhưng người ta vẫn
cứ mang các đứa bé sơ sinh đến nhà thờ rửa
tội theo truyền thống lâu đời của gia tộc.
Giáo hội cũng biết chẳng làm gì có tội tổ tông,
nhưng vẫn cứ để nguyên cho các linh mục có công
việc làm để kiếm ăn và giáo hội vẫn tiếp
tục tồn tại trong bình an vô sự. Chẳng những
thế, hầu hết những người ngoại đạo
muốn lấy vợ hay chồng theo Kitô giáo đều phải
cam kết cho phép các con sẽ sinh ra sau này được chịu
phép rửa tội. Đây chỉ là một mánh lới lưu
manh của các giới lãnh đạo Kitô giáo dùng để
dành dựt tín đồ qua đường hôn nhân mà thôi. Việc rửa tội cho các
đứa bé sơ sinh là một hình thức vi phạm quyền tự do tín ngưỡng
của đứa bé một cách thô bạo và trắng
trợn. Muốn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
thật sự, người lớn phải đợi đến
khi đứa bé lớn khôn để tự nó chọn lựa
tín ngưỡng cho riêng mình.
Cái gọi là “Phép Bí Tích Rửa Tội”
(Baptism) hoàn toàn dựa trên thuyết thần học hoang tưởng
của Augustine về Tội Tổ Tông. Những khám phá của
khoa học hiện đại đã hoàn toàn phủ bác sự
hiện hữu của “bà Evà xúi chồng ăn trái cấm”
như được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước.
Do đó chúng ta có thể khẳng định rằng:
Tội Tổ Tông là chuyện hoàn
toàn hoang đường và ấu trĩ. Cả loài người
chúng ta sinh ra hoàn toàn vô tội, do đó chúng ta chẳng cần
phải “chịu phép rửa tội” để tẩy xóa bất
cứ một thứ dấu vết tội lỗi nào mà chúng
ta không hề có.
Nhân tiện, tôi có vài điều muốn nói với
ông Đỗ Mạnh Trí, tác giả cuốn “Ngón Tay và Mặt
Trăng”. Nơi trang 55 và 62, ông Trí viết: “Nhiều bạn
nhắc tới ý niệm tội và tội tổ tông trong
Kitô giáo một cách miả mai, thậm chí phẫn nộ”. Trần Văn Kha trích Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ: “Adam Evà không phải thủy tổ loài người
vì con người đại khái đã xuất hiện cách đây
khoảng nhiều triệu năm. - Nếu Adam Evà không phải
thủy tổ loài người thì làm gì có tội tổ tông? - Nếu không có tội tổ tông
thì làm gì có chuyện Chúa phải giáng trần để cứu
chuộc? Vậy Kinh Thánh hoàn
toàn huyền hoặc, phi lý và “đạo Thiên Chúa hoàn toàn đã được xây
dựng trên những ảo tưởng” như lời của
Nguyễn Văn Thọ trên kia?”
Nơi trang 63-64, ông Đỗ Mạnh Trí xác
nhận: “Truyện Adam Evà ăn trái cấm rồi bị
Giavê phạt, chẳng phải là nhà kinh-thánh-học ta cũng
có thể tưởng đó là một huyền thoại”.
Sau khi đã thú nhận chuyện Adam-Evà ăn trái cấm chỉ
là một huyền thoại (myth), ông Trí đã tìm cách lý luận
vu vơ và hoàn toàn lạc đề để cuối cùng
tránh né không dám trả lời thẳng hai câu hỏi của ông
Nguyễn Văn Thọ đã nêu.
Vậy ông nêu lên vấn đề tội tổ
tông trong sách “Ngón Tay và Mặt Trăng” (từ trang 55 dến
trang 68) để làm gì?
Một khi ông đã dám nhìn nhận
chuyện Adam Evà ăn trái cấm là một huyền thoại
(myth )tức là một chuyện phịa (a fictious story) thì với
lương tâm tối thiểu của một người
trí thức lương thiện ông cần phải đi tiếp
vài bước: - Nếu chuyện Adam Evà ăn trái cấm là
chuyện phịa thì “tội tổ tông”là chuyện hoang đường
không có thật. – Vì không có tội
tổ tông, nên cũng chẳng cần Chúa phải mất công
giáng trần để cứu chuộc, vì con người
chẳng cần phải cứu chuộc để làm sạch
cái tội mà họ không hề có.
- Vì không có tội tổ
tông nên không riêng một mình bà Maria là “Đấng Vô Nhiễm
Nguyên Tội” mà tất cả mọi người chúng ta đều
là “các dấng vô nhiễm nguyên tội” cả !
Ông Đỗ Mạnh Trí có dám nhìn nhận những
sự thật hiển nhiên đó không? Ông hãy can đảm lên
tiếng trả lời để xứng đáng là một
người biết trọng danh dự và lẽ phải.
III.
Từ
học thuyết hoang đường về Tội Tổ
Tông dẫn đến tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” do Giáo Hoàng Pio IX công bố năm 1854.
Augustine nguyên là một thanh niên phóng đãng trụy
lạc nhiều năm trước khi y trở thành giám mục
của địa phận Hippo (Algeria).
Do đó, về phương diện sinh lý, Augustine là một
người bất bình thường. Y có rất nhiều
quan niệm lệch lạc về sinh lý, và những bệnh
hoạn sinh lý của y đã có ảnh hưởng lớn đến
khoa thần học của Kitô giáo (Công giáo, Tin Lành, Anh giáo,
Chính Thống giáo).
Căn cứ trên nền tảng giáo lý xuất
phát từ huyền thoại về Tội Tổ Tông, Augustine
nêu lên học thuyết “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
(The Virgin of the Immaculate Conception) qua lăng kính méo mó về
sinh lý của y như sau :
Đức Mẹ
không sinh ra Chúa Jesus do sự giao cấu với chồng là ông
Joseph nên Đức Mẹ vẫn còn đồng trinh. Chúa
Jesus sinh ra do phép của Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ
Đồng Trinh nên Chúa hoàn toàn không bị nhiễm tội tổ
tông (sinless/immaculate conception).
Những lý luận lẩm cẩm
về thần học của Augustine đã thống trị
linh hồn Kitô Giáo Âu Châu liên tục trên một ngàn năm
! Mãi đến giữa thế
kỷ 16 mới có một số trí thức Âu Châu dám viết
sách báo lên tiếng đả kích những thuyết thần
học của Augustine về một số điểm quan
trọng sau đây :
-
Trước
hết, họ chê Augustine đã thổi phồng quá đáng
việc bà Evà xúi chồng ăn trái táo ở vườn địa
đàng. Chuyện đó
chẳng qua chỉ là chuyện quá nhỏ, không thể
khiến cho con một của Thiên Chúa phải xuống thế
làm người và chịu chết để cứu
chuộc. Nếu chuyện đó là thật thì người
đáng trách không phải là bà Evà mà là Chúa Cha lẫn Chúa Con đều
ngu quá vì đã không tìm ra được phương cách nào đơn
giản hơn để giải quyết cái vụ ăn
trái táo của Adam – Evà !
-
Khi có cơ
hội thư thả tinh thần, đọc lại chuyện
Adam-Evà, người ta mới khám phá ra rằng: ông bà tổ
tiên loài người không có con gái. Adam-Evà chỉ có hai người
con trai là Cain và Abel. Abel bị Cain giết chết nên trên thế
gian lúc đó chỉ có hai người đàn ông là Adam và
Cain. Từ đầu
đến cuối chuyện chỉ có một mình Evà là
phụ nữ duy nhất trên thế gian mà thôi. Vậy ai
là vợ của Cain? Chẳng lẽ Cain lấy mẹ mình là
bà Evà để sinh ra loài người hay sao? Chuyện
Adam-Evà là tổ tiên loài người đã đi vào ngõ cụt
!
-
Cũng
theo thần học của Augustine thì sau khi Adam – Evà phạm
tội, loài người bị Thiên Chúa tước đoạt
nhiều ân sủng nên mọi người đều phải
chết, đàn ông phải làm việc cực nhọc mới
có miếng ăn, đàn bà phải mang nặng đẻ đau
mới có con.
Nhưng sau khi
Jesus phải chết trên thập giá để “chuộc tội
tổ tông” thì mọi hậu quả của tội tổ tông
trên số phận loài người cũng vẫn còn y nguyên:
con người vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải
vất vả mới có ăn, đàn bà vẫn mang nặng đẻ
đau như lúc Jesus chưa cứu chuộc. Vậy cái gọi
là công ơn cứu chuộc của Chúa chỉ là chuyện
xảo trá bịp bợm và hoàn toàn vô ích (salvation for nothing).
Phe cấp tiến
Âu Châu dùng lý luận của Augustine phá học thuyết “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” để đạt mục tiêu cuối cùng của
họ là “hạ bệ Jesus”. Họ lý luận rằng:
Nếu Jesus sinh ra thuộc dòng
David thì Jesus phải là con của Joseph và bà Maria, vậy bà
Maria không thể đồng trinh và Jesus cũng có 100%
tội tổ tông vì cả Joseph và Maria là cha mẹ ruột
của Jesus đã được sinh ra do sự giao cấu
của cha mẹ họ.
Nếu Jesus là con của Chúa Thánh
Thần thì Jesus chỉ được miễn nhiễm 50%
tội tổ tông mà thôi vì bà Maria đã nhiễm tội
tổ tông do sự giao cấu tội lỗi của cha
mẹ là ông Joachim và bà Anna. Vậy Jesus đã bị
nhiễm 50% tội tổ tông do bà Maria truyền qua nên Jesus
không thể được coi là đấng chí thánh, và do
đó, Jesus không thể là Thiên Chúa !
Cuộc bút chiến giữa các phe
thần học Âu Châu chung quanh vấn đề “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” kéo dài tới 30 năm trong
thế kỷ 16.
Tòa Thánh La Mã không thể dùng lý luận
để dập tắt cuộc bút chiến này nên đã phải
vận dụng đến biện pháp mạnh của các tòa
án dị giáo để đưa nhiều ngàn người lên dàn hỏa. Nhờ đó,
cơn sóng gió về thần học đã lắng xuống
và tòa lâu đài thần học đồ sộ của
Augustine vẫn còn đứng vững thêm vài thế kỷ
!
Đúng 300 năm
sau, tức vào giữa thế kỷ 19, quyền uy của tòa
thánh La Mã đã bị sút giảm
nhiều trước cao trào dân chủ lớn mạnh ở
Âu Châu. Các tòa án dị giáo bị dẹp bỏ. Cuộc bút
chiến vể những học thuyết thần học lại
có cơ hội bùng lên. Những vấn đề
được nêu lên chung quanh học thuyết “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” có nguy cơ phá sập thanh
thế của chúa Jesus và uy tín của giáo hội Công Giáo La
Mã. Vatican lúc đó đã bị dồn vào thế đường
cùng nên buộc lòng Giáo Hoàng Pio IX phải công bố tín
điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ngày
8-12-1854.
Bằng cách xử
dụng quyền uy tối thượng của người
đại diện Chúa Kitô (Vicar of Christ), giáo hoàng buộc toàn
thể giáo hội Công Giáo tin rằng: Đức Mẹ là một
ngoại lệ đặc biệt do quyền phép của
Thiên Chúa ban cho là “không hề mắc tội tổ tông”. Do đó,
Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Jesus hoàn toàn vô tội
(sinless) nên Chúa là đấng chí thánh và cực thanh cực sạch
vô cùng !
IV – “Phép lạ Lộ Đức”
là màn kịch bịp bợm của
Vatican
và chính quyền hoàng gia Pháp năm 1858:
Tác phẩm “The
Great Apparitions of Mary” của Ingo Swann (The Crossroad Publishing Co.,
NY 1996) kể chuyện Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp
năm 1958 (trang 69-84) như sau :
Lourdes (Lộ Đức) là một thị
trấn nhỏ trên sườn núi phía bắc của dẫy
Pyrénées. Vào giữa thế kỷ 19 thì thị trấn này chỉ
có khoảng 300 dân, hầu hết đều nghèo khổ vì
thị trấn này không có một nguồn lợi kinh tế
nào cả. Các thị trấn lân cận đều khá vì có
nhiều suối nước nóng thu hút du khách và kiếm lời
do việc khai thác kỹ nghệ nước suối có muối
kháng (mineral waters). Tại Lộ
Đức có một vách đá dốc đứng cao như
ngọn tháp (a towering rock cliff) có tên là Massabielle, trong vách đá
có một cái hang lớn (a grotto). Chính nơi đây đã được
Vatican tuyển chọn để diễn
màn kịch bịp bợm.
Nhân vật chính
của màn kịch này là cô bé Bernadette. Cô sinh năm 1844, là con
gái đầu của 8 anh chị em. Cha mẹ là ông Fracois và
bà Louise Soubirous. Khi cô bé Bernadette lên 8 tuổi thì cha bị tai
nạn mù mắt trái và bị thất nghiệp. Cả gia đình
lâm vào cảnh sống cùng quẫn. Khi cô bé lên 11 tuổi thì
cô bị bệnh thổ tả và bệnh suyễn trầm
trọng. Cha cô bị bắt về tội trộm. Em trai cô
tên Jean Marie đói quá nên chạy đến nhà thờ ăn
cắp cây đèn cầy bằng sáp để ăn, chẳng
may bị cha xứ bắt gặp và bị cha hăm bỏ
tù. Vào đầu tháng 2 năm 1858, lúc gia đình cô sắp chết
đói thì mẹ cô được một bà nhà giàu mướn
làm đầy tớ (a servant). Do
sự xếp đặt của bà chủ nhà giầu này,
với sự đồng ý của cha mẹ, cô bé được
chỉ dẫn đến hang đá Massabielle. Lúc này cô bé
lên 14 tuổi, nhưng mù chữ vì chưa được đi
học ngày nào.
Ngày 11 tháng 2 năm
1858, cô Bernadette cùng với một đứa em gái và một
đứa bạn tên Jeanne Abadie đến hang đá
Massabielle. Một mình cô đến qùi trước cửa
hang một lúc rồi cô nói cho em gái và đứa bạn biết
là cô đã nhìn thấy “một cô gái đẹp trong ánh sáng mờ”
(a beautiful girl appeared in the soft glow).
Sau khi trở về
nhà, em của Bernadette kể chuyện cho mẹ, còn cô bạn
Jeanne Abadie đi khắp thị trấn loan tin Bernadette đã
nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra tại hang
Massabielle. Chỉ hai tuần sau, cả thị trấn
Lourdes qui tụ một đám đông tín
đồ Công Giáo lên tới 8,000 người và họ rủ
Bernadette cùng đi với họ đến hang đá
Massabielle.
Khi tới nơi, chỉ
có một mình Bernadette nói là có nhìn thấy “một cô gái đẹp”
còn tất cả mọi người khác đều không thấy
gì cả ! Mặc dầu vậy,
tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra
tại Lộ Đức đã lan nhanh khắp nơi như
một đám cháy rừng.
Ngày 25 tháng 3 năm
1858, vào lúc 5 giờ sáng, cha mẹ Bernadette đánh thức
con gái dậy để cùng đi với một đám đông
tín đồ đến hang đá Massabielle. Sau khi qùi một
mình trước hang đá một lúc, cô bé Bernadette dõng dạc
tuyên bố với mọi người : Cô bé đã hỏi “cô gái đẹp” là ai, thì cô gái đẹp
đó trả lời: “Ta là
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the
Immaculate Conception). Kể từ đó, hàng ngày có nhiều
tín đồ Công Giáo đến hang đá Massbielle để
lần chuỗi Mân Côi. Sau đó, có khoảng 50 người
tự nhận là có nhìn thấy “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” ở trong hang, nhưng không một ai đưa
ra bằng chứng nào cả !
Vì lý do những
sinh hoạt bất thường của đám đông giáo dân
ở Lourdes có thể gây nhiều chuyện bất
an ninh, nên cảnh sát địa phương đã làm hàng rào
cản không cho giáo dân kéo đến Massabielle mỗi ngày mỗi
đông. Sự việc này được báo cáo lên hoàng đế
Napoléon III. Nhà vua đã đích
thân ra lệnh cho cảnh sát ở Lourdes phải rỡ
bỏ tất cả các rào cản đó để cho các tín
đồ được tự do đến viếng hang
đá Massabielle.
Năm 1862, giám
mục Laurance cai quản địa phận Tabres chính thức
công bố thư luân lưu xác nhận “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” là Mẹ Chúa Trời đã thực sự
hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858 và
những lần kế tiếp, tổng cộng 18 lần cả
thảy. Tòa Giám Mục cho phép sự tôn thờ “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” tại hang đá Lộ Đức
trong địa phận (The
Virgin Mary Immaculate, Mother of God, really appeared to Bernadette Soubirous
on 11 February 1858 and on subsequent days, eighteen times in all. We authorize the cult
of our Lady of the Grotto of Lourdes in our diocese). Từ 1858, mọi phương tiện truyền thông
của nước Pháp được vận dụng tối đa để quảng
bá khắp nơi về “phép lạ” Đức Mẹ
hiện ra tại Lộ Đức. Song song với mọi
nỗ lực tuyên truyền và quảng cáo, cựu bộ trưởng
tài chánh Pháp là Achille Toul vận động với hãng xe lửa
Southern Railway Company làm đường xe lửa nối liền
thành phố Tarbes với Lourdes.
Các công ty xây dựng đổ xô đến
Lourdes xây cất rất nhiều khách sạn,
nhà hàng và các phương tiện du lịch.
Năm 1906, hang đá
Lộ Đức và nhà thờ lớn tại đây thuộc
về tài sản quốc gia Pháp. Nhưng từ 1910, quyền
sở hữu này lại được chuyển về cho
thị trấn Lourdes. Kể từ năm 1990, thị trấn
Lourdes tuy nhỏ nhưng có tới 400 khách
sạn, hàng trăm restaurants, hàng ngàn gift shops và một phi trường
quốc tế. Hàng năm, số
khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới
kéo về hang đá Lộ Đức đã cung cấp cho số
dân ở thị trấn nhỏ bé này một khoản tiền
là 400 triệu đôla! (Looking for a Miracle, by Joe Nickell,
Prometheus Book 1993 – page 152). Lộ Đức (Lourdes) đã trở thành một “con gà đẻ
trứng vàng” của nền kinh tế Pháp.
Những tín đồ
cuồng tín luôn luôn tung tin đồn rằng Đức Mẹ
Lộ Đức đã chữa cho nhiều người khỏi
bệnh khi họ đến nơi đây cầu khấn với
Đức Mẹ. Tuy nhiên, họ đều không biết rằng:
nhân vật chính của “phép lạ Lộ Đức” là cô bé
Bernadette đã chết lúc 32 tuổi (16-4-1879) vì bệnh suyễn,
bệnh sưng phổi và lao xương. Nếu Đức
Mẹ có quyền năng làm phép lạ chữa bệnh cho
nhiều người, tại sao Đức Mẹ không chữa
bệnh cho người có công nhất với Đức Mẹ
trong việc tuyên xưng Người là “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” ?
Một
điều mỉa mai ai cũng thấy là ở Lộ
Đức người ta treo đầy những chiếc
nạng của những người què (giả vờ),
nhưng tuyệt nhiên chưa từng có một người
cụt tay, cụt chân nào được Đức Mẹ
chữa lành cả !
Sau khi giáo hoàng
Pio IX công bố tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” năm 1854, Vatican đã cấu kết với
hoàng gia Pháp dựng lên màn kịch “Phép lạ Lộ Đức”
với tin đồn Đức Mẹ đã đích thân hiện
ra và tự xưng mình là “Đức Trinh Nữ vô nhiễm
nguyên tội”. Trò bịp này đã củng cố niềm tin
của đại đa số tín đồ dân quê chất
phác thời đó tại Âu Châu. Tuy nhiên, giới báo chí đã
lớn tiếng tố cáo trước dư luận : Trong vụ “Phép lạ Lộ Đức”,
Vatican đã
giúp Pháp có thêm một trung tâm hành hương với số lợi
thu hàng năm không phải là nhỏ. Ngược lại, Pháp
giúp cho Vatican có
cơ hội củng cố niềm tin của tín đồ
Công giáo đối với uy quyền của Tòa Thánh.
Đây chẳng qua là chuyện cộng tác thực hiện một âm
mưu nhằm phục vụ quyền lợi của cả
hai bên mà thôi. Dư luận báo chí đã khiến cho tinh thần
của nhiều giáo dân chao đảo và đưa họ đến
chỗ nghi ngờ về thẩm quyền của giáo hoàng
trong việc công bố các tín điều. Họ lập luận
rằng : dù cho ở chức vụ đứng đầu
giáo hội, giáo hoàng cũng vẫn chỉ là một con người,
nghĩa là vẫn có thể có những sai lầm trong quyết
định của mình. Vậy giáo hoàng không thể có quyền
độc đoán buộc mọi tín đồ phải tin
theo những quyết định riêng của giáo hoàng, dù cho
quyết định riêng đó là một tín điều
(dogma).
Trước áp lực của báo
chí và dư luận bất lợi của giáo dân Âu Châu, giáo
hoàng Pio IX đã phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Để
cứu vãn sự sinh tồn của Tòa Thánh, phần đông
các hồng y và giám mục tham dự Công Đồng I đã
bỏ phiếu tán thành một tín điều mới, đó
là tín điều “Giáo Hoàng không
thể sai lầm” (The dogma of Papal Infallibility) buộc mọi
tín đồ Công giáo phải tin tưởng vào huấn quyền
tuyệt đối của Tòa Thánh và phải tin Giáo Hoàng là
người duy nhất trên thế gian có thẩm quyền xác
nhận hay phủ nhận chân lý. Người Mỹ chế diễu đức tin Công
Giáo theo kiểu này là “Đức tin Shotgun” (Shotgun faith)!.
Sau khi Công Đồng
Vatican I bế mạc, Tòa Thánh ra lệnh cho các giáo hội Công
Giáo trên khắp thế giới phải xây thêm tại khuôn
viên nhà thờ một “hang đá Lộ Đức” để
nhắc nhở toàn thể giáo dân về hai tín điều là
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” và “Giáo Hoàng không
thể sai lầm”. Đó là tất cả ý nghĩa
của cái gọi là “hang đá Lộ Đức” ! Như
chúng ta đã biết, tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” là một học thuyết của
Augustine dựa trên huyền thoại bà Evà xúi chồng ăn
trái cấm trong vườn Địa Đàng. Đây là một
chuyện hoàn toàn hoang đường về tội Tổ
Tông đã bị các ngành khoa học hiện đại bác bỏ.
Vậy, tín điều “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” đã trở thành vô nghĩa
vì nguyên tội (tức tội tổ tong) không hề có, nên
chẳng có một ai bị nhiễm cả, không riêng gì một
mình bà Maria. Ngày nay, tín điều “Giáo Hoàng không thể
sai lầm” thực sự chẳng thuyết phục được
ai, nó chỉ càng làm cho mọi người thấy rõ hơn
cái bản chất ngoan cố bất lương của Vatican mà thôi.
V.- Tinh thần nô lệ đáng
xấu hổ của Công Giáo Việt
Nam :
Bất cứ
ai đã từng sống trên đất Mỹ cũng nhận
thấy một sự khác biệt rất rõ rệt giữa
Công Giáo Mỹ và Công Giáo Việt Nam là : không một giáo xứ Công Giáo
Mỹ nào xây hang đá Lộ Đức trong khuôn viên nhà
thờ thuộc giáo xứ họ. Trái lại, tại Việt Nam, các giáo xứ từ Bắc
vào Nam đều
xây bên cạnh nhà thờ một hang đá gọi là “hang đá
Lộ Đức” ! Điều đó đủ cho thấy
giáo hội Công giáo Việt Nam đã thi hành triệt để mọi
mệnh lệnh của Vatican một
cách hết sức mù quáng. Đối với Vatican, hàng giáo phẩm VN luôn luôn có thái độ
khúm núm sợ sệt chẳng khác nào những tên nô lệ đối
với chủ của chúng vậy. Mặc dầu cũng là
những tín đồ Công giáo, nhưng Công giáo Mỹ tỏ
ra độc lập và tự trọng đối với Vatican,
chứ không đến nỗi lệ thuộc quá đáng như
Công giáo VN. Sự khác biệt này đã được trình bày
khá rõ rệt trong tác phẩm “How
to Save the Catholic Church” của linh mục tiến sĩ
Andrew Greenley và nữ tu sĩ tiến sĩ Mary Dukin, Viking
Penguin xuất bản tại Canada 1984.
Hai tác giả đều
là tu sĩ Công giáo viết : Trình độ trí thức của
giáo dân Mỹ da trắng càng cao bao nhiêu thì giáo hội Công giáo
Mỹ càng xuống dốc bấy nhiêu. Từ thập niên
1960, một nửa giáo hội Mỹ là di dân vừa nghèo vừa
dốt (By 1960’s, half of the American Catholics were poor and uneducated
immigrants – page 11). Những cái gì
xấu xa do người Mỹ trắng thải ra đều
được chuyển qua đám di dân Công giáo da màu. Điển
hình là vụ hang đá “Đức Mẹ Sầu Bi” ở
Portland thuộc tiểu bang
Oregon. Hang đá này đã bị Công giáo
Mỹ phế bỏ thành một cái hang “khỉ ho cò gáy” từ
nhiều thập niên qua. Vậy mà đám giáo dân Công giáo Việt
Nam qua Mỹ sau 1975 đã khôi phục nó thành một trung tâm
hành hương sầm uất thu hút hàng chục ngàn người
(toàn là Việt!). Đó là việc mà hàng giáo phẩm Mỹ đã
không làm nổi. Nhưng đám tu sĩ Công giáo Việt Nam đã
làm được, không phải vì tu sĩ Công giáo Việt Nam
tài giỏi mà vì số giáo dân Việt Nam mê muội tại hải
ngoại còn đông quá !
Hai tác giả tu
sĩ Mỹ còn cho biết : Hầu hết các mệnh lệnh
của Vatican đều được hội
đồng Giám Mục Hoa Kỳ duyệt xét lại và sửa
đổi trước khi phổ biến đến toàn thể
giáo dân. Trong thực tế, giáo
hội Công giáo Mỹ là một giáo hội tự trị
(American Catholic Church became a Do-It-Yourself Catholicism – page 8).
Nay xin điểm
qua tình hình Công giáo Á Châu, tờ Asia Week số ra ngày 19-12-1997 tường thuật như sau :
Sri-Lanka (Tích Lan)
là một đảo quốc có 15 triệu dân, đại đa
số theo đạo Phật, 8% (tức 1.2 triệu) theo đạo
Công giáo. Linh mục Tissa Balasuriya (tốt nghiệp thần học
và thụ phong linh mục tại Rome trong thập niên 1940) thuộc giáo
hội Công giáo Sri-Lanka đã viết sách bằng Anh ngữ
tựa đề “Mary and Human Liberation” chống lại Tòa
Thánh vào thập niên 1990. Sách này được dịch sang
tiếng Pháp để phổ biến tại Âu Châu dưới
tựa đề “Marie ou la libération humaine”. Linh mục Tissa đưa
ra quan điểm của ông về “Đức Mẹ thật”
là một phụ nữ thất học và nghèo khổ tại
Do Thái. Đức Mẹ không
thể đồng trinh vì có nhiều con và điều
này đã được xác nhận trong Tân Ước. Tội
tổ tông là một huyền thoại, nên các tín điều
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là vô nghĩa.
Tất cả các tín điều về
Đức Mẹ đều là những sản phẩm của
môn thần học kỳ quặc, không phù hợp với não
trạng của người Á Châu. Muốn giải phóng tư
tưởng người Công giáo thì cần phải bỏ các
tín điều đó và bỏ luôn tín điều “Giáo hoàng không
thể sai lầm”.
Cuốn sách “thần
học cách mạng” của linh mục Tissa đã bị Hồng
Y Ratzinger, bộ trưởng Bộ Giáo Lý của Vatican, hạch
tội tỷ mỉ trong một bản phúc trình 55 trang đệ
trình giáo hoàng John Paul II ngày 2-1-1997. Giáo hoàng đã đích thân
tuyên phạt linh mục Tissa án phạt tuyệt thông và trục
xuất ông ra khỏi giáo hội. Lý do được nêu lên
là linh mục Tissa đã dám chống lại huấn quyền
tuyệt đối của Tòa Thánh.
Trong tháng 10 –
1997, Bộ Giáo Lý Vatican cũng ra lệnh cho hội đồng
Giám Mục Hàn Quốc cấm các linh mục thần học
Kong Soel, Yangmo và Re Jemin không được viết sách báo chống
Tòa Thánh. Hội đồng Giám Mục Nhật Bản lên tiếng
chỉ trích Tòa Thánh là “chẳng hiều gì về văn hóa Á
Châu” cả!
Các bản tin ngắn nói trên đủ
cho ta thấy nhiều giáo hội Công giáo Á Châu không đến
nỗi hèn vì họ vẫn có thái độ khảng khái nói
lên quan điểm của họ chống đối Vatican.
Là một người
Việt Nam, chúng ta phải đau lòng công nhận một sự
thật không thể chối cãi là Công Giáo Việt Nam có một tâm cảm nô lệ hết
sức mù quáng đối với Tòa Thánh La Mã. Thậm chí có
người đã mỉa mai nói rằng: “Dù cho Tòa Thánh đánh
rắm, Công Giáo Việt Nam cũng khen thơm”. Thật qủa
đúng vậy. Cái tín điều
nhảm nhí “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” chỉ
là một cái rắm thối của giáo hoàng Pio IX năm 1854
đã được cả giáo hội Công Giáo Việt Nam vừa
hít vừa rối rít khen thơm. Trước 1954, cái danh
hiệu “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” đã
được địa phận Bùi Chu tôn vinh làm Thánh
Bổn Mạng của địa phận. Mới đây, vào
đầu năm 2003, giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức
là một giáo xứ lớn của Việt kiều tại
thành phố Houston đã xây một “Hang Đá Lộ Đức”
tại khuôn viên nhà thờ của giáo xứ với tổn
phí 800,000 đôla !
Ngày nay, người
Công giáo Việt Nam có đầu óc chẳng còn mấy ai tin
vào chuyện Adam-Evà ăn trái cấm và do đó họ cũng
nghi ngờ phần nào về cái tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” và tín điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm”.
Nhưng vì truyền thống lâu đời của gia tộc
họ vẫn tiếp tục duy trì thói quen là cầu nguyện
trước hang đá Lộ Đức sau khi xem lễ xong tại nhà thờ.
Họ thích đứng trước Hang Đá Lộ Đức
để cầu nguyện riêng với Đức Mẹ mà
họ yêu mến hơn yêu Chúa. Đối với họ,
Thiên Chúa cao xa qúa nên rất khó gần gũi thân mật. Chỉ
có Đức Mẹ là Mẹ dịu hiền và Mẹ có đầy
quyền uy trước mặt Chúa. Đức Mẹ xin Chúa
điều gì cũng được, nên họ thích cầu
nguyện với Đức Mẹ để xin Mẹ ban
cho họ mọi thứ mà họ muốn. Niềm tin đó
còn khi người Công giáo VN chưa tỉnh ngộ thì các
Hang Đá Lộ Đức vẫn tồn tại.
Nhưng thực tế hiển
nhiên đã chứng tỏ rằng: màn kịch “hang đá
Lộ Đức” là biểu tượng cho hai tín
điều bịp bợm: “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” và “Giáo Hoàng Không Thể Sai Lầm” do Pio IX và
Napoléon III âm mưu dựng lên để lừa gạt
đồng bào Công giáo Việt Nam đã trên một thế
kỷ qua. Nay đã đến
lúc đồng bào Công giáo Việt Nam nên bình tĩnh dùng lý trí xét lại
những giáo điều mà Vatican đã
áp đặt lên giáo hội Công giáo Việt Nam. Các
hang đá Lộ Đức thật sự chỉ là một
hình thức của nhiều công cụ tâm lý nhằm đầu
độc và nô lệ hóa các tín đồ nhẹ dạ
dễ tin. Xin đồng bào Công giáo Việt Nam đừng
để những trò lừa bịp đó giam hãm qúy vị
trong ngục tù tư tưỏng của chính mình và
đừng để hành động mù quáng tuân phục
Vatican làm tổn hại đến quyền lợi của
dân tộc.