Tổng số 1 tỷ 200 triệu tín
đồ Hồi Giáo trải rộng trên khắp các
lục địa nên số phận của phụ nữ
không đồng nhất. Tùy theo luật pháp của mỗi
quốc gia, số phận phụ nữ ở mỗi
nước cũng khác nhau và tùy theo phong tục tập quán
của mỗi dân tộc, cũng như do sự biến
chuyển của lịch sử, số phận của
phụ nữ Hồi Giáo cũng thay đổi theo.
Tuy nhiên, vượt lên trên
mọi dị biệt của địa phương và qua
mọi giai đoạn khác nhau của lịch sử
vẫn có những yếu tố chung của đạo
Hồi quyết định phần lớn số phận
của các phụ nữ Hồi Giáo. Đó chính là những
điều luật về phụ nữ được nêu
rõ trong kinh Koran và trong Thánh Luật Sharia (The Holy Law of Islam).
Kinh Koran là cuốn sách thiêng liêng ghi chép các lời của
Thiên Chúa Allah (Words of Allah) nên Koran được coi là
bộ luật tối cao và không ai có quyền sửa
đổi. Bộ luật Sharia được triển
khai từ kinh Koran nên cũng là Thánh Luật bất khả
xâm phạm. Do đó, những điều gì dù bất công và
vô lý đã được kinh Koran và thánh luật Sharia áp
đặt lên số phận phụ nữ cũng
đều trở thành bất di bất dịch trong các
nước Hồi Giáo. Thí dụ:
- Kinh Koran đã qui
định chế độ y phục của phụ
nữ hết sức khắt khe như sau: "Phụ nữ phải mặc che kín hoàn toàn, không
được để lộ một phần nào của
thân thể trước mặt bất cứ một
người đàn ông nào, bao gồm cả mặt và
tay" (They dress up completely without showing any part of their bodies,
including face and hands to any man - Koran 33:53).
Kinh Koran minh thị xác
nhận uy quyền của đàn ông đối với
đàn bà: "Đàn ông có
quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra
đàn ông cao quí hơn đàn bà và vì đàn ông phải
bỏ tài sản của mình ra để nuôi họ. Đàn
bà tốt phải biết vâng lời đàn ông vì đàn ông
săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà.
Đối với những phụ nữ không biết vâng
lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho
nằm chung giường và có quyền đánh
đập".
(Man has the authority over women because God has made
the one superior to the other and because they spend wealth to breed them. Good
women are obedient because they guard their unseen parts. As for those whom you fear disobedience,
admolish them, send them to beds apart and beat them - Koran 4:34).
Kinh Koran coi thiên đàng là "Khu vườn của
lạc thú nhục dục muôn đời", còn ở trên
thế gian nầy thì đàn bà là "cánh đồng
lạc thú" mà mọi nguời đàn ông đều có
quyền chủ động bước vào nếu muốn:
"Women are your field, go into your field whence you please" - Koran
2: 221)
Đàn bà bị xã hội
Hồi Giáo coi là một thứ công cụ để
đẻ con và để thỏa mãn dục tính của
đàn ông. Kinh Koran còn qui định: khi cha mẹ chia gia tài
thì con gái chỉ được hưởng một
phần nửa phần của con trai mà thôi. Khi các nhân
chứng ra trước tòa làm chứng thì lời chứng
của đàn bà chỉ có giá trị bằng một nửa
lời khai của đàn ông. Khi nạn nhân là phụ nữ
bị giết thì thân nhân chỉ được lãnh một
nửa số tiền bồi thường.
Đàn ông có quyền
lấy nhiều vợ nhưng đàn bà chỉ
được lấy một chồng, do đó đàn ông
không có tội ngoại tình. Trái lại, đàn bà ngoại
tình sẽ bị đem ra nơi công cộng để
mọi người ném đá đến chết.
Trải qua 14 thế
kỷ, kinh Koran đã gieo biết bao tai họa cho các
phụ nữ Hồi giáo nhưng vì các tín đồ ngoan
đạo đều coi Koran là "Chân lý Tối Hậu
của Thiên Chúa" (The Final Truth of Allah) nên không ai dám coi
đó là những điều vô lý hoặc bất công. Các tín
đồ nam cũng như nữ không còn con
đường nào khác là phải tuyệt đối vâng
phục ý Chúa vì Đạo Hồi có nghĩa là sự vâng
phục hoàn toàn ý của Chúa (Islam
= Submission to God).
Trong các nước Hồi
Giáo, nữ giới phải chiu nhiều thiệt thòi trong
hôn nhân. Tuổi con gái đi lấy chồng trung bình từ
12 đến 15. Trong các bộ lạc du mục, nhiều
khi cha mẹ gả chồng cho con gái lúc mới 5,6
tuổi. Các anh chị em
họ gần (cousins) có quyền lấy nhau, đặc
biệt là hai người đàn ông có quyền trao
đổi con gái cho nhau (người này làm cha vợ
của người kia!). Đó chính là trường hợp
của Muhammad. Năm 624, Muhammad (54 tuổi) lấy cô Hafsah
18 tuổi, con của Umar làm vợ bé. Trong khi đó, vợ
chính của Muhammad mới lên 10, con gái của Abu Bakr. Cả
hai cha vợ của Muhammad là Umar và Abu Bakr đều xin
cưới con gái út của
Muhammad là Fatima. Muhammad không chịu vì ông quá yêu thương
Ali là em họ (con của chú ruột) nên ông đã gả
Fatima cho Ali. Sau này Ali và Fatima trở nên "thánh tổ"
của giáo phái Shi-a. Shi'a có nghĩa là "đảng
của Ali" (Shiites = partisans of Ali).
Sau đây là hai vấn
đề quan trọng được coi là tiêu biểu cho
quan niệm đặc biệt của Hồi Giáo về
nữ quyền. Đó là vấn đề đa thê (Polygamy)
và trường hợp Afganistan dưới chế độ
Hồi Giáo cực đoan của
Taliban.
I. VẤN ĐỀ ĐA THÊ.-
Nói
chung, các nước Tây Phương nhìn về các
nước Hồi Giáo (công nhận chế độ đa
thê) một cách khinh bỉ và họ coi Đa Thê đồng
nghĩa với chế độ nô lệ (Polygamy is
slavery!). Từ hậu bán thế kỷ 20, do nhiều
biến chuyển về kinh tế và chính trị trên
thế giới, nhiều nước Hồi Giáo đã
phải điều chỉnh "Thánh Luật Sharia"
đối với vấn đề đa thê cho phù hợp
với thực tế.
-
Tunisia:
Đa số đàn ông Tunisia không đủ sức nuôi
vợ con cho nên hầu như chẳng có ai muốn lấy
nhiều vợ, mặc dầu kinh Koran cho phép đàn ông
lấy 4 vợ. Các dân biểu tán thành việc hủy
bỏ tục đa thê. Do đó, vào năm 1956, Tunisia trở
thành nước Hồi Giáo đầu tiên ra lệnh
cấm đa thê. Chẳng những thế, họ còn chê bai
chế độ ly dị quá dễ dàng của Tây
Phương. Họ gọi các cuộc hôn nhân sau khi ly
dị liên tiếp nhiều lần là một hình thức
đa thê trá hình vì đó chỉ là "chế độ
độc thê hàng loạt" (serial monogamy).
- Algeria: Algeria là
thuộc địa của Pháp từ năm 1830. Chiến
thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng của
Việt Nam năm 1954 đã đem lại một niềm
hứng khởi vô cùng lớn lao cho nhân dân Algeria trong
quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp dành
độc lập. Niềm hứng khởi đó đã thúc
đẩy trên 10.000 phụ nữ Algeria gia nhập hàng
ngũ kháng chiến quân võ trang. Họ lợi dụng
những chiếc áo choàng đen phủ kín từ
đầu đến chân để dấu vũ khí,
thuốc men, lương thực tiếp tế cho quân kháng
chiến. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến thành công
năm 1962 thì chính quyền Algeria bị rơi vào tay của
giới lãnh đạo Hồi Giáo cực đoan.
Chính quyền này muốn đưa
Algeria trở về thời Trung Cổ bằng cách
tước đoạt mọi quyền tự do của
phụ nữ. Phụ nữ Algeria ngao ngán thở dài
hối tiếc thời Pháp thuộc vì dưới ách
thống trị của thực dân, họ đã
được hưởng rất nhiều quyền
tự do và nhân phẩm của họ đã được
kẻ địch tôn trọng còn hơn những kẻ lãnh
đạo đồng hương của họ.
Vào năm 1980, một
đảng Hồi Giáo cực đoan khác lên nắm chính
quyền ở Algeria. Năm 1984, chính quyền này ban hành
luật công nhận chế độ đa thê. Nhiều
phụ nữ biểu tình chống lại luật này. Chính
quyền quá khích ra lệnh cho cảnh sát nổ súng
khiến cho 48 phụ nữ bi thiệt mạng.
Sự đàn áp dã man
của chính quyền Hồi Giáo cuồng tín đã làm bùng lên
một làn sóng phản đối mạnh mẽ hơn.
Chính quyền liền ban hành luật thị uy với
những hình phạt thật nghiêm khắc đối
với những người xách động biểu tình:
đàn ông bị chặt đầu, đàn bà bị thiêu
sống. Bộ luật chống biểu tình này
được áp dụng liền trong 10 năm, từ 1984
đến 1993, đã giết chết khoảng 7000
người!. Mặc dầu vậy, phụ nữ Algeria
vẫn không nản chí, họ tiếp tục tranh
đấu cho tự do một cách thật kiên cường
khiến cho thế giới phải khâm phục. Ngày
lịch sử 22-3-1993, một nửa triệu phụ
nữ Algeria vứt bỏ áo choàng và khăn che mặt
từ khắp nơi đổ về thủ đô với
khẩu hiệu: "Chúng tôi không nhượng bộ"
(We will not yield!). Trước khí thế quá mạnh mẽ và
can trường của nửa triệu phụ nữ, chính
quyền Hồi Giáo cực đoan đã phải chùn tay
không dám bắn và cuối cùng họ đã phải
nhượng bộ bằng cách hủy bỏ các luật
lệ bất công đối với phụ nữ.
-
Iran:
Đại đa số dân Iran theo giáo phái Shiites
nổi tiếng bảo thủ và cực đoan. Họ theo
đúng tinh thần của Kinh Koran là chỉ tôn trọng
quyền lợi của đàn ông mà thôi. Luật hôn nhân
của Iran công nhận chế độ đa thê. Đàn
ông muốn ly dị vợ lúc nào cũng được,
thủ tục ly dị vô cùng đơn giản vì
người chồng chỉ cần nói với vợ ba
lần: "Tôi ly dị cô"!
Sau khi được tòa cho ly dị, người
chồng luôn luôn có quyền giữ con trai trên 6 tuổi và
con gái trên 12 tuổi. Người vợ chỉ
được nhận tiền của chồng trợ
cấp trong 3 tháng mà thôi.
Trong thế kỷ 19
đến giữa thế kỷ 20, các vua Hồi công
nhận nhiều quyền tự do của phụ nữ,
nhưng sau cuộc Cách Mạng Hồi Giáo do giáo chủ Khomeini lãnh đạo trong 2
năm 1978-1979, chính quyền Hồi Giáo Shiite cực đoan
đã đưa Iran trở lại thời Trung Cổ:
Phụ nữ bị bắt buộc phải đeo mạng
che kín mặt và phải mặc áo choàng CHADOR phủ kín
từ đầu đến chân. Luật pháp cho phép
chồng có quyền đánh vợ, thậm chí dù có đánh
chết vợ chăng nữa thì cũng chỉ bị tòa
án phạt tượng trưng. Tại Iran, hàng năm có
tới nhiều trăm vụ phụ nữ bị
chồng giết chết!
Tuy nhiên, Iran có một
số điều luật tiến bộ so với các
nước Hồi Giáo khác: Phụ nữ được
phép lái xe, được quyền hành nghề buôn bán nhà cửa,
làm chủ cửa tiệm buôn và đặc biệt là
được giữ các chức vụ cao trong chính
quyền. Hiện nay phụ nữ chiếm 35% lực
lượng công chức tại các công sở, 25% lực
lượng công nhân và 54% tổng số sinh viên đại
học. (Newsweek 3.2.2001).
- Các nước Hồi Giáo có nữ thủ
tướng: Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan,
Bangladesh và Indonesia. Tại các
nước này, phụ nữ có quyền tự do gần
như bình đẳng với nam giới. Nếu xếp
theo thứ tự về quyền tự do của phụ
nữ thì Thổ Nhĩ Kỳ đứng đầu
rồi đến Indonesia, Pakistan và Bangladesh. Ngoại
trừ Thổ Nhĩ Kỳ, tại Indonesia, Pakistan và
Bangladesh hầu hết các phụ nữ đều thất
học. Chỉ có một trường đại học
Rawanpindi ở Pakistan có nữ sinh viên. Các phụ nữ
Pakistan, kể cả nữ sinh viên, đều phải che
mặt. Tại vùng Kashmir đang có chiến tranh giữa
Hồi và Ấn, bọn cuồng tín Hồi Giáo
thường hay tạt át-xít vào mặt những phụ
nữ không chịu đeo mạng che mặt.
- Các nước Hồi Giáo tại
vùng vịnh Ba Tư.-
Vùng Vịnh Ba Tư có nhiều nước Ả
Rập theo Hồi Giáo: Ả Rập Saudi, Koweit, Yemen, Quatar
và Emerites. Các nước này giầu có nhờ dầu
hỏa và có nhiều siêu thị (supermarket, Food stores) như
ở Mỹ, nhưng phụ nữ bị luật pháp
cấm lái xe. Do đó, công tác mua sắm (shopping) và đi
chợ đều do đàn ông thực hiện. Nếu
đàn ông không thích đi chợ mua sắm thì cũng
phải lái xe đưa vợ tới các cửa tiệm
rồi ngồi chờ vợ ở trong xe.
Tại Ả Rập Saudi,
nhà nước ban hành luật về y phục của
phụ nữ (The National Dress Code) theo đúng tinh thần
kinh Koran là "phải bảo vệ đức khiêm tốn
của phụ nữ và không cho phép họ phô bày nhan
sắc" (to guard their modesty and not to display their beauty).
Luật này lập ra một ngành cảnh sát đặc
biệt gọi là "Cảnh sát đạo
đức" (Morality Police) chuyên lo việc thi hành các
luật lệ về y phục của phụ nữ.
Bất cứ một phụ nữ nào mặc y phục
không đúng qui định sẽ bị cảnh sát
đạo đức đánh đập bằng gậy
tại chỗ!
Điều rất
đặc biệt tại Saudi Arabia là các phụ nữ
đều không có thẻ căn cước. Lý lịch
của họ chỉ được ghi thêm vào căn cước
của cha nếu còn độc thân. Khi cha chết thì lý
lịch được ghi vào thẻ của anh em trai.
Nếu đã kết hôn thì lý lịch của phụ nữ
được ghi vào thẻ căn cước của
chồng. Khi chồng chết thì ghi vào thẻ căn
cước của con trai. Đàn bà bị cấm lái xe, bị
cấm hành nghề luật sư, kỹ sư và bị
cấm làm công chức cho các công sở của nhà
nước.
Tại Koweit: Số
phận phụ nữ cũng tương tự như
ở Saudi Arabia. Tuy nhiên, kể từ 1999, phụ nữ
được luật pháp công nhận nhiều quyền
tự do, trong đó có
quyền tự do quan trọng nhất là quyền tự do
ứng cử và bầu cử. (Newsweek 3/12/2001).
Tại Saudi Arabia và Koweit,
các học sinh nam nữ phải học tại các trường
riêng biệt từ cấp tiểu học trung học và
cả ở đại học.
II. AFGANISTAN DƯỚI CHẾ ĐỘ
HỒI GIÁO CỰC ĐOAN TALIBAN.-
Năm 1989, do sự giúp
đỡ tích cực của Mỹ và của các
nước Hồi Giáo, quân kháng chiến Afganistan đã
đánh đuổi quân Liên Xô ra khỏi bờ cõi. Sau đó,
trong ba năm kế tiếp, quân kháng chiến tiếp
tục cuộc chiến đấu để lật nhào
chế độ thân Liên Xô của Najibullah. Nhưng
đến khi cuộc kháng chiến thành công thì các
"chiến sĩ tự do" (Mujahideen) đã mau chóng chia
thành nhiều phe nhóm chống đối và giết hại
lẫn nhau vì lý do sắc tộc và giáo phái khác biệt.
Tại Afganistan, từ xưa đến nay có bốn
sắc tộc thường xuyên xung đột nhau là
Pathans, Pashtun, Uzbek và Tajik. Về tôn giáo, có hai giáo phái vốn
thù nghịch nhau và đã từng có nhiều thế kỷ
thù hận đẫm máu là giáo phái Sunni và Shiite. Đất nước
Afganistan rơi vào tình trạng nồi da xáo thịt trong 5 năm, từ 1989 đến
1994 làm thiệt mạng hàng vạn sinh linh.
Cuộc nội chiến
được kết thúc năm 1994 do một người
hùng tên Mullah Omar, lãnh đạo phe Taliban, thành công trong
việc cướp chính quyền trung ương. Theo ngôn
ngữ Afgan thì Taliban có nghĩa là "Một Nhóm Sinh
Viên" (A band of Students). Họ có chủ trương
ổn định đất nước, thiết lập
quốc gia Hồi Giáo và
chủ trương bài
ngoại cực đoan.
Điều làm mọi
người phải ngạc nhiên là phe Taliban không có quân
đội, trong khi các lãnh chúa của các bộ lạc
đều có quân đội và vũ khí trong tay mà không dám làm
gì. Sự thành công của Taliban hoàn toàn do khả năng
tuyên truyền và thuyết phục quần chúng nên họ
đã được toàn dân ủng hộ và đưa lên
nắm chính quyền năm 1994. Năm 1996, Taliban mới
chính thức chiếm thủ đô Kabul và kiểm soát 2/3
lãnh thổ quốc gia. Việc đầu tiên là Taliban ban
hành hiến pháp công bố Afganistan là một quốc gia
Hồi Giáo (Hồi Giáo là Quốc Giáo). Các luật lệ
cổ hủ lỗi thời của Hồi Giáo từ 14
thế kỷ trước đều được
phục hồi: kẻ bị kết án về tội
trộm phải bị chặt tay, đàn bà ngoại tình
bị ném đá đến chết...
Taliban ban hành luật lệ
về y phục của phụ nữ hết sức
khắt khe, đến nỗi đã biến họ thành
"những kẻ vô hình" vì mọi người hàng xóm
và những người đi trên đường phố
đều không nhìn thấy mặt của phụ nữ.
Mọi phụ nữ Afgan mỗi khi bước chân ra
khỏi nhà đều phải mặc bộ BURKA. Đây là
một kiểu áo choàng may bằng vải thô phủ kín
từ đầu đến chân. Các ký giả Tây
Phương gọi Burka là "cái túi đựng xác
người sống" (the body-bag for the living). Vì
được may bằng nhiều nếp gấp và
rộng thùng thình nên chiếc áo Burka rất nặng. Vào mùa
hè trời nóng có nhiều phụ nữ bị bịnh
ngộp thở (claustrophobia) hoặc mắc chứng
nhức đầu kinh niên.
Tại Afganistan cũng
như tại các quốc gia Hồi Giáo khác, phụ nữ
không được đi học. Các bé gái chỉ
được học từ 7 đến 12 tuổi đủ
để có thể đọc được sách kinh mà
thôi.
Cũng giống như
trường hợp Algeria, chính quyền Hồi Giáo bản
xứ đã đối xử với phụ nữ tàn
tệ hơn chế độ thực dân Pháp trước
kia. Chế độ Taliban cũng tước đoạt
hết mọi quyền tự do của phụ nữ
Afganistan mà họ đã được hưởng
dưới thời Liên Xô chiếm đóng tại xứ này
trong 10 năm, từ 1979 đến 1989. Chính phủ Taliban
lập ra Bộ Cải Tiến Đạo Đức và
Ngăn Ngừa Thói Xấu (Ministry for Promotion of Virtues and
Prevention of Vices). Các cán bộ
thuộc bộ này đều là đàn ông, mỗi cán bộ
được trang bị một cái roi dài quấn dây cáp
bằng thép dùng để đánh bất cứ một
phụ nữ nào đi trên đường phố mà không
mặc y phục đúng cách. Chẳng hạn như
để lộ vớ trắng ở bàn chân, đi
giầy gây tiếng kêu trên hè phố, mặc quần áo quá
bó sát thân hoặc trên người có đeo nữ trang v.v...
Charlie Nguyễn