Độc Thần Giáo
(MonoTheism)
Charlie
Nguyễn
Từ thế kỷ 2 (sau công
nguyên), ông Sỹ Nhiếp (137-226) đã khai mở kỷ
nguyên Tam Giáo (Phật-Khổng-Lão) ở Việt Nam.
Song song với Tam Giáo đồng lưu, phần đông
người Việt chúng ta theo
đạo “Thờ Cúng Ông Bà”. Như vậy, trong suốt
hơn 13 thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã theo và thực
hành 4 đạo (nếu coi tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên như một tôn giáo), nhưng chẳng có
đạo nào thờ Thần
(God) và hầu như cả 4 đạo chỉ là 4
“triết lý sống” hơn là 4 tôn giáo.
Mãi đến đầu thế kỷ 16, khoảng
vào năm 1533, lần đầu tiên có một đạo
“độc thần” thuộc văn hóa du mục Tây
Phương (Do Thái-Ả Rập) là đạo Công Giáo La Mã
(Roman Catholicism) đã xâm
nhập vào vùng Bùi Chu-Phát Diệm thuộc miền duyên
hải Bắc Việt. Vì bản chất của đạo này hoàn toàn
trái ngược với bản chất văn hóa “nông
nghiệp nhân bản” của dân tộc nên đạo này
đã gây nên nhiều “va chạm đột ngột” (shocks)
về tâm lý cũng như về sinh hoạt xã hội. Nó đã gây phân hóa dân tộc, biến 7-8% thành
phần dân tộc thành những phần tử tách rời
và luôn luôn đối kháng với quyền lợi dân
tộc. Cuối cùng họ đã đưa dân tộc
vào vòng nô lệ ngoại bang và tới nay những hệ
lụy tai hại của nó cũng
vẫn còn tồn tại.
Từ đầu thế kỷ 20, một
loạt các đạo “độc thần” thuộc KiTô giáo
là các giáo phái Tin Lành đã xâm phạm nước ta. Họ đã lập được nhiều cơ
sở tôn giáo hoạt động tại khắp Trung-Nam-Bắc
Việt Nam trong suốt thời Pháp thuộc. Trong
cuộc chiến Việt-Mỹ (1964-1975), nhiều giáo phái
Tin Lành Mỹ đã lợi dụng ưu thế quân sự
và tiền bạc để dụ dỗ mua chuộc
những người Thượng
nhẹ dạ lập nên những “Hội Thánh Tin Lành”
tại miền Cao Nguyên ở Trung và Bắc Việt. Ngày nay, những “Hội Thánh” này đã trở thành
những ung nhọt nhức nhối cho dân tộc Việt Nam.
Mặc dầu
KiTô giáo (Công giáo và Tin Lành) có mặt tại nước ta
đã mấy trăm năm, nhưng nó vẫn là một
thứ sản phẩm văn hóa xa lạ đối
với tuyệt đại đa số dân tộc Việt Nam. Cho đến
nay, vẫn có nhiều người Việt Nam
lầm lẫn về các danh xưng tôn giáo này của Tây
Phưong. Điều này dễ hiểu
vì hai hệ thống tôn giáo của Tây Phương và
Đông Phương hoàn toàn khác biệt nhau. Trải qua nhiều thế kỷ, các tôn giáo Tây
Phương bị phân hóa thành rất nhiều giáo phái
(denominations) khác nhau, với tên gọi khác nhau, làm cho chúng ta
nhìn vào cái khối tôn giáo phức tạp này phải rối
mắt và rất khó phân biệt.
Điều lầm lẫn lớn nhất và đáng
nói nhất là nhiều người Việt đã lầm
lẫn gọi KiTô giáo hoặc Công giáo La Mã là “Thiên Chúa Giáo”,
vì trong thế giới Tây Phương không hề có danh
từ “Thiên Chúa Giáo”. Chúng ta đã biết các tôn giáo
thờ Chúa đều đã xuất phát và thịnh hành trong
các nền văn hóa Tây phương (bao gồm các
nước Âu Mỹ, Do Thái, Ả Rập) Quan niệm
về Chúa hay Thần (God) và cách đặt tên hoặc
phân loại các tôn giáo của họ hoàn toàn khác biệt
với quan niệm của chúng ta. Do đó, muốn xử dụng đúng các danh từ
tôn giáo Tây phương, chúng ta phải hiểu rõ cách suy
nghĩ và quan niệm của họ về tôn giáo.
Đồng thời chúng ta cũng cần phải hiểu
người Á Đông, nhất là các tín đồ Phật
giáo Việt Nam quan niệm về “tôn giáo” như thế nào.
Trong bài viết “Vô Ngã” đăng trong tạp
chí Hoa Sen, số 46, ngày 15-5-2002, giáo sư Trần Trung
Ngọc đã giải thích hết sức rõ ràng và dễ
hiểu về sự khác biệt trong quan niện về tôn
giáo giữa người Tây phương và người Phật
tử như sau (trang 70-71):
“ Phật giáo
không phải là một tôn giáo theo nghĩa của
người Tây phương
thường hiểu, nghĩa là một tôn giáo trong
đó các tín đồ tin rằng có một vị Thần
(hoặc Thiên Chúa/Thượng Đế) có khả năng
sáng tạo ra vũ trụ muôn loài, có quyền thưởng
phạt con người. Do đó con người sợ hãi
và cầu nguyện để xin vị Thần đó ban ân huệ cho mình và nhất là ban cho mình có
sự sống đời đời sau khi chết.
Phật giáo quan niệm một tâm cảnh như trên làm
mất phẩm giá con người, vì như vậy là con
người tự buộc mình vào mớ xiềng xích nô
lệ. Nô lệ vật chất hay nô lệ tôn giáo tâm linh
cũng đều là nô lệ. Do đó, nếu chúng ta coi
Phật giáo là một tôn giáo thì chúng ta cần phải
hiểu đó là một tôn giáo nhân bản và nhân chủ. Nhân
bản là đặt căn bản trên con người. Nhân
chủ là con người tự làm chủ mình, tự mình tu
tập để đi đến giải thoát, chứ không
trông ngóng ở bất cứ một thứ Thần
quyền nào”.
Hoàn toàn tương phản
với quan niệm về tôn giáo nói trên của Phật giáo,
trong mọi tôn giáo của Tây
phương luôn luôn phải có sự hiện diện
của một vị Thần (God). Tiếng Hy Lạp gọi Thần (God)
là “Theo”. Từ căn ngữ “Theo”, người Tây
phương đã sáng tạo các danh từ về tôn giáo
của họ.Tỷ dụ :
- Theology : khoa thần học
- Theism : hữu thần
- Atheism : vô thần
-
Polytheism : đa thần giáo
(đạo thờ nhiều Thần như Đa Thần
giáo La Mã hay Hy Lạp)
-
Monotheism : độc thần
giáo (như các dạo thờ Chúa – God)
-
Non-theism : phi thần giáo
(như Phật giáo đặt trọng tâm vào con
người, chứ không vào một vị thần nào
cả)
Danh Từ “Độc Thần Giáo” (Monotheism)
được hình thành bởi hai chữ: “Mono” có nghĩa
là Một (duy nhất) và “Theism” (Theo=God). Như vậy, Độc
Thần giáo có nghĩa là niềm tin tôn giáo vào một vị
thần duy nhất (Monotheism is the belief in only one God).
Người Tây
phương dùng danh từ Độc Thần giáo (Monotheism)
để gọi chung 3 tôn giáo thuộc
hệ thống “độc thần” là: Do Thái giáo, Ki Tô giáo
và Hồi giáo (the three related monotheist faiths of Judaism, Christianity
and Islam). Cả ba tôn giáo này
đều thờ chung một Chúa (God)
nhưng người ta đã không gọi những tôn giáo này
là Thiên Chúa Giáo. Chỉ có một danh từ chung
cho các đạo thờ Chúa là “Độc Thần Giáo” mà
thôi. Chúng ta sẽ lần lượt
nghiên cứu về ba tôn giáo độc thần này :
1. Do Thái Giáo (Judaism) : Riêng cái tên “Do Thái giáo” cũng đã
đủ nói lên cái ý nghĩa hạn chế của nó: đó là đạo của một
dân tộc (a religion limited to
one people). Tín đồ Do Thái giáo chính là công dân
Do Thái. Hiện nay số tín đồ Do
Thái giáo khoảng 12 triệu người (ở Mỹ 5.8
triệu; ở Israel 4.6 triệu, ở các nơi khác trên thế
giới 1.6 triệu).
Do Thái là một dân tộc nhỏ bé, nhưng
ảnh hưởng văn hóa của nó đối với
Tây phương thật là lớn lao: Ít nhất là 1/3
nền văn minh Tây phương
mang dấu ấn của các tổ tiên Do Thái: Adam Smith,
Noah Webster, Abraham Lincoln, Isaac Newton, Rebecca West, Sara Teasdale, Michaelangelo,
và nhiều nữa.
Bản kinh Mười Điều Răn (The
Ten Commandments) được toàn thế giới Kitô giáo và
Hồi giáo (gồm quá nửa tổng số nhân loại)
tuân theo. Chính nó đã
tạo nền tảng tinh thần (moral foundation) cho thế
giới Tây phương. Những điều răn : “Thou shalt not murder, Thou shalt not commit
adultery, Thou shalt not steal, .....” tiếp tục có tác dụng
từ 3000 năm trước cho đến nay.
Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn lao
nhất của dân tộc Do Thái đến với thế
giới chính là đạo Do Thái: từ 5000 năm qua, các dân tộc
Babylon, Ai Cập, Syria và các dân tộc khác ở Âu Châu và
Địa Trung Hải đều vẫn nghĩ rằng
mỗi một năng lực thiên nhiên đều
được cai quản bởi một vị thần
riêng biệt: bão tố có Thần Bão Tố, sấm sét có
Thần Sấm Sét, ... rồi Thần Biển, Thần
Mặt Trăng, Thần Mặt Trời, Thần Núi,
Thần Sông, v.v.... Nhưng riêng
dân tộc Do Thái, suốt 5000 năm qua, chỉ có một
quan niệm hết sức rõ rệt là “một Thiên Chúa
đơn thuần cho muôn loài” (A single Lord of all being). Rõ
ràng là các nước Trung Đông cổ xưa theo Đa
Thần giáo (Polytheism), trong khi Do Thái là nước duy
nhất theo Độc Thần. Kinh thánh Cựu Ước
Do Thái xác định Thiên Chúa Yahweh là Thiên Chúa duy nhất
được tôn thờ bởi dân tộc Do Thái. Vì thế Yahweh là Thiên Chúa (Thần) của Israel
(God of Israel). Như vậy, ngay từ
ngày đầu có lịch sử Do Thái, những
người Do Thái đã tự khẳng định bản
thân mình là những người độc thần
(monotheists). Sách Cựu Ước Deuteronomy (6:4) tạo
nền tảng “độc thần” cho dân tộc Do Thái:
“Dân tộc Do Thái, hãy nghe đây, Chúa của chúng ta, Chúa là
Một” (hear, O Israel, the Lord is our God, the Lord is One). Đạo Do Thái trở thành
khởi điểm của Độc Thần giáo (The point
of departure of Monotheism) hay nói đúng hơn, Do Thái giáo là
“Mẹ” của các đạo Độc Thần (the mother of
all monotheist religions).
2. Ki Tô Giáo
(Christianity)
: KiTô giáo là đứa con
đầu lòng của Do Thái giáo. KiTô giáo sau vài thế
kỷ phát triển, nhất là từ sau thế kỷ 4 do
được sự công nhận là “quốc giáo” cho toàn
thể đế quốc La Mã của hoàng đế
Constantine, KiTô giáo đã trở thành một tôn giáo phổ
biến rộng rãi khắp thề giới. Ngày nay, tổng
số tín đồ KiTô giáo lên tới 2 tỷ 100 triệu,
tức khoảng 1/3 tổng số nhân loại !
KiTô giáo là tôn giáo lớn nhất thế
giới, nhưng đã bị chia thành 3 khối chính (three
major divisions):
a.
Công giáo La Mã (Catholicism)
b. Chính Thống giáo Đông phương (Eastyern Orthodox)
c.
Tin Lành (Protestantism)
Dù bị chia ra nhiều giáo phái nhỏ,
tất cả các tín đổ KiTô giáo đều thống
nhất ở một điểm là tôn thờ Jesus Christ. Chúng ta có
thể phân biệt hai Jesus: một “Jesus của lịch
sử” (Jesus of History) và một “Jesus của niềm tin” (the
Jesus of Faith)
- Về “Jesus của lịch sử” , chúng ta
biết rất ít về Ngài. Thậm chí người ta cho
rằng chỉ có 20% các lời nói của Jesus trong các sách
Tân Ước là đúng thật của Jesus, 80% còn lại
là những lời bịa đặt do người ta gán
cho Ngài mà thôi.. Jesus chưa bao giờ bước chân ra khỏi
sinh quán xa tới 90 dậm ! Không hề
được bước chân tới trường học
ngày nào, nên ông ta là một kẻ hoàn toàn mù chữ và thất
học.
Tuy nhiên, do những hoàn cảnh đặc
biệt của lịch sử, “Jesus của lịch sử”
đã biến thành “Jesus của niềm tin” (The Christ of
Faith):
- Trước
hết, những người Do Thái mến mộ Jesus
ở thủ đô Jerusalem
trong đầu thế kỷ 1 đã trở thành những
tín dồ KiTô giáo đầu tiên (Jewish Christians). Họ không
nghĩ là một tôn giáo mới đã được hình
thành mà chỉ nghĩ rằng: Jesus là một tín đồ
của đạo Do Thái và chính họ cũng vẫn là
những tín đồ Do Thái giáo.
- Từ sau
thế kỷ 4, KiTô giáo được công nhận là quốc giáo của
đế quốc La Mã, các tín đồ KiTô giáo gốc La Mã
(Roman Christians) đã đem vào KiTô giáo rất nhiều nghi
lễ và tập tục của Đa Thần giáo La Mã:
nhận ngày sinh của Jesus là 25 tháng 12 dương lịch,
đi lễ ngày chủ nhật (sunday). Những ngày này
thật ra là những ngày tế thần Mặt Trời của
Đa Thần giáo La Mã. Giáo hoàng đầu tiên
của KiTô giáo là Miltiades (giám mục thứ 32 ở
Rome)
được hoàng đế Constantine phong
là “Pontifex Maximus”. Đó chính là chức vị của người
đứng đầu Đa Thần giáo của đế
quốc La Mã. Có lẽ
biến cố quan trọng nhất trong lịch sử KiTô
giáo là vào năm 325, hoàng đế Constantine triệu tập
công đồng Nicaea với
sự tham dự của trên 300 giám mục (gồm hầu hết các giám
mục trong toàn đế quốc hồi đó) để
bỏ phiếu quyết định về bản chất
của Jesus. Kết quả là do quyền lực của
hoàng đế, các giám mục đã quyết định
chiều theo ý nhà vua là “Christ có cùng
bản chất với Chúa Cha” (Christ was of one substance with
Father). Như thế là chỉ trong một sớm một chiều, Jesus
từ một người thường (a man) bỗng nhiên
trở thành “Thiên Chúa xuống thế làm người” (a
God-man) Yahweh của Israel trở thành Chúa Cha
(God the Father) và Jesus thành Chúa Con (God the Son). Jesus
được gọi là “Chúa Hóa Thân” (God Incarnate).
Đó là nguồn gốc của “The Incarnation of God” !
Quyết định của công
đồng Nicaea
do Constantine
triệu tập năm 325 thật sự đã lập ra một
tôn giáo mới là Ki Tô giáo. Cái cốt lõi của KiTô giáo là:
Ta có thể biến một người tầm
thường thành Thiên Chúa Toàn Năng để tôn thờ,
miễn là điều này được một công
đồng như công đồng Nicaea
quyết định ! Công đồng
Nicaea là
sản phẩm quyền lực của Constantine và
chính Constantine mới thực sự là cha đẻ của
đạo Ki Tô.
Qua nhiều thế kỷ
kế tiếp, nhất là sau “thánh Augustine” thuộc thế
kỷ 4, nhiều nhà thần học KiTô giáo đã “thêm
mắm thêm muối” hoặc “tô son trát phấn” cho Jesus
bằng những thần thuyết nhảm nhí để
biến ông ta thành “Đấng Tạo Hóa Toàn Năng”. Họ dùng thần thoại Hy Lạp “The Logos”
(tiếng Anh dịch là “Word”) có nghĩa là “Lời Nói
của Thiên Chúa”. Họ gán cho Jesus là Logos đã cùng
với Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ vạn vật.
Sách Tân Ước của John xác định về Jesus: The
Word (Jesus) had
been with God in the beginning. Through Him all things came to be”.
Cuối cùng, đối với các tín
đồ KiTô giáo (Christians), Jesus là Thiên Chúa, là chính
đấng tạo hóa toàn năng tạo thành vũ trụ,
là Chúa Cứu Thế (Savior) chuộc tội thiên hạ. Tóm lại, Jesus là “Chúa Ki Tô của niềm tin” (The
Christ of Faith).
Cùng với
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Jesus kết hợp với hai
người kia tạo thành Thiên Chúa Ba
Ngôi (Holy Trinity). Cả ba người là
Một Thiên Chúa. Với
lý luận như vậy về “Thiên Chúa của đạo
Ki Tô” (The Christian God), KiTô giáo tự xác định tôn giáo
của mình là Độc Thần giáo thứ hai sau
đạo Do Thái.
Như trên đã nói, KiTô giáo bị phân hóa thành
3 khối tôn giáo riêng biệt và luôn luôn xung đột
với nhau, rất nhiều lần trong lịch sử,
họ đã đi đến nhiều cuộc xung
đột đẫm máu. Chúng ta sẽ lần lượt
xét về ba ngành (divisions) này của KiTô giáo :
-
Công Giáo La Mã (Roman Catholicism) :
KiTô giáo là một hiện tượng
phức tạp ( a complex phenomenon), vì
mỗi khi chúng ta đưa ra một vấn đề chung của KiTô giáo không có nghĩa
là mọi người KiTô giáo (Christians) sẽ đồng ý
với chúng ta.
Giáo Hội
của Chúa Jesus vẫn được coi là chính thân thể
của Ngài (the Church is the Body of Christ) đã bị vỡ
thành 3 mảnh lớn. Thế giới KiTô giáo (the
Christendom/the Christian World) đã bị phân ra 3 vùng trên 3 khu
vực của thế giới :
(1)
Công
Giáo La Mã thống trị vùng Trung và Nam Âu Châu, Ái Nhĩ Lan, các nước Trung và Nam Mỹ.
Mọi tín điều và mọi thứ biệt lệ
đều được ban ra từ trung tâm chỉ huy
tối cao là Vatican ở Rome.
(2)
Chính
Thống giáo Đông Phương (Eastern Orthodoxy) chi phối toàn
miền đông Âu Châu: Hy Lạp, các dân tộc thuộc
giống Slavic (Bạch Nga, Bảo Gia Lợi, Tiệp
Khắc, Macedonia, Serbia, Croatia, Ukraine, Slovakia,...) và vùng lãnh
thổ Liên Xô cũ.
(3)
Các
giáo phái Tin Lành thống trị miền Bắc Âu Châu (Na
Uy, Thụy Điển), Anh Quốc, Tô Cách Lan, và Bắc
Mỹ (Mỹ và Canada).
Năm 380, KiTô giáo được công nhận
là một tôn giáo chính thức (the official religion) của toàn
đế quốc La Mã. Tất nhiên, vào thời điểm đó, KiTô
giáo là một khối tôn giáo thống nhất (a united body). Cái khối thống nhất vĩ đại này chỉ tồn tại
đến năm 1054. Nói một cách khác, “cái thân thể
của chúa KiTô” (the body of God) do hoàng đế Constantine
dựng lên chỉ giữ được cái hình hài của
nó nguyên vẹn
trong 674 năm mà thôi. Năm 1054 là cái mốc lớn đánh dấu sự rạn
nứt đầu tiên, vĩ đại nhất và đau
đớn nhất của KiTô giáo. Sự
rạn nứt này đã kéo dài gần 10 thế kỷ qua và
không có một dấu hiệu nào về sự hiệp thông
cả. Sự phân cách giữ Đông
(Chính Thống giáo Đông phương) và Tây (Công giáo La Mã)
đã trở thành vĩnh viễn và vô phương cứu
chữa.
Cái nguyên do chính
yếu đưa đến đổ vỡ giữa hai
giáo hội Đông và Tây của KiTô giáo chính là thái độ
hống hách láo xược của Vatican đối với giáo
hội Đông Phương: Vatican dành toàn quyền giáo huấn
các tín đồ (teaching authority) và củng cố quyền
hành bằng tín
điều do họ tự ý đặt ra là “giáo hoàng không
thể sai lầm” (the doctrine of papal infallibility). Vatican
tự nhận mình là “hòn đá tảng” duy nhất do Chúa
chọn để xây dựng giáo hội: “Trên viên đá này ta
xây giáo hội” (On this rock, I build my Church). Điều quan trọng hơn
hết là Vatican gom hết mọi quyền
năng thiêng liêng cao cả của Chúa thành quyền năng
của mình: Nắm giữ các chìa khóa của Thiên Đàng
(all the keys of the Kingdom of
Heaven).
Mọi người được cứu rỗi linh
hồn hay không đều do Vatican
quyết định: “Bất cứ điều gì con
buộc ở dưới đất, điều đó
sẽ bị buộc ở trên trời. Bất cứ
điều gì con
tha ở dưới đất, điều đó sẽ
được tha ở trên trời !”
Một thế kỷ sau biến cố
rạn nứt giữa hai giáo hội Đông Tây của
đạo KiTô, tức là từ đầu thế kỳ
12, giáo hội Công giáo La Mã đưa ra một ý
tưởng trung tâm của giáo hội (the central idea to the
Church): Giáo hội Công giáo là “đại diện”
của Chúa trên trái đất, một cơ quan duy nhất có
quyền ban phát mọi phép bí tích (sacraments) cho con
người. Giáo
hội Công giáo ấn định có 7 phép bí tích. Bảy phép bí tích này chi phối
cả cuộc đời của mọi tín đồ Công
giáo:
- Khi mới sinh,
đứa con nít phải được đưa
đến nhà thờ chịu phép
rửa tội (Baptism) để xin Chúa tha cho nó cái “tội tổ tông”. Khi nó
lớn lên 12-13 tuổi, nó cần
được chịu phép
thêm sức (Confirmation). Thêm vài tuổi nữa nó sẽ
được hướng dẫn để đi xưng tội (confession) và
quan trọng hơn cả là phép
mình Thánh Chúa (the Holy Eucharist) trong các lễ Misa. Lễ Misa là nghi lễ kỷ niệm bữa
tiệc cuối cùng (The Last Supper) của Jesus với các môn
đệ, trong đó có bánh và rượu. Trong lễ Misa ngày nay, các linh
mục Công giáo có “quyền năng” biến thể bánh thành
thịt thật và rượu thành máu thật của Jesus.
Tất cả các tín đồ đều nghiêm chỉnh “ăn thịt sống và uống máu
tươi của Chúa”. Tất cả các tín đồ
đều quên rằng họ đã trở nên những
kẻ ăn thịt người
(cannibals) man rợ! Đây là “phép bí tích”
mọi rợ độc đáo của giáo hội Công giáo
La Mã.
-
Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Orthodoxy):
Chính Thống giáo Đông Phương tách
khỏi giáo hội Công giáo La Mã để lập thành
một giáo hội riêng biệt mà họ tin rằng chính họ đã tách ra khỏi “tà
đạo Công giáo” để trở về với
đạo KiTô chân chính theo truyền thống của Chúa
KiTô (the traditional Christianity). Ngày nay, Chính Thống
giáo Đông Phương có 250 triệu tín đồ. Về phương diện nghi
lễ, Chính Thống giáo Đông Phương rất gần
gũi với Công giáo La Mã: cả hai đều rất tôn sùng đức
Bà Maria. Đại biệt là cả hai đều thờ chung một ảnh về Đức Bà,
đó là ảnh “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” (tranh
vẽ vào thế kỷ 14 của Hy Lạp).
Giáo hội Chính Thống giáo
cử hành 7 phép bí tích giống hệt như Công giáo La Mã.
Về các tín điều khác, họ cho rằng Công giáo La Mã chỉ có quyền
giải thích các điều đã nói trong Thánh kinh mà thôi, và
không có quyền “phát minh” ra những tín điều mới. (The
Church can interpret doctrines, but cannot initiate them). Do đó, họ không công nhận những tín
điều mà Công giáo La Mã đã tự ý phịa ra mà không có
căn bản Thánh kinh. Đó là các tín
điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (The
Immaculate Conception), “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời”
(Assumption of Mary). Chính Thống giáo phủ nhận
sự hiện diện của “Luyện Ngục” (Purgatory),
phủ nhận tín điều “Giáo hoàng không thể sai
lầm” và các “Ơn Toàn Xá”, “Ơn Đại Xá”, “Ơn
Tiểu Xá” mà Vatican dành quyền ban cho các linh hồn bị
giam ở Luyện Ngục. Hầu
hết các ơn này (indulgences) đều đã
được Vatican và các tu sĩ Công giáo bán lấy
tiền. Đây là một hình thức lừa bịp giáo
dân một cách hết sức bỉ ổi do Vatican
phát minh vì trong Kinh Thánh chỉ nói đến Thiên Đàng và
Hỏa Ngục mà thôi. Lò
Luyện Ngục (Purgatory) là một sự sáng tạo
độc quyền của Vatican. Chính Thống giáo mỉa mai
gọi nó và các tín điều bịa đặt của Vatican
hoàn toàn là những “sáng kiến” (innovations), có nghĩa là hoàn
toàn do Vatican tự ý bịa ra, chứ không
hề được nói đến trong Thánh Kinh.
Các tu sĩ Chính Thống giáo
Đông Phương không nhất thiết phải sống
độc thân. Người đứng
đầu giáo hội là Thượng phụ tại Constantinople (The Patriarch
of Constantinople) cũng có gia đình.
-
Đạo Tin Lành (Protestantism) và tín dồ (protestants/protesters) :
Tôi rất thắc mắc không
biết tại sao cái giáo phái KiTô Tây Phương nổi
tiếng “chống đối” (to protest) lại được người Việt Nam gọi là “Đạo
Tin Lành”. Tôi đã cố gắng rất nhiều
để xem trong các tự điển Anh-Pháp văn xem có tôn giáo nào
có tên gọi là “Tin Lành” không, nhưng không hề thấy.
Quả thật, không hề có một tôn giáo nào
được gọi là “The religion of Good News” cả !
Mặc dầu các cuốn kinh thánh Tân
Ước của đạo KiTô được gọi là
“Sách Tin Mừng”, dịch từ tiếng Hy Lạp “Gospel”,
có nghĩa là “Good News”. Đạo Tin Lành lấy “Gospel” làm
nền tảng chính yếu cho niềm tin của mình, nhưng không thể vì thế mà có
thể tự đặt tên cho niềm tin của mình là
“Đạo Tin Lành”, vì Công giáo La Mã cũng như Chính
Thống giáo cũng coi trọng Gospel không kém gì “Tin Lành”
! Danh từ
“Đạo Tin Lành” có lẽ dã xuất hiện tại
Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, khi tôn giáo này
mới du nhập vào nước ta. Tôi tin rằng các
mục sư Tin Lành Việt Nam
đã cố tình
dịch sai danh từ “Protestatism” để
đem lại cho cái giáo phái KiTô này một cái tên “quá
đẹp” trong Việt ngữ của chúng ta. Tôi thực tình tin rằng cái bản
chất của tôn giáo này không phải là “Tin Lành” mà là “Tin
Dữ”, “Tin Buồn” cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Cụ thể là
nó đang gây chia rẽ giữa người Kinh và
người Thượng, nó đang xúi dục các lực
lượng dân tộc thiểu số ly khai Fulro chống lại sự
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Tổ
Quốc Việt Nam.
Tôi tin rằng danh từ “Protestatism” và “Protestant”
được định nghĩa trong các tự
điển Webster hoặc Bách Khoa tự điển Anh
ngữ (Encycloepedia) là chính xác nhất. Cái ý nghĩa chính
yếu của danh từ “Protestatism” là căn ngữ “to
protest” (chống lại). Ở đây chỉ có nghĩa là chống giáo hội Công giáo La Mã.
Tự điển The American Heritage College Dictionary
định nghĩa “Protestatism”: The
religion and religious belief fostered by the Protestant movement in the
Western Church. The faith is the principles of the Protestant Reformation (Protestatism
là một tôn giáo hay một niềm tin được phát sinh
bởi một phong trào chống đối trong giáo hội
KiTô giáo Tây Phương. Đó là một niềm tin
được tạo thành trên căn bản những nguyên
tắc của cuộc Cải Cách Giáo Hội).
Protestant (tín đồ Tin Lành)
được các tự điển Anh ngữ định
nghĩa: “Protestant is one who supported the Protestation presented by the
German Lutheran states against the revocation of the decree The Diet of Sprayers of the Holy Roman
Empire in 1529”. Danh từ “tín đồ Tin Lành”
(Protestant) được định nghĩa khá dài dòng và
phức tạp. Trong thế kỷ 16, giáo hội Công
Giáo La Mã tự xưng là “Đế Quốc La Mã Thánh
Thiện” (The Holy Roman Empire), nhưng bị nhiều
quốc gia khác bất phục tòng, trong số đó có các
quốc gia thuộc bộ lạc Đức theo
phái Lutheran. Những quốc gia này (the German Lutheran states)
đã nộp thư phản kháng (The
Protestation) chống đối giáo hội Công giáo La Mã vào
năm 1529. Sau đó,
trong toàn
thế giới KiTô giáo Tây Phương, bất cứ tín
đồ KiTô giáo (Christians) nào tự ý tuyên bố ủng
hộ “Thư Phản Kháng” nói trên đều
được gọi là “người chống đối”
(Protestant) tức là họ đã mặc nhiên trở thành “tín
đồ Tinh Lành” !
Tóm lại, theo
các định nghĩa của các tự điển lớn
hoặc các sách Bách Khoa tự điển Tây Phương,
chúng ta thấy danh từ Protestatism không hề có nghĩa là
“Tin Lành” mà chỉ có nghĩa là “Phản Kháng” hoặc
“Phản Đối” mà thôi. Vì vậy, xin
đề nghị đồng bào Việt Nam hủy bỏ danh
từ vô lý “đạo Tin Lành” để thay thế
bằng danh từ “Thệ Phản Giáo”. Danh từ này đã
có thời được nhiều người xử
dụng ở Việt Nam.
Điều đáng chú ý là danh từ “Thệ Phản giáo”
đã nói lên được phần nào cái ý nghĩa chính
yếu là “phản kháng” (to protest) trong danh từ Protestatism.
Theo tôi, danh từ “Thệ Phản Giáo” là danh từ thích
hợp nhất để gọi cái tôn giáo mà chúng ta đã
sai lầm gọi là đạo Tin Lành !
3.
Độc
Thần Giáo thứ Ba : Hồi Giáo (Islam)
Trong tác phẩm best-seller “A History of God”,
nơi trang 141, tác giả là bà Karen Amstrong đã viết:
“Muhammed không cần phải chứng minh sự hiện
hữu của Thiên chúa (Allah) cho bộ lạc Quraysh (bộ
lạc tổ tiên của Muhammad) vì họ đã tin và
thờ Allah một cách mặc nhiên. Họ tin
Allah là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên trời
đất và mọi sinh vật. Họ tin rằng Allah chính là vị Thiên Chúa đã
được tôn thờ từ lâu bởi người Do
Thái và KiTô giáo. Muhammad xác nhận: kinh Koran không dạy điều gì
mới mà chỉ nhắc lại những điều đã
được biết (the Koran was not teaching anything new, it
claims to be a reminder of things known already) p.142. Tuy nhiên, Muhammad và kinh Koran kết án
nặng nề KiTô giáo vì tôn giáo này tin Thiên Chúa có ba ngôi, tin
Jesus là con của Thiên Chúa (the only son of God) và là Thiên Chúa Hóa
Thân (God Incarnate),.... Muhammad coi các tín điều của KiTô
giáo này đều có tính “phỉ báng” Thiên Chúa (blasphemy) !
Muhammad và đạo Hồi
kịch liệt chống đối sự thờ ảnh
tượng của Công giáo La Mã (Idolatry) và gọi đó là
tội lớn nhất trong đạo Hồi (the greatest sin
of Islam). Người KiTô giáo nhấn mạnh
đến sự cứu chuộc của “Thiên Chúa Hóa Thân
Thành Người” (God Incarnate) tức Jesus, nhưng kinh Koran
khẳng định: Không có
một Thiên Chúa nào khác ngoài Allah là đấng Tạo Hóa đả
tạo thành trời đất, muôn vật, chỉ có
một mình Allah có thể cứu chuộc con người
(There is no Diety but Allah, the Creator of heaven and earth, who alone can
save man – p.149).
Muhammad là người
độc thần đầu tiên nhận ra sự
đồng nhất trong việc thờ Thiên Chúa Duy Nhất
của ba tôn giáo Do Thái, Ki Tô và Hồi. Do đó, Muhammad
đã sáng tạo ra những danh
từ để gọi chung cho cả ba
“niềm tin độc thần” (the three related monotheist
faiths).
1). Trước hết, Muhammad gọi các sách
Thánh Kinh của cả ba đạo độc thần (Do
Thái, Ki Tô và Hồi) là các “sách
mặc khải” (Books of Revelation). Sự
“mặc khải” là nét đặc thù quan trọng của
cả 3 tôn giáo độc thần. Danh từ
“Revelation” do căn ngữ “to reveal” là “tiết lộ”. Mặc Khải là hành
động Thiên Chúa tự tiết lộ những bí
mật của mình cho một “tiên tri” nào đó. Sau đó, vị tiên tri “tiết
lộ” lại với các tín đồ để họ có
thể hiểu được “ý Chúa” và các mệnh lệnh
của Ngài.
Trong thực tế, chắc
chắn một điều là chẳng bao giờ có
chuyện Chúa và người nói chuyện mặt đối
mặt để Chúa tiết lộ mọi mệnh
lệnh và những bí mật của Ngài cho nhân loại
biết qua các vị tiên tri. Các điều
được gán cho là Chúa đã “mặc khải” cho các
tiên tri như Abraham, Moses, Isaiah (Cựu Ước) hoặc
các “thánh sử” như Matthew, Luke, John và kể cả việc
thiên thần Gabriel được Allah mặc khải
rồi “kể lại” cho Muhammad nghe để rồi
viết thành kinh Koran. Tất cả chỉ là chuyện
bịp! Thật sự, Chúa là đấng vô
hình, hoàn toàn im lặng, Chúa chẳng tiết lộ (mặc
khải) điều gì cho con người. Tất cả
những điều được các đạo
Độc Thần gọi là “sự mặc khải”
chỉ là những ý kiến riêng của Abraham, Moses, Matthew,
John, Luke và Muhammad.
Tất cả các điều được ghi chép trong các
sách mặc khải chỉ là “lời của người
phàm” và không có một lời nào có thể gọi là “Lời
Chúa”!
Lý do đơn giản là Chúa không biết nói
và cũng chẳng nói bao giờ, nên từ xưa tới nay
không một ai có
thể nghe thấy để có thể ghi chép
được “lời Chúa”.Tất cả các sách mặc
khải (Cựu Ước, Tân Ước, Koran) đều
chỉ là những sách bịp bợm ghi chép các lời
bịa đặt được gán cho các nhân vật
(được gọi là tiên tri) như Abraham, Moses, Gioan
Baotixita, Jesus, Muhammad.
2).
Muhammad gọi chung các tín đồ
của ba đạo độc thần bằng danh từ chung “những
người của các sách mặc khải” (The People of the Books
– tiếng Ả Rập gọi là “Dhimmis”) hoặc gọi
họ bằng một danh từ đơn giản hơn
là “những kẻ biết kính sợ Đức Chúa
Trời” (God fearers).
Trong Lời Nói Đầu viết cho tác
phẩm “Why I am not a Muslim” của Ibn Warraq, giáo sư Joseph
Hoffman thuộc đại học Westminster,
Oxford, đã viết: “KiTô
giáo và Hồi giáo đã nổi bật lên là những phong
trào cải cách tôn giáo độc thần. Cả hai
đều tự cho là mình tôn thờ “Thiên Chúa Thật” và
đồng thời đề cao lòng bác ái ,
nhất là lòng từ bi khoan dung tha thứ.
Nhưng
cả hai đều tuyên truyền tư tưởng và
mở rộng “Nước Chúa” bằng bạo lực. Thế giới KiTô giáo thường được
gọi là Christemdom (The Christian World) hoặc “Vương
Quốc của Chuá Ki Tô” (The Kingdom of
Christ), so sánh với
“Dar-Al-Islam (The World of Islam – Thế Giới Hồi Giáo) là hai
anh em sinh đôi trong 12 thế kỷ qua. (Christianity and Islam arose as
monotheistic reform movements. Both proclaimed the true God, the importance of
charity, the quality of mercy. Yet both were inclined to propagate their ideals
and to enlarge the Kingdom of
God
by force. The Dar-Al-Islam (The World
of Islam) and the Kingdom of
Christ,
once called Christiandom, were twins for the better part of twelve centuries).
Điều nguy
hiểm là Hồi giáo đã không gọi những vùng không theo Hồi giáo là “vùng ngoại đạo” mà
lại gọi là “vùng chiến tranh” (tiếng Ả
Rạp: Dar-Al-Harb – Realm of War).
Đó
là vùng đất mà người Hồi giáo sẽ quyết
dùng chiến tranh để thanh toán những kẻ không tin
(unbelievers) để mở rộng nước Chúa !
Nói chung, các tín đồ độc thần
giáo (monotheists) dù thuộc đạo Do Thái, đạo KiTô
hay Hồi giáo đều giống nhau ở điểm là
đa số cuồng tín, tự cao tự đại về
tôn giáo của mình và nhất là luôn
luôn tự cho rằng chỉ có tôn giáo của mình là nắm
chân lý tuyệt đối mà thôi (absolute truth claim). Do lòng
tự tôn mù quáng, những người độc thần
đã gọi những người ngoại đạo là
“heathen” với ý khinh bỉ. Các tự điển Webster
hoặc The American Heritage
định nghĩa “Heathen” như sau: “One who adheres to a
religion that doesnot acknowledge the God of Judaism,
Christianity or Islam. One who is regarded as irreligious and uncivilized”
(Người “ngoại đạo” là những người theo một tôn giáo không công nhận Thiên Chúa
của Do Thái giáo, KiTô giáo và Hồi giáo. Người
“ngoại đạo” bị coi là vô tôn giáo và kém văn
minh!).
Trong lịch sử nhân loại,
tính ra có hàng trăm triệu người đã bị
chết vì sự cuồng tín của các tín đồ tôn giáo
độc thần (KiTô và Hồi giáo). Họ có
thể mù quáng tin là “giết” người (ngoại
đạo) là không hề vi phạm điều dạy
của Chúa “thou shalt not kill”, mà lại là hợp với ý
của Chúa và được thưởng “lên Thiên Đàng”
! Cũng vì tinh thần
cuồng tín này mà ngay những người cùng đạo
“độc thần” cũng hăng hái giết nhau, chỉ
vì lời giải thích khác nhau của cuốn thánh kinh hay
lời dạy của ông giáo chủ !
Không biết các ông giáo chủ các đạo độc
thần này có biết đến hậu quả tai hại cho
nhân loại của những lời giảng dạy của
mình không ?
Những người cổ Hy Lạp theo Đa Thần giáo (Polytheism). Họ tôn thờ rất nhiều thần. Họ tạc các hình tượng Thần bằng
đá hoa cương với thân hình rất đẹp.
Họ sẵn sàng tiếp nhận những vị thần
của các dân tộc khác mà không cần phải loại
trừ một Thần nào ra khỏi đền thờ.
Họ gọi đền thờ là “Pantheon”, thường
được xây cất theo hình vòng tròn
(circular temple). Đền thờ cổ Hy Lạp chẳng
những có các tượng Thần mà còn có tượng các
vị anh hùng dân tộc, cả nam lẫn nữ. Các vị thần linh cũng như các nhân thần
đều được coi là các vị thần của
dân tộc (Gods of the people).
Với tinh thần đa tôn giáo, đa văn
hóa, chấp nhận mọi tư tưởng và niềm tin
dị biệt, những người Hy Lạp “đa
thần” rất cởi mở và sống hòa hợp với
mọi người. Họ đã tạo nên một nền
văn minh sáng chói từ thế kỷ 16 trước Công
Nguyên (Điển hình là họ đã chế được
dụng cụ và vũ khí bằng đồng, đã
chiến thắng vẻ vang trong chuyện “Con Ngựa thành
Troy”
tk 16 TCN). Có
lẽ từ thế kỷ 2 TCN, người La Mã đã
đón nhận nền văn minh Hy Lạp và tiếp
nhận Đa Thần giáo.
Hiện nay tại Rome
còn tồn tại một đền thờ Pantheon do
người La Mã xây năm 27 TCN. Trong
đền có rất nhiều tượng các vị
thần. Hầu hết là các vị thần Hy Lạp,
nhưng được đổi tên thành thần La Mã: thần
Zeus của Hy Lạp thành thần Jupiter trong đa thần
giáo La Mã.
Một điều đáng chú ý
là các đạo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi)
đều thờ Thiên Chúa thuộc nam giới. Đức Chúa Trời là một thứ “Đàn Ông
Toàn Năng”. Trong các đạo
độc thần, tuyệt đối không có đấng
tối cao là phụ nữ. Trái lại trong Đa
Thần giáo có rất nhiều “Chúa Mẹ” (Mother Goddess)
như: Turm, Hera, Juno, Mercury,...
Đa Thần giáo tôn thờ các vị anh hùng
với bản chất con người nên có thể nói là
Đa Thần giáo là một loại tôn giáo vô hại cho nhân
loại. Trái
lại, các đạo
độc thần đều có sẵn trong bản
chất của nó rất nhiều tiềm năng gây
đại họa chống lại sự sống còn
của nhân loại và phá hoại nền hòa bình thế
giới (Tôi sẽ viết một bài riêng về vấn
đề này).
Con số tín
đồ của các đạo độc thần càng
lớn bao nhiêu thì tiềm năng gây tội ác chống nhân
loại của nó càng khủng khiếp bấy nhiêu.
Để dễ hình dung con số tín
đồ các đạo độc thần trên thế
giới hiện nay, tôi xin ghi lại những số
liệu rút ra từ The World Almanac 2004 :
1. Do Thái giáo : 14,500,000
2. Ki Tô Giáo : 2,039,000,000
a) Công Giáo La Mã : 1,076,000,000
b) Chính Thống Giáo: 250,000,000
c)
Anh Giáo: 81,663,000
d)
Tin Lành : 350,000,000
e) Các giáo phái độc lập: 81,000,000
3. Hồi Giáo
: 1,226,000,000
Nhìn vào hai đạo độc
thần lớn nhất thế giới là Ki Tô giáo và Hồi
giáo, ta thấy tổng số tín đồ của hai
đạo này là 3 tỷ 165 triệu (chiếm ½ tổng
số nhân loại).
Nếu không có sự giáo
dục qui mô trên toàn thế giới để giúp cho
khối lượng trên 3 tỷ tín đồ đó bớt
cuồng tín và nếu không có sự vận dụng các
phương tiện truyền thông để thông tin cho toàn
thế giới biết để đề cao cảnh giác
trước các âm mưu khủng bố và phá hoại
của các tôn giáo độc thần cực đoan thì
số phận sinh tồn của nhân loại thật là
mỏng manh.
Xin mọi người chẳng nên lo lắng
về cái chết của các Thiên Chúa hoặc các Thần
(God) mà hãy lo cho cái chết của loài người chúng ta do
những cuộc chiến tranh “tôn giáo” được gây ra
bởi những kẻ cuồng tín cực đoan , lúc nào
cũng tự cho mình là kẻ duy nhất nắm độc
quyền chân lý tuyệt đối, bất cứ ai nghĩ
khác họ đều phải bị tiêu diệt !
Charlie Nguyễn
February 2004