Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19
Charlie Nguyễn
Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu
tiên về sự có mặt của đạo Công giáo trên đất
nước Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo
Việt Nam đã có 470 năm lịch sử. Trong chiều dài
thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn bốn
thập niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là
thời gian thăng trầm, phức tạp và ô nhục nhất
trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian
các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000
giáo dân đã tích cực giúp cho thực dân Pháp hoàn thành dễ
dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình định
lãnh thổ để áp đặt nền thống trị
lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.
Những gì đã xảy ra trước và
trong quá trình xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: các giáo
sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã chủ động
tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào
Việt Nam. Sử gia Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99) như
sau: “ Thiên Chúa giáo đã mở
cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực
tiếp của cuộc xâm lược đất
nước này”.
Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ,
danh dự của tổ quốc Việt Nam đã bị xỉ
nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân
dân bị quân địch xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó
có thể xóa mờ trong ký ức của mọi người
Việt yêu nước. Lịch
sử mất nước của dân tộc Việt Nam vào
cuối thế kỷ 19 gắn liền với sự có mặt
của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ mở rộng
nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là
một công cụ mở rộng thuộc địa của
thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào thời điểm đó đã
hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nước
theo giặc, trắng trợn phản bội
Tổ Quốc.
Việc dựng lại một
cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử
mất nước ô nhục đó không phải là chuyện
dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công giáo Việt
Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất
hiếm hoi. Nhưng một sự may mắn đã đến
với chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, người Ấn
Độ, giáo sư sử học tại đại học
Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sưu
tầm các tư liệu liên quan đến các hoạt động
của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế
quốc tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.
Tất cả các tài liệu lịch sử quí
giá này đều là những tài liệu do chính văn khố
của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây
là một món quà tinh thần quí giá cho những ai hằng thao
thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam.
Bộ sưu tập tài liệu về Hội Thừa Sai
Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck được viết
bằng Anh ngữ dưới tựa đề “French Catholic Missionaries and the
Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914” do Liverpool University Press
xuất bản tại Anh Quốc năm 1987. Bản dịch
Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ
biến năm 1989 dưới tựa đề: “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính
sách của dế quốc tại Việt Nam 1857-1914”. (Mỗi khi trích dẫn
tài liệu này, chúng tôi xin ghi tắt TSCG) . Ngoài tư liệu của
Patrick Tuck, chúng tôi còn tham khảo thêm sách “Sự Du Nhập của Thiên Chúa
giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế
kỷ 19” của giáo sư
Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện
Nghiên Cứu Tôn Giáo và Hội Khoa Học Lịch Sử Việt
Nam (mỗi khi trích dẫn sách này, chúng tôi xin ghi vắn tắt
SDN/TCG).
Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng
ta rất nhiều bằng chứng lịch sử về các
hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ
thuộc Hội Thừa Sai Paris trong nỗ lực vận động
Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến Việt Nam hầu
thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa
xâm chiếm thuộc địa.
I.
Sự
thành lập hội Thừa Sai Paris và tiến trình tội ác của
hội này đối với dân tộc Viêt Nam.
Sáng kiến đầu tiên đưa đến
việc thành lập hội Thừa Sai Paris
là do Alexandre de Rhôde. Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về
Âu châu vận động Vatican và Pháp thành
lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ người
Pháp để gửi sang Viễn Đông truyền đạo
và mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại vùng
này. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ảnh
hưởng của Bồ Đào Nha tại Á Châu còn mạnh.
Đại sứ Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực
lực phản đối việc thành lập Hội Thừa
Sai Pháp và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến
Á Châu mà không có phép của hoàng gia Bồ. Phải đợi
đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt
và không còn đủ sức tài trợ cho cuộc truyền
giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh chính thức thu hồi
“độc quyền truyền giáo” (Padroado).
Hội Thừa Sai Paris được chính thức
thành lập năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ người
Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là các tu sĩ chuyên
việc trông coi giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó,
mỗi khi thiết lập một giáo phận mới tại
Á Châu, Vatican
đều giao các giáo phận mới cho các giáo sĩ thừa
sai Pháp cai quản. Mặc dầu hoạt
động của các thừa sai đều thuộc về
tôn giáo, nhưng chính quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ
Ngoại Giao, bộ Thương Mại và nhất là bộ
Hải Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm
trợ cho các giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang 27). Ông Bonifacy, tác
giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản
tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội
Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng
Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người
Bồ Đào Nha, và đem lại cho người Pháp vai trò
quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương”
p. 16-17 (SDN/TCG, trang 123).
Việc thành lập
hội Thừa
Sai Paris năm 1663 không phải là một hành vi tôn giáo thuần
túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa
thực dân Pháp thời đó, vì hội này do chính phủ
Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ thực
hiện tham vọng bành trướng thuộc địa ở
Viễn Đông. Danh từ “giáo sĩ thừa sai”
(missionaries) được định nghĩa là người
được cử ra nước ngoài để thực
hiện những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà Thánh
La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội
Thừa Sai. Tự Điển Bách Khoa Hoàn Vũ (Encyclopedia
Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng thêm định
nghĩa Hội Thừa Sai (Mission) như
sau: “Hội Thừa Sai cũng tiến hành nhiệm
vụ thực dân, cũng chinh phục và tiêu diệt, tham
gia các cuộc chinh phạt để đoạt lấy quyền
uy vinh quang và lợi tức. Điều
quan trọng nhất của Hội Thừa Sai là
đồng hóa văn hóa của các xứ bản
địa” (SDN/TCG, trang 302).
Gần hai thế kỷ sau ngày thành lập, đến
đầu thế kỷ 19 có 3 biến cố xảy ra làm
cho Hội Thừa Sai Paris trở thành hội Truyền Giáo
mạnh nhất của Giáo hội Công giáo:
-
Biến cố 1:
Vào năm 1822, các nhà tư bản Pháp thành lập tại
Lyon một tổ chức lấy tên là “Hội Truyền Bá Đức
Tin”.Đây là một trung tâm tài chánh lớn lao yểm trợ
các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai tại
Viễn Đông. Năm 1839, quĩ của hội lên tới
hai triệu francs.
-
Biến cố 2: Năm 1839, giáo hoàng
Gregory XVI chính thức thừa nhận hội Thừa Sai
Paris là cơ quan truyền giáo chủ lực tại Viễn
Đông. Tuy nhiên, trọng tâm trách nhiệm của Hội là
Việt Nam.
-
Biến cố 3: Cuộc đảo chánh
do các giáo sĩ Pháp chủ trương năm 1851 đã đưa
Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế (tức Napoleon III). Sự
kiện này đưa đến sự liên kết mật
thiết giữa hoàng gia Pháp và Vatican.
Điển hình là vụ Vatican và Pháp dàn dựng màn kịch
bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” năm 1858 (xin đọc webpage Giao Điểm
tháng 8, 2003).
A.- Các
giáo sĩ thừa sai tích cực vận động
Vatican và
chính quyền Pháp xâm chiếm Việt Nam.
-
Các giáo sĩ thừa sai
Paris
giao du thân mật với hoàng hậu Eugénie, họ đã lợi
dụng hoàng hậu
xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam
từ năm 1852. Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh
cho phái bộ ngoại giao Pháp tại Trung Quốc phải
thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại
Đông Dương (TSCGP, trang 53).
-
Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và
linh mục Huc đến Paris
trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương
tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21-5-1857, giám mục Pellerin và
linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại
hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc
lại được Napoleon tiếp kiến thêm hai lần
nữa. Toàn bộ kế hoạch
xâm lược Việt Nam do hai giáo sĩ thừa sai này đề
nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon
III tán thành (TSCGP, trang 554).
Giám mục Pellerin sinh tại
Pháp năm 1813, được cử làm giám mục tại
Saigon năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm
Việt Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam
trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này,
y xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà
Nẵng, nhưng Genouilly không chịu vì y muốn chiếm
Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được
hội Thừa Sai đổi về Penang dạy học, y
chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP,
trang 554).
Linh mục Huc sinh tại Pháp
năm 1814. Trong các năm 1844-1846, linh mục
Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây
Tạng và miền Tân Cương (Trung Quốc). Năm
1850, linh mục Huc xuất bản
mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng
đạo tại các xứ huyền bí Á Châu, đồng thời
viết sách kêu gọi chính quyền Pháp xâm chiếm Triều
Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã đọc và rất chú ý đến
các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc
với linh mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon II đã
cho thành lập “Ủy Ban
Brenier” để nghiên cứu đề nghị của
linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục Pellerin
đến thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động
tờ báo L’Univers ủng hộ
việc xâm chiếm Việt Nam làm
thuộc địa.
Tháng 5/1857, ủy ban Brenier
lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế
Napoleon III áp đặt chế độ bảo hộ lên
Việt Nam để
phục vụ lợi ích của nước Pháp. Ủy ban
này đề nghị thực hiện một cuộc viễn
chinh với một hạm đội gồm 6 tàu chiến
và 2600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn
chinh sẽ được sự yểm trợ của hải
quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ
trợ tích cực của 600,000 giáo dân công giáo bản địa.
Hoàng đế Napoleon III chấp
thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày 21-9-1857. Mấy tháng sau,
Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc
Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ
của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam
(TSCGP, trang 57-61). Cuộc chiến
tranh xâm lược kéo dài từ cuối 1857 đến tháng
2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa,
Vĩnh Long và toàn miền Đông Nam Kỳ.
B. –
Quân dội viễn chinh Pháp và các
giáo sĩ thừa sai tại Việt
Nam có cùng
mục tiêu chung.
-
Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn
chinh xâm lược Việt Nam
là bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở
tại Paris, do Chasseloup
Laubat làm bộ trưởng. Chasseloup Laubat công
khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một
Philippines thứ hai tại Á Châu. Nói cách
khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công giáo là một
giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc
địa một cách lâu dài.
Như vậy rõ ràng là quan điểm
của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính
quyền Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu
chính trị (TSCGP, trang 123). Để
thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc
Địa Pháp đã đưa ra hai quyết định
sau đây:
1.
Chính
quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một
hệ thống các giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.
2.
Các
giáo sĩ thừa sai Pháp được coi là những công
chức phục vụ nhà nước nên họ được
hưởng lương hàng năm. Năm 1864, nhà nước
thuộc địa Pháp đã trả cho các giáo sĩ thừa
sai 40,000 Francs; năm 1879 tăng lên 145,000 Francs. (TSCGP, trang
134-135).
C.-
Các giáo sĩ thừa sai tích cực
giúp thực dân Pháp mau chóng bình định lãnh thổ thuộc
địa.
1.- Giám mục Puginier
(1835-1892): Dựa vào thế lực
mạnh của hội Thừa Sai Paris
đối với chính quyền Pháp, giám mục Puginier đã
tỏ thái độ coi thường các quan chức thuộc
địa tại Việt Nam.
Vào tháng 7-1874, giám mục Puginier viết thư
mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ
là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc Việt. Tháng
8-1885, giám mục Puginier đòi tướng Courcy phải bắt
Nguyễn Văn Tường bỏ tù. Giám
mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định
thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa.
Y tuyên bố: “ Khi nào Bắc Kỳ biến
thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước
Pháp nhỏ” (TSCGP, trang 560-562)
Puginier đòi hỏi chính
quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới
nho sĩ Việt Nam
(Văn Thân) vì họ được dân chúng kính trọng, họ
không chấp nhận sự đô hộ của Pháp và chẳng
ai trong số họ chịu theo đạo.
Năm 1886, giám mục
Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát Diệm
tăng viện cho Pháp 5,000 giáo dân binh để phá chiến
lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng.
Giám mục
Puginier là người đã để lại nhiều dấu
ấn sâu đậm trên chính sách bình định Việt Nam của
thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho Pháp rất
nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập
báo cáo về các cuộc phản công của triều đình
Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.
Puginier chết
tại Hà Nội năm 1892. Hắn được chính
phủ Pháp truy tặng Bảo Quốc Huân Chương và
truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để
xác nhận công lao to lớn của giáo sĩ
thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ
hồi cuối thế kỷ 19.
2.- Giám mục Gauthier
(1810-1877)
: Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu, được
cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ năm 1846, có
66,350 giáo dân rải rác trong 346 xứ dạo (TSCGP, trg
528-530).
Trong bức thư gửi đô
đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier và Puginier đã
thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập
một chính phủ Công giáo tại Bắc Việt (theo
“Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 par Cao Huy Thuần –
Paris 1960, p. 306).
Năm 1874,
Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các đội
dân quân võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh
phá các làng bên lương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Giám mục Gauthier và Puginier
có nhiều tên đệ tử
trung thành xuất sắc, trong số đó có Nguyễn Trường
Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai linh mục Nguyễn
Hoằng và Nguyễn Điều.
II. Tội Ác bán nước theo giặc của Giáo
hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối thế
kỷ 19.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng
600,000 người Việt Nam
đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính
chất vong bản. Họ đã dễ dàng lìa
bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân
tộc. Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm
chiếm Việt Nam, những người Công giáo được
coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt
nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay tiêu
diệt họ.
Nhưng kể
từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số
giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
Hiện tượng đầu
tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào
Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ
tại Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây.
Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 người
trong số họ để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh
chiếm Saigon.
Trong công cuộc xâm chiếm và bình
định Việt Nam, thực
dân Pháp đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ
trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ
Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng
sau đây :
-
Tổng Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
-
Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
-
Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .
-
Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này !
-
Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.
Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản
phác họa một cách trung thực những giai đoạn của Việt
Nam vong quốc sử hồi nửa
cuối thế kỷ 19. Đây là điều cần thiết
để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn
đề cao cảnh giác phòng ngừa những thế lực
ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa
tôn giáo để xâm lăng chủ quyền và phá hoại nền
văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam, hai tổ chức này không thể phủ nhận
trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với
thực dân Pháp chống lại nước Việt Nam gần
một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa
tk 20). Gần đây, Giáo Hoàng đã thú nhận
những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc gia và dân tộc
trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo
Việt Nam
mới lên tiếng tạ tội với dân tộc về
những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ
Quốc ?
Các bạn Công giáo Việt Nam:
để tỏ tình dân tộc, các bạn cần áp lực Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
tách hẳn khỏi ảnh hưởng của Vatican
(như Anh Quốc đã làm trước đây, và Trung Quốc
đang làm). Tại sao các bạn không thể “hiệp thông thẳng với
Chúa” mà không cần trung gian của Vatican
hay cái giáo hội tay sai của Vatican
?