TÌM HIỂU KINH KORAN
Đối với
đại khối các dân tộc Ả Rập, nguyên bản
bằng ngôn ngữ Arabic của kinh Koran là một kiệt
tác phẩm thi văn. Kinh Koran không hẳn là một cuốn
thơ trường thiên nhưng là một tác phẩm
văn xuôi có vần có điệu (poetic rhymed prose) rất thích
hợp với khẩu vị văn chương của
những người du mục ở nơi hoang dã. Chính vì
vậy mà kinh Koran đã mau chóng được truyền bá
qua truyền khẩu rộng khắp bán đảo Ả
Rập (lớn gấp 8 lần Việt Nam).
Về
phương diện tâm linh, kinh Koran là sự nối
kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo
độc thần khởi đầu từ tổ phụ
Abraham, qua Mai-sen (Moses) qua Jesus đến thiên sứ cuối
cùng là Muhammad. Từ 2000 năm trước Công Nguyên,
những người Ả Rập đã biết
đến Thiên Chúa của Abraham mà họ gọi là Allah.
Điều đó có nghĩa là họ đã thờ Allah
từ 27 thế kỷ trước khi có Muhammad và
đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc
với văn hóa Do Thái, người Ả Rập đã
rất quen thuộc với các nhân vật của kinh Thánh
Cựu Ước. Từ thế kỷ 1 đến
thế kỷ 7, người Ả Rập tiếp xúc
với những người Ki Tô Giáo thuộc đế
quốc Byzantine rộng lớn và từ những
nước lân bang như Syria, Ai Cập và Ethiopia... Mặc
dù rất ít người Ả Rập lúc đó theo Ki Tô Giáo
nhưng cũng không cảm thấy xa lạ với Jesus và
Gioan Baotixita.
Đọc
kinh Koran, chúng ta sẽ thấy những nhân vật quan
trọng của hai đạo Do Thái và Ki Tô được
Muhammad thường xuyên nhắc tới. Kinh Koran là một
tổng hợp những kiến thức tôn giáo đã
tiềm tàng sẵn trong đại khối các dân tộc
Ả Rập. Sự tổng hợp đó được
gọi là Islam, có nghĩa là sự tuân phục tuyệt
đối vào Thiên Chúa. (Islam means the absolute submission to God).
Người Trung Quốc phiên âm "Islam" thành
"Hui" (Hồi) và gọi đạo này là
"Hui-jao" tức Hồi Giáo. Kinh Koran trở thành Thánh Kinh
(The Holy Book) hoặc sách Mặc Khải (Book of Revelation)
của Hồi Giáo.
Đáng
lẽ ra đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo
Hồi đều cùng thờ chung một Chúa thì phải có
chung một Kinh Thánh duy nhất mới phải. Trong
thực tế, mỗi đạo đều có Thánh Kinh
riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh Kinh của mình
mới là chân lý tuyệt đối. Cả 3 đạo
đều tự cho Thánh Kinh của mình là những "sách
Mặc Khải".
- Kinh Torah (Cựu Ước)
được Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Mai-sen (Moses)
khoảng năm 1250 TCN trên núi Sinai.
- Các
sách Tân Ước/Phúc Âm là các sách Thiên Chúa mặc
khải cho Thánh Phao Lô và bốn vị Thánh Sử: Matthew,
Mark, Luke và John trong thế kỷ 1.
- Kinh Koran là sách Thiên Chúa mặc
khải cho tiên tri Muhammad qua trung gian của thiên thần
Gabriel trong 22 năm liên tục (610-632).
Trước
khi có kinh Koran, người Ả Rập có mặc cảm là
một chủng tộc thiếu văn hóa và họ tỏ
ra trọng nể người Do Thái và Ki Tô. Cho nên, trong ngôn
ngữ Ả Rập có danh từ "Dhimmi" để
gọi chung cho Do Thái và Ki Tô. Danh từ này có nghĩa là
"những người có sách Thánh Kinh" (People of the
Books).
Sự
xuất hiện kinh Koran vào đầu thế kỷ 7
đã đem lại cho các dân tộc Ả Rập một
niềm tự hào vì từ nay họ có Thánh Kinh viết
bằng tiếng Ả Rập. Họ đón nhận
đạo Hồi là đạo của dân tộc chứ
không phải là đạo ngoại lai. Kinh Koran và
đạo Hồi là hai yếu tố quan trọng đem
lại sự hứng khởi tinh thần và là chất keo văn
hóa nối kết các bộ lạc Ả Rập lại
với nhau và biến đại khối Ả Rập thành
một lực lượng chính trị và quân sự hùng
mạnh trong nhiều thế kỷ.
I . Công việc biên soạn Kinh Koran.-
Khác
với Cựu Ước được viết theo
lối văn lịch sử kinh Koran được
viết theo lối văn kể chuyện thông
thường (oral recitation). Tổng cộng có 114
chương (suras/chapters) gồm 6616 câu thơ (verses).
Sự
phân phối các câu thơ trong các chương không
đều nhau. Chương dài nhất có 287 câu thơ,
chương ngắn nhất chỉ có 3 câu mà thôi. Mỗi
câu thơ cũng dài ngắn bất thường: Câu thơ
dài nhất chiếm tới nửa trang sách, câu ngắn
nhất chỉ có 2 chữ! Phần lớn kinh Koran (85
chương) được Muhammad viết tại Mecca, còn
lại 29 chương viết tại Medina. Muhammad viết
Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật
phơi khô.
Sau
khi Muhammad chết vào năm 632, phần lớn các bản
chép tay nói trên bị thất lạc hoặc phân tán rải
rác nhiều nơi. Mọi người cảm thấy nguy
cơ có thể làm cho cuốn Thánh Kinh của họ bị
tiêu vong nếu không gấp rút sưu tầm và thu hồi các
nguyên bản của Muhammad. Sau đó, cần phải có
người tài giỏi biên tập tất cả các nguyên
bản thành một cuốn Thánh Kinh duy nhất.
Để
đáp ứng nhu cầu của các tín đồ Hồi
Giáo, người có thẩm quyền đầu tiên
đứng ra lo việc này là Abu Bakr (632-634). Ông vừa là
cha vợ vừa là người đầu tiên kế
vị Muhammad (the first caliph) và cũng là vị vua Hồi
Giáo đầu tiên thống nhất bán đảo Ả
Rập để biến nơi này thành điểm
xuất phát bành trướng Hồi Giáo ra khắp thế
giới. Abu Bakr giao cho một thanh niên 22 tuổi tên Zayd
đi sưu tầm và gom góp các thủ bản của kinh
Koran do Muhammad viết tập trung tại Medina.
Công
việc đang được tiến hành tốt
đẹp thì Abu Bakr qua đời. Các tài liệu do Zayd thu
thập đều được chuyển giao cho vị
vua Hồi Giáo kế nhiệm là Umar Khattab. Vị vua này là
một nhà quân sự đại tài, chỉ trong 10 năm
(634-644) đã mở rộng lãnh thổ của Hồi Giáo
ra toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi. Vì quá mải mê lo
việc quân sự nên vị vua này đã bỏ quên công
việc biên tập kinh Koran. Hậu quả nghiêm trọng là
ở những địa phương khác nhau người
ta truyền miệng những câu thơ của Kinh Koran khác
nhau và sự tranh cãi về tính trung thực của kinh Koran
càng ngày càng trở nên gay gắt và hổn loạn. Các
cuộc tranh cãi này đã dẫn đến cuộc
"thánh chiến" giữa hai phe Hồi Giáo tại
Nehavand, gây cảnh thịt rơi máu đổ trong 7 năm
(650-657).
Vị
vua kế nghiệp thứ ba (the third caliph) là Uthman (644-657)
chú tâm đến việc phục hồi kinh Koran. Năm
652, Uthman giao cho Zayd và 3 người phụ tá nhiệm
vụ biên tập các bản thảo của Muhammad thu
hồi được thành một cuốn sách duy nhất.
Sau 5 năm, nhóm biên tập của Zayd hoàn thành nhiệm
vụ. Năm 657, tức 25 năm sau khi Muhammad qua
đời, vua Uthman công bố bản kinh Koran do Zayd biên
tập và gọi nó là "MUSHAF" có nghĩa là "Kinh
Thánh chính thức của mọi người Hồi
Giáo" (The Official Codex for all Muslims).
Ban
biên tập của Zayd chép cuốn Kinh Thánh này thành 4 bản
giống nhau để lưu trữ tại 4 thành phố:
Medina, Basra và Kufa (Iraq) và tại Damacus (Syria).
Sau
đó, Uthman ra lệnh tiêu hủy toàn bộ các bản
viết tay của Muhammad trên lá cọ và da thú vật. Công
việc này tương tự như hành động của
Hoàng Đế La Mã Constantine ra lệnh thiêu hủy toàn
bộ các sách thánh kinh và các di tích thật của Jesus sau Công
Đồng Nicaea năm 325.
Do
sự thiêu hủy các bản viết tay của Muhammad theo
lệnh của vua Uthman đã không được thi hành
triệt để nên ngày nay người ta đã thu
thập được 5 bản chính viết trên da súc
vật:
-2 bản hiện
lưu trữ tại thư viện Taskhent ở Uzebekistan.
-1 bản lưu
trữ tại thư viện Tpokabi Thổ Nhĩ Kỳ.
-1 bản tại
bảo tàng viện London.
-1 bản mới tìm
thấy tại Yemen năm 1979.
So sánh các bản chính
nói trên với Kinh Koran do Uthman công bố năm 657,
người ta đã phát giác có nhiều sự khác
biệt. Các học giả
nghiên cứu về Hồi Giáo xác nhận: Việc Uthman ra
lệnh tiêu hủy các bản viết tay của Muhammad là
một tổn thất hết sức nặng nề cho
Hồi Giáo. Năm bản viết tay trên da súc vật mà
ngành khảo cổ đã thu thập được cũng
đủ xác minh một sự thật đáng buồn: Zayd
và ban biên tập của ông ta có thể đã không thu
thập đầy đủ các thủ bản của
Muhammad, khi chép lại có thể đã bỏ sót một
số câu thơ của kinh Koran và cuối cùng không có gì
bảo đảm là Zayd và ban biên tập đã không tự ý
sửa đổi Kinh Koran theo ý riêng của mình.
Tuy
nhiên, hầu hết các tín đồ Hồi Giáo hiện nay
đã không nêu lên những vấn đề nói trên. Họ vẫn
tin rằng bản kinh Koran bằng tiếng Arabic do vua Uthman
công bố năm 657 là kinh Koran do Thiên Chúa Allah mặc
khải cho Muhammad.
II . Sơ lược nội dung Kinh Koran.-
Những
chương đầu tiên của Kinh Koran nói về Thiên
Chúa Allah với những đặc tính siêu việt của
Ngài. Vì đạo Hồi là đạo Thiên Chúa thứ ba,
xuất hiện sau đạo Do Thái và đạo Ki Tô nên
đạo Hồi đã in đậm những dấu
ấn đức tin của hai đạo Thiên Chúa đàn
anh. Tôi đã trình bày đầy đủ vấn đề
này trong bài "Ảnh
hưởng thần học Do Thái -Ki Tô trong đức tin
Hồi Giáo". (Xin đọc
"Thực chất đạo Công Giáo và các
đạo Chúa", Giao Điểm xuất bản - Xuân
2003, trang 201-232). Ngoài Thiên Chúa ra, Kinh Koran dạy phải tin
có các thiên thần và ma quỉ (Satan), tin các sách Mặc
Khải của đạo Do Thái và Ki Tô cùng các vị thiên
sứ, tin có ngày tận thế và ngày phán xét cuối cùng, tin
mọi kẻ chết đều được sống
lại, tin có Thiên Đàng Hỏa Ngục, tin mọi
việc do Thiên Chúa Allah tiền định nhưng mọi
người có ý chí tự do.
Tất
cả các điều này đã được trình bày
đầy đủ qua 32 trang sách dẫn chiếu, vậy
tôi xin miễn nhắc lại ở đây.
Khác với Cựu
Ước và Tân Ước chỉ đề cập
đến vấn đề thiêng liêng hoặc lịch
sử, Kinh Koran đồng thời cũng là một bộ
luật đầu tiên và cao nhất của Hồi Giáo. Thí
dụ:
- Cấm
cho vay nặng lãi (Koran 2:275)
- Cấm ăn thịt heo, thịt
đã cúng các thần khác, cấm ăn máu (tiết canh,
huyết) Koran 5:3.
- Cấm cờ bạc, Koran 5:90
- Cấm săn bắn trong thời gian
hành hương Mecca (Koran 5:93).
- Phải ăn chay trong tháng Ramadan (Koran
2:182).
- Phải rửa chân tay sạch sẽ
trước khi cầu nguyện (Koran 5:6).
- Cấm giao hợp với đàn bà có
tháng (Koran 2:221).
Trước khi có
kinh Koran, phụ nữ Ả Rập giàu có thường
lấy nhiều chồng và đa số là những
người đàn ông trẻ khỏe. Kinh Koran khẳng
định quyền ưu thắng của đàn ông (Koran
4:34) và chính thức bãi bỏ tục đa phu (polyandre).
Bất cứ
người đàn bà nào có chồng bị cáo buộc
về tội ngoại tình đều bị đem ra cho
công chúng ném đá đến chết (Koran 4:15).
Kinh Koran qui
định án phạt hết sức nặng nề
chống lại bất cứ ai bị kết án:
"Chống Thiên Chúa Allah" hoặc "chống Thiên
Sứ Muhammad". Người đó sẽ bị đóng
đinh vào thập giá hoặc bị chặt hết chân tay
(Sura 5).
Tội trộm
cũng có thể bị phạt rất nặng. Dù đàn
ông hay đàn bà tùy theo nặng nhẹ nếu bị kết
án về tội trộm sẽ bị chặt một tay hay
hai tay (Koran 5: 3)
III. Những điều nên biết về HADITH, SUNNA và SHARIA
Vì lý do kinh Koran không
phải là sách dễ đọc nên trong các xứ Hồi
Giáo, các tín đồ đọc kinh Koran đều cần
có người hướng dẫn. Những người
hướng dẫn không phải là tu sĩ nhưng là
những người học thức chuyên nghiên cứu
về kinh Koran. Những bài giảng của họ
được gọi là HADITH, có nghĩa là một bài phúc
trình (report). Qua nhiều thế kỷ, số bài phúc trình
giảng giải về Kinh Koran đạt tới con
số rất lớn. Các học sĩ Hồi Giáo chọn
lựa các bài hay tập trung lại thành một cuốn sách
gọi là SUNNA, có nghĩa là "Tuyển tập các phúc
trình" (Collection of Reports). Từ đó, sách SUNNA trở
thành một cuốn sách bổ túc cho kinh Koran về mặt
tín lý, giáo điều.
Các chính quyền
của các nước Hồi Giáo chiếu theo tinh thần
và luật pháp nêu trong kinh Koran và sách SUNNA để làm ra
bộ luật gọi là SHARIA. Danh từ này được
dịch sang Anh Ngữ là "Islamic Holly Law" có nghĩa là
"Thánh Luật Hồi Giáo".
Tất cả các sách Sunna và Sharia đã
được hoàn thành vào cuối thế kỷ 9 và đã
được viết thành nhiều bản khác nhau tại
nhiều nơi khác nhau. Do
vậy, các sách này chứa đựng nhiều điều
mâu thuẫn, nhất là những giai thoại khác biệt
nhau về cuộc đời và lời nói của giáo
chủ Muhammad. Đây là một trong những nguyên nhân chính
yếu gây ra tệ nạn phân hóa trong đạo Hồi:
Giáo phái Sunni chỉ công nhận những Hadiths (reports)
của Bukkhari. Giáo phái Shiite công nhận Hadiths của Kulayni
và giáo phái Khariji chỉ công nhận Ibn Habib. Giáo phái này kết
án giáo phái kia là xuyên tạc hoặc giả mạo Thánh Kinh
Koran và gọi nhau là những kẻ tà đạo (mukhtalaq)!
Kết quả là những cuộc thánh chiến đẫm
máu giữa các giáo phái này trong nhiều thế kỷ qua.
IV. Các bản dịch kinh Koran.-
Do nhu cầu
truyền bá đạo Hồi trong 14 thế kỷ qua,
đến nay kinh Koran đã được dịch ra
rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Riêng
một mình nhà xuất bản Takrike Tarsile Qu'ran, Inc. ở
New York đã sưu tập được trên 600 bản
dịch khác nhau!
Lịch sử
Hồi Giáo ghi nhận bản
dịch kinh Koran đầu tiên trên thế giới là
bản dịch từ tiếng Ả Rập sang tiếng La
Tinh do một người Ý tên là Peter Venerable thực
hiện năm 1143. Điều đáng chú ý là bản
dịch viết tay của ông hiện vẫn
được lưu giữ tại tu viện Kluny (Ý).
Đúng 300 năm sau, tức vào năm 1543, bản dịch
viết tay duy nhất này được đem in và
xuất bản tại Rome.
Nhờ có bản dịch
kinh Koran bằng tiếng La Tinh này, Âu Châu mới biết
đến cuốn kinh Thánh của đạo Hồi.
- Năm 1616, tại Nuremberg xuất
hiện kinh Koran bằng tiếng Hòa Lan dịch từ
bản La Tinh.
- Năm 1647, kinh Koran bằng tiếng
Pháp được xuất bản tại Paris cũng
dịch từ bản La Tinh.
- Năm 1776, tại Petersburg cuốn
kinh Koran bằng Nga ngữ được xuất bản,
dịch từ tiếng Pháp.
- Đầu thế kỷ 18, một
người Anh tên là A.Ross dịch kinh Koran từ tiếng
Pháp sang tiếng Anh và xuất bản lần đầu
tại Mỹ năm 1737.
Cho tới nay, có
nhiều bản dịch khác nhau bằng tiếng Anh.
Mặc dầu lối hành văn khác nhau nhưng nội dung
vẫn tương tự. Điều đặc biệt
là Kinh Koran được xuất bản nhiều triệu
cuốn một lúc nên giá bán rất rẻ. Phần lớn
các bản kinh Koran được in dưới hình
thức sách bỏ túi (pocket books) có giá bán thông thường
là 5 Mỹ Kim. Với giá này ai cũng có thể mua về
đọc chơi hoặc để tham khảo. Số
trang trung bình của sách loại này là 500 trang, chữ in
cở nhỏ.
V. Nên đọc sách kinh Koran bằng Anh ngữ như thế nào?
Đối với những
ai đã từng quen đọc Kinh Thánh Cựu Ước
và Tân Ước bằng Anh ngữ thì khi chuyển sang
đọc kinh Koran qua bản dịch Anh ngữ sẽ
cảm thấy không mấy khó khăn. Tuy nhiên, trong nhiều
bản dịch Anh ngữ lại có rất nhiều
những danh từ chung và danh từ riêng được
phiên âm theo tiếng Ả Rập. Nếu không tìm hiểu ý
nghĩa của những danh từ này trước khi
đọc sách Koran chúng ta sẽ lâm vào tình trạng lúng túng
không thể hiểu được nội dung của sách
và cũng không biết các nhân vật được nói
tới trong Kinh Koran là ai. Lấy một thí dụ
điển hình: một nhân vật có tên Ả Rập là ISA
được nhắc tới 114 lần trong kinh Koran và
nhân vật Myriam được nhắc tới trên 50 lần. Thực ra họ chẳng
phải là ai xa lạ: ISA chính là Jesus và Myriam chính là bà Maria,
mẹ của ngài.
Để
giải quyết khó khăn về các từ ngữ phiên âm theo
tiếng Arabic, tôi đề nghị quí vị hãy tìm các
bảng GLOSSARY OF ARABIC TERMS thường được in
cuối các sách Anh ngữ nói về Hồi Giáo. Quí vị
chọn một số từ ngữ quí vị cho là quan
trọng để học thuộc lòng trước khi
bắt đầu đọc kinh Koran hay các sách viết
về Hồi Giáo.
Sau
đây là bảng danh sách đối chiếu các tên riêng
của Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước
được nhắc lại trong kinh Koran theo phiên âm
Arabic. Các tên riêng này được xếp theo nhóm gia
đình (chứ không theo thứ tự Alphabet)
NHÓM Phiên
âm ARABIC Phiên âm ANH NGỮ Phiên âm VIỆT NGỮ
Thiên Chúa ALLAH Jehovah Elohim/God Thiên Chúa
Tổ tông
loài người ADAM ADAM Ông A-dong
HAWAA EVE bà E-và
Gia đình
Abraham AZAR TERAH Cha
của Abraham
IBRAHIM ABRAHAM Ông Áp-ra-ham
SARA SARAH Vợ
của Áp-ra-ham
ISHAAQ ISAAC Con trai
của Abraham và bà Sarah, tổ tiên Do Thái
AGAR HAJAR Vợ bé,
đầy tớ của Abraham
ISMAHIL ISMAEL Con của
Abraham và Agar, tổ tiên các giống
dân Ả Rập (Ismael
là vai anh của Isaac)
Gia Đình
Jesus ISA JESUS Chúa Giê-xu
MYRIAM MARY Đức
bà Maria
Yusuf Joseph Thánh
Giuse
Zakariya Zakariah Thánh
Gio-a-Kim, cha
của Gioan
Baotixita
Yahya John Baptist Thánh Gioan Baotixita
(cậu họ của Giê-xu)
Các tiên tri Do
Thái
cũng là các
thiên sứ
trong đạo Hồi:
Al-Yasa Elisha Tiên tri Ê-li-sa
Dawood David Vua Thánh Đavít
Dhulkiit Ezekiel
Haroon Aaron Anh của Mai-sen
Musa Moses Thánh Mai-sen
Idriis Enoch
Luut Lot Ông Lot (cháu
gọi Abraham bằng bác ruột)
Nuh NOAH Ông No-e
Sulayman Solomon Vua Slomon (con David)
Yaquub Jacob Cha của 12 con
trai, tổ tiên 12 bộ lạc Do Thái
Yunus Jonah
Ayyoub Job
Thánh Kinh Tawrah Torah/Old Kinh Thánh của
đạoDo Thái
Taurat Testament tức Cựu
Ước của đạo Ki Tô
Injil Gospel/New Phúc âm/Thánh Kinh Tân
Ước
Al-injil Testament
Qur'an Koran Thánh Kinh Hồi
Giáo
Thiên thần,
ma quỉ Jibril
Jibreel Gabriel Thiên thần
truyền tin
Meekaeel Micheal Tổng lãnh thiên
thần Mi-ca-e
Buraq Buraq Con ngựa
đầu người có cánh đưa Mohammad về
trời tại Jerusalem
Shaitan
/ Iblis Satan Quỉ Sa
tăng
Ngoài ra, xin chú ý đến một
số chi tiết sau đây:
1.
Một số đại danh từ trong các sách Thánh Kinh
thường được viết theo cổ ngữ
của tiếng Anh. Thí dụ:
You
được viết thành Thou
Your
được viết thành Thy...
2.
Các quá khứ phân từ, thay vì viết là ED lại
được viết thành TH. Thí dụ
-
He opened He
openeth
-
He called He
calleth
-
You will Thou
shalt
-
You have Thou
hast
3.
Các kinh Koran Anh ngữ thường đánh số các
chương (sura/chapter) bằng số La Mã ở góc trái trên
đầu trang sách. Thí dụ: Sura XXXVII: chương 37, Sura
CVIII chương 108, LXXIX: chương 79 v.v...
Khi
tra cứu một câu trong kinh Koran, thí dụ:
"Muhammad
is not the father of any of your men but he is the Apostle of Allah and the
last of the prophets. Koran
33:40". Xin nhớ số ghi trước là số
chương (sura/chapter) số ghi sau là câu thơ (verse).
Vậy trước hết xin hãy tìm chương 33 sau
đó tìm câu thơ số 40 trong chương này, quí vị
sẽ gặp đúng câu thơ được trích dẫn.
Khi
đọc các sách về đạo Hồi, chúng ta
thường gặp những câu trích dẫn từ kinh
Koran, nếu có sẵn một cuốn Koran trong tay
để kiểm chứng tính chính xác của sự trích
dẫn và sự trung thực của người dịch,
thiết tưởng cũng là một điều thích thú.
Để
kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời giới
thiệu của nhà xuất bản Tahrike Tarsile Qur'. Ind. New
York nói về kinh Koran: "Kinh Koran có khả năng đem
lại cho những người ngoại giáo những
điều bổ ích và mang lại tất cả mọi
thứ cho các tín đồ Hồi Giáo". (The Qur'an offers at
least something to non-believers and everything to believers).