Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
Charlie Nguyễn
Constantine sinh
năm 274 (?) tại Nish, nay là tiểu bang Serbia của Nam
Tư (Yougoslavia), qua đời tại Constantinople (nay là
Istambul của Thỗ nhĩ kỳ) vào năm 337. Mẹ
của Constantine là Helena,
sinh quán tại Anh quốc. Cha của Constantine
là Constantius Chlorus, một vị tướng của
đế quốc La mã đồn trú tại Anh. Cha của
Constantine
đã quen biết bà Helena
khi bà này còn là một cô gái hầu bàn tại quán rượu
ở Bithinia (Enc. Britanica Vol. VI, page 297). Bà Helena chỉ là
một trong những cô vợ bé của Constantius mà thôi. khi
Constantine
lên 7, 8 tuổi thì bà Helena
bị chồng ruồng bỏ. Bà rất đau buồn nên
đã tìm an ủi trong đạo Ki-tô, chẳng bao lâu sau bà
trở thành một tín đồ rất sùng đạo.
Không ai ngờ hành động theo đạo Ki-tô của bà
đã gây ảnh hưởng rất lớn đối
với Constantine. Sau này,
Constantine
đã biến Ki-tô giáo thành một lực lượng khuynh
đảo thế giới (world shaking power) lớn nhất
trong lịch sử loài người.
Trước thời đại của
Constantine,
người Ki-tô giáo dùng hình con cá làm biểu tượng.
Constantine
là người đầu tiên dùng thập giá làm huy hiệu
chính thức của quân đội La mã và cũng từ
đó thập giá trở thành huy hiệu cao quí nhất
của Ki-tô giáo. Đế quốc La mã và Ki-tô giáo cùng chung
một biểu tượng thập giá. Dưới bàn tay phù thủy của Constantine,
thập giá là một dụng cụ giết người
rất dã man và đáng ghê tởm nhất đã biến thành
“Thánh giá” thiêng liêng cao quí của đạo Ki-tô và của
cả đế quốc!
Có lẽ do
ảnh hưởng của mẹ, Constantine
nhận thấy những người Ki-tô giáo rất
cuồng tín. Constantine không
tin đạo nhưng chủ tâm xử dụng Ki-tô giáo làm
công cụ chính trị để thống nhất
đế quốc và sau đó có thể dùng tôn giáo
để chinh phục thế giới. Constantine
đã bộc lộ chủ trương này qua khẩu
hiệu “In Hoc Signo Vinces” (Dưới khẩu hiệu
Thập giá ta sẽ chiến thắng!”. Chủ
trương này còn bộc lộ rõ rệt hơn nữa khi
người kế nhiệm Constantine
đổi tên Ki-tô giáo thành “Công giáo” năm 340. Danh từ
“Công giáo” trong tiếng La tinh “Cattolica” có nghĩa là toàn
cầu (universal) ngụ ý đế quốc có thể bành
trướng thế lực ra khắp thế giới
dưới chiêu bài Ki-tô giáo!
Những hoàn
cảnh Lịch sử đã đưa Constantine lên ngôi Đại đế:
Đế quốc La mã bắt đầu
xuất hiện từ thế kỷ 6 trước Công
nguyên. Đến thời Deocletian, cuối thế kỷ
thứ 3 sau Công nguyên, đế quốc La mã bao trùm một
vùng lãnh thổ rộng lớn lên tới hai triệu
dặm vuông, trải dài từ Armenia (sát nước Nga)
đến Bắc Phi, từ Đại Tây dương
đến Biển Chết, từ Tô-cách-lan đến Ai-cập.
Năm 285, Deocletian lên ngôi hoàng đế La-mã
thấy lãnh thổ của mình quá lớn bèn chia đế
quốc thành bốn vùng, mỗi vùng do một thống
đốc (Tetrach/ Governor) cai trị. Bốn thống
đốc đó là Licinius, Maxentius, Galerius và Constantius Chlorus
(cha của Constantine). Vùng
lãnh thổ thuộc quyền Constantine
là Anh, Pháp, Tây-ban-nha và một phần đồng bằng
sông Rhin (Đức, Bỉ).
Năm 305, nhân dịp có vụ nổi
loạn ở Anh, Constantine
được cha trao trách nhiệm mang quân từ Pháp qua Anh
dẹp loạn. Đến tháng 7 năm 306, trong lúc Constantine
đang ở Anh thì được tin cha từ trần tại
Ý. Các quân sĩ dưới quyền tôn Constantine
lên ngôi hoàng đế (emperor).
Bắt
đầu từ đó (306) Constantine
lo củng cố quân lực để thống nhất
đế quốc. Sau 6 năm tuyển mộ quân lính,
phần đông là những tín đồ Ki-tô giáo, Constantine
thành lập đạo quân Thập Tự đầu tiên
với cờ hiệu là hình chữ Thập hoặc
viết hai chữ tắt Hy-lạp “XP” có nghĩa là Ki-tô.
Năm 312,
Constantine
kéo quân đến Rome,
giết chết đối thủ là Maxentius tại cầu
Milvian. Xác của Maxentius bị vứt xuống sông Tiber.
ngay khi tiến quân vào làm chủ thủ đô Rome,
Constantine công bố chủ
trương ưu đãi Ki-tô giáo. Vào tháng 2 năm 313,
Constantine đến Milan gặp đối thủ
(co-emperor) Lucinius và thuyết phục ông này cùng ký tên vào
văn kiện được gọi là “Đạo
luật Milan” (Edit of Milan) ban bố hủy bỏ lệnh
cấm đạo trên toàn đế quốc. Cả hai
vị hoàng đế cùng công bố như sau: “Chúng tôi cho
mọi người Ki-tô giáo có quyền lựa chọn các
nghi lễ thờ phượng mà họ muốn” (We might give all Christians fredom of
choice to follow the ritual which they wished –the Rise of Chistianity,
Greenhaven press 1999, page 22).
Sau
đạo luật Milan,
Constantine
ra lệnh hoàn trả Ki-tô giáo tất cả tài sản
đã bị các hoàng đế tiền nhiệm tịch thu.
Ngày
28-10 năm 312, Constantine công
bố Thập giá là biểu tượng chính thức
của Ki-tô giáo. Trước đó, các tín đồ
Ki-tô thường dùng hình vẽ con cá làm biểu
tượng vì chữ Hy-lạp ICHTBUS có nghĩa là Cá,
cụm từ EOU UIOS SOTER có nghĩa là Con của Chúa
Trời (Son of God). Ghép các chữ đầu lại với
nhau sẽ thành tên của Jesus theo tiếng Hy-lạp IESOUS
(Deceptions and Myth of the Bible, Lloyd M. Graham, page 326-327).
Năm 323,
một đối thủ của Constantine
là Galerius (co-emperor) bất thần bị bệnh chết và
không có thừa kế. Sân khấu chính trị của
đế quốc La-mã chỉ còn lại hai đấu
thủ là Constantine và
Licinius. Năm 324, Constantine
kéo đại quân tấn công Licinius tại Milan,
truy kích và tiêu diệt đối thủ tại hải
cảng Bosporus (Hy-lạp). Từ năm
324, Constantine tự xưng
là Đại đế (Constantine the Great) nắm trọn
quyền kiểm soát toàn thể lãnh thổ của
Đế quốc La-mã rộng lớn.
Với
chủ trương xử dụng Ki-tô giáo làm dụng
cụ toàn cầu, ngay sau khi nắm trọn quyền cai
trị đế quốc, Constantine
đã lo thực hiện việc đầu tiên là triệu
tập hội nghị các giám mục trong toàn thể
đế quốc họp tại Nicea (Hy-lạp) năm 325
để thống nhất các giáo phái Ki-tô. Sau Công đồng Nicea năm 325, Ki-tô giáo mới thành
hình là một tôn giáo thống nhất về giáo lý.
Trước đó thật sự chưa có đạo Ki-tô
theo đúng nghĩa như ta hiểu hiện nay. Để
đánh giá đúng mức công trình kiến tạo Ki-tô giáo
của Constantine, chúng ta
cần tìm hiểu cái gọi là “Ki-tô giáo nguyên thủy” (The
Early Christianity) tức Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ
đầu Công nguyên, hoặc còn gọi là “Ki-tô giáo
trước Thời đại Constantine”
(The Pre-Constantine Christianity)
như thế nào?
Ki-tô giáo trước
Thời đại Constantine
Trong thời
gian Constantine tiến quân
vào Rome năm 312 thì thành
phố này có khoảng một triệu dân, nhưng không có
một giáo hội Ki-tô nào có thể hoạt động công
khai tại đây. Từ thời Néron (54-68) nhiều ngàn tín
đồ Ki-tô bị ném vào giáo đấu trường cho
thú dữ ăn thịt. Bạo Chúa Trajan (98-117) cấm
đạo ác liệt trong 19 năm. Tiếp theo là vụ
quân La-mã tàn phá Jerusalem giết hại 850.000 dân Do-thái trong các
năm 132-135 khiến cho giáo hội Ki-tô Do-thái do James (em
ruột của Jesus) lập
nên bị hoàn toàn tiêu diệt.
Năm 160 xảy ra biền cố quân Hung-nô
chống lại La-mã. Do đó, các hoàng đế La-mã đã
áp dụng chính sách cấm đạo gay gắt kéo dài trên
một thế kỷ. Tín đồ Ki-tô bị sát hại
hàng loạt, các nhà thờ bị đốt phá, các sách kinh
bị hủy diệt.
Khởi đầu là hoàng đế Marcus
Aurelius (161-180), hoàng đế Didius Julianus (193) Valerian
(253-260) và hoàng đế Diocletan (284-305).
Các tín đồ sùng đạo phải
đọc kinh hoặc hành lễ trong các hang hầm bí
mật. Giáo hội Ki-tô bị phân tán và rút vào bóng tối
như những hội kín (secret society). Ngày nay, Vatican thường liệt kê danh sách
các giáo hoàng liên tục hoạt động ở Rome từ thời Phêrô cho
đến thời Constantine là một điều hoàn toàn ngụy tạo.
Trước hết, trong vòng 3 thế kỷ đầu Công
nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình là một tôn giáo thống
nhất nên không thể có giáo hoàng đứng đầu
toàn giáo hội. Sau nữa, trải qua nhiều đợt
cấm đạo gay gắt liên miên trong gần 3 thế
kỷ, mọi hoạt động công khai của giáo
hội cũng như mọi cơ cấu tổ chức
rộng lớn đều không thể thực hiện và
không thể tồn tại ở Rome.
Trong tác
phẩm “A History of Christianity” do St. martin
press, N.Y. xuất bản, tác giả Owen Chadwick đã
viết: “Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên, Ki-tô giáo
luôn luôn bị coi là bất hợp pháp trong toàn đế
quốc La-mã. Do đó, Ki-tô giáo không có giáo hội công khai mà
chỉ có “Hội kín của những tín đồ Ki-tô” mà
thôi (... Secret society of the Christians, sách đd., trang 34). Trong
thế kỷ đầu Công nguyên, tên gọi Ki-tô giáo
cũng chưa có, mọi người trong đế quốc La-mã gọi đạo
của Jesus là “Phong trào Jesus” (The Jesus’s movement).
Tác phẩm “Eermans Hanbook of Christianity” là công
trình nghiên cứ Ki-tô giáo của trên một trăm giáo
sư Sử học và tôn-giáo-học thuộc các
trường Đại học Bắc Mỹ, Âu châu, Úc châu
và Nhật Bản. sách dày trên 700 trang khổ lớn,
xuất bản lần đầu 1977, tái bản 1987
với 750.000 cuốn. Mười trang sách (96-105) của tác
phẩm giá trị này cho chúng ta thấy Ki-tô giáo trong 3
thế kỷ đầu Công nguyên chưa thành hình là một
tôn giáo thuần nhất. Có ít nhất 4 nhóm Ki-tô giáo
đưa ra những “giáo lý” khác nhau. Nhóm này viết sách
đã kích nhóm kia và kết án lẫn nhau là dị giáo
hoặc rối đạo (heretic).
1. Nhóm Ki-tô giáo Do-thái (Jewish Christianity):
Nhóm này thoát
thai từ giáo hội Ki-tô đầu tiên do em ruột
của Jesus là James thành lập tại Jerusalem.
Nhóm này tôn vinh Jesus là đấng Messiah (Ki-tô) và nhấn
mạnh đến sự sống lại của Jesus vì theo
truyền thuyết của Cựu ước Do-thái thì
đấng Messiah không bao giờ chết. Nếu không
đề cao “sự sống lại” của Jesus thì ông ta không
thể được coi là Chúa Cứu thế!
Nhóm Ki-tô Do-thái cố gắng tìm mọi cách
để chứng minh Jesus là đấng Messiah đã
được Cựu Ước tiên tri. Họ dùng
những hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước
Do-thái để gọi Jesus. Chẳng hạn như Jesus là
“Con chiên hy sinh trong ngày Lễ Vượt Qua” (The Passover
Lamb), Jesus là “Adam thứ hai” (The Second Adam) ...
Điều này cũng dễ hiểu vì Ki-tô
giáo xuất thân từ Do-thái giáo và các tín đồ Ki-tô
đầu tiên cũng đều là những người
Do-thái. Chính vì thế mà dân Do-thái đã gọi những tín
đồ Ki-tô giáo đầu tiên là “những tín đồ
Do-thái biến thể’ (The Judaisers). Nhóm Ki-tô Do-thái đòi
hỏi mọi người ngoại giáo muốn theo
đạo Ki-tô phải chịu phép cắt bì (cắt da
đầu dương vật) và phải tuân hành mọi
luật lệ của đạo Do-thái (nghỉ việc
ngày Sabbath).
Trong lúc
đó, Phao-lồ đang giảng dạy đạo Ki-tô cho
các ‘dân ngoại’ tại Hy-lạp và Rome
với chủ trương “theo đạo qua đức
tin mà thôi” (Conversion through faith only). Nghe tin Phê-rô và James
thực hiện việc truyền đạo Ki-tô với
những điều kiện ràng buộc vào đạo
Do-thái, Phao-lồ lo sợ họ sẽ phá hỏng cuộc
truyền đạo nên vội đến Jerusalem can gián
Phê-rô và James, James biết phục thiện và nghe lời
Phao-lồ. Phê-rô bướng bỉnh cãi lại nên hai
người đã trải qua một cuộc đấu
khẩu kịch liệt. James bị chính quyền Do-thái
xử tử tại Jerusalem
năm 62, sau đó nhóm Ki-tô Do-thái phải hoạt
động trong bóng tối hoặc phải chạy phân tán
ra nước ngoài.
2. Nhóm Ki-tô Ngộ Đạo (Gnosticism):
Đây là giáo
phái Ki-tô xuất hiện tại Tiểu Á và Bắc Phi vào
cuối thế kỷ 1, phát triển mạnh trong thế
kỷ 2 sau Công nguyên. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã
tìm thấy nhiều tài liệu cổ ở vùng Biến
Chết (The Dead Sea Scrolls), trong đó có nhiều cuộn sách
bằng da lừa nói về giáo phái Ngộ Đạo. Giáo
phái này chủ trương mọi người
được cứu rỗi do sự hiểu biết
những bí mật của đạo. Danh xưng của
giáo phái do tiếng Hy-lạp Gnosis, có nghĩa là ‘hiểu
biết sự bí mật”
(Gnosis = a secret knowledge). Họ giải thích trái cấm
trong vườn Địa đàng chính là Trái của cây
Hiểu Biết (The Tree of Knowledge). Con rắn quyến
rũ Eva ăn trái cấm không phải là quỉ Sa-tăng
mà là một đại ân nhân của loài người vì Con
rắn là biểu tượng cho sự khôn ngoan. Con rắn
muốn giúp loài người trở nên sáng suốt
để tự giải thoát mọi đau khổ trầm
luân trên cõi đời này bằng cách ăn trái của cây
Hiểu Biết. Chính Thiên Chúa Jehovah trong Cựu Ước
mới là ác quỉ vì nó ra lệnh cấm tổ tiên loài
người không được ăn trái của Cây
Hiểu Biết. Nó muốn dìm con cháu Adam – Evà phải chìm
đắm trong sự u mê tăm tối để luôn luôn
phải tôn thờ và tuân phục nó. Loài người
phải đau khổ triền miên vì chưa thoát ra khỏi
sự ức chế của Ác Chúa Jehovah! Đưa ra lý luận trên, giáo
phái Ki-tô Ngộ Đạo chủ trương Ki-tô giáo
phải tách rời khỏi Do-thái giáo bằng cách hoàn toàn
phủ nhận các Kinh Thánh Cựu Ước Do-thái. Họ
thẳng thắn phê bình “Thiên Chúa” (Jehovah) của đạo
Do-thái là quá thấp kém, thậm chí họ còn gọi Jehovah là
thằng quỉ, chính vì thế những người Ki-tô
giáo không thể tôn thờ nó.
3. Giáo phái Ki-tô Marcionism:
Vào năm
160, Marcion là một tín đồ Ki-tô rất trí thức và
hùng biện thuyết giảng tại Rome ca ngợi Jesus là
đấng Ki-tô (Chúa Cứu thế) nhưng đồng
thời kịch liệt mạt sát Thiên Chúa của đạo
Do-thái. Ông nói: “Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái
thường gây những cuộc chiến tranh hoặc
những cuộc tàn sát do sự tức giận nên không
thể phù hợp với Đức Chúa Cha nhân lành của
Jesus trong Tân Ước được” (The
old testament God who ordered battles and slaughter and was driven by anger,
was incompatible with the merciful Father of Jesus Christ – Eerdmans Handbook
of Christianity, page 101). Marcion ca ngợi Thiên Chúa trong Phúc âm
Kitô giáo là Thiên Chúa của tình yêu. Tuy nhiên, Marcion cho rằng
Jesus đã không được sinh ra bởi một
người đàn bà nhưng đã bất thần xuất
hiện tại Capermaum năm 29 sau Công nguyên với hình vóc
của một người lớn, Marcion bác bỏ lý
thuyết cho rằng xác của mọi người chết
sẽ sống lại, bác bỏ hoàn toàn Cựu Ước
Do-thái và phần lớn các sách Tân Ước, chỉ
ngoại trừ Phúc âm của Luke và những bức thư
của Phao-lồ mà thôi.
Giáo phái Ki-tô Marcionism truyền đạo
khắp nước Ý trong thế kỷ 2. Tới thế
kỷ 4, giáo phái này trở nên thịnh hành tại Trung
Đông, Armenia
và Ai-cập. Họ có nhà thờ riêng, có hệ thống tu
sĩ riêng và có các nghi thức hành lễ riêng. Đến
cuối thế kỷ 4, giáo phái này bị đế
quốc La-mã tiêu diệt.
4. Giáo phái Ki-tô Hy-lạp:
Giáo phái này có
rất nhiều “học giả” nổi tiếng, thông
thạo triết học Hy-lạp và chịu ảnh
hưởng sâu đậm triết học duy tâm của
Plato và Socrates. Họ tin rằng Thiên Chúa của Plato chính là
Thiên Chúa của Kinh Thánh và họ gọi Socrates là “tín
đồ Ki-tô giáo trước Jesus” (sách đd, trang 110).
Các “học giả” này viết rất
nhiều sách để hoàn thành một hệ thống giáo
lý cho đạo Ki-tô. Họ chủ
trương vẫn tôn trọng các sách Kinh Thánh Cựu
Ước của đạo Do-thái, đồng thời
dùng triết học và thần thoại Hy-lạp để
biến Jesus thành Thiên Chúa. Họ đã thành công vì lý
thuyết của họ về một “Thiên Chúa Ba ngôi” đã
được Công đồng Nicea năm 325 chấp
nhận và trở thành Kinh Tin Kính của Ki-tô giáo. Những
học giả nổi tiếng nhất của giáo phái Ki-tô
Hy-lạp gồn có bốn người sau đây:
a. Justin Martyr
(100-165): Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa (Creator-God) theo
đúng quan điểm của đạo Do-thái, nhưng
Thiên Chúa cũng hóa thân thành người sống giữa
trần gian (incarnation) bởi vì Thiên Chúa là Ngôi Lời (Logos-Word). Theo thần thuyết
Hy-lạp thì Ngôi Lời là con của Thượng
đế có thể biến thành xương thịt như
con người (Word became flesh).
Các sách của Justin Martyr đều
được viết bằng tiếng Hy-lạp vào
khoảng giữa thế kỷ 2. Điều đặc
biệt đáng nhớ là Justin
đã sáng tác ra nghi lễ “Misa”. Khi các tu sĩ làm lễ
này phải có bánh và rượu để tượng
trưng cho thịt và máu của Jesus.
b. Giám mục
Irenaeus: Giám mục Irenaeus là tác giả chống lại
phe Ki-tô Ngộ Đạo (Gnostic) mạnh mẽ nhất và
cũng là người tuyên truyền mạnh nhất cho
thần thuyết Ngôi Lời (theory of the Logos) của
Hy-lạp. Danh từ Logos được xử dụng
đầu tiên bời một số triết gia theo chủ
nghĩa Platonism (thuộc thế kỷ 3 trước CN.)
để chỉ “Thượng đế hóa thân”. Các
“học giả” Ki-tô theo học thuyết Plato (Christian
Platonists) cố gắng gán ghép Jesus là Logos để tôn
thờ, đồng thời dựa vào đó để
lập ra thuyết “Thiên Chúa Ba ngôi”.
Irenaeus sinh trưởng tại Bắc Phi,
lớn lên trở thành tu sĩ tại Pháp và được
bầu chọn làm giám mục tại địa phận Lyon
vào giữa thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản
cuốn sách “Chống dị giáo” (Against the Heretics) kết
tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism và Marcionism. Ông đưa ra
một bản dự thảo “Đức tin của các Thánh
Tông đồ” (The Apostle’s creed). Bản dự thảo này
đã được Công đồng Nicea biểu quyết
chấp thuận năm 325 và trở thành kinh “Tin Kính”
của Ki-tô giáo.
c. Origen (185-254):
Origen là người Hy-lạp sinh trưởng tại
Ai-cập, du lịch rất nhiều nơi và viết
nhiều sách để quảng bá tư tưởng
của Plato (Platonic philosophical ideas). Ông viết sách “First
principles” để nêu ra thuyết Thiên Chúa Ba ngôi, gồm có
God (Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái). Christ/ Logos
(tức Jesus, ngôi thứ hai) và Holy Spririt (Chúa Thánh thần).
Origen là người đầu tiên hoàn thành “thần học
Ki-tô theo triết học và thần học Hy-lạp” (Greek
Christian Theology). Trong cuộc cấm đạo dưới
triều hoàng đế La-mã Dicius, Origen bị chém
đầu năm 254.
d. Tertullian: Ông
sinh trưởng tại Bắc Phi, chịu ảnh
hưởng của văn hóa Hy-lạp nhưng lại là
tác giả đầu tiên viết sách truyền đạo
Ki-tô bằng tiếng La-tinh. Người ta không rõ ông đã
sinh và mất năm nào, chỉ biết các sách của ông
đã được viết trong thời gian từ 196
đến 212 sau Công nguyên. Ông viết nhiều sách nhằm
đả phá các giáo phái Ki-tô đương thời (Against
marcion, Against Praxie, Exclusion of Heretics...) và rất nhiều
sách giảng thuyết về linh hồn, và phép rửa
tội, nhất là về thần quyền “Ngôi Lời”. Ngôi
lời là một danh từ khó hiểu, thực ra nó
đơn giản chỉ là lời nói (word). Tất cả
phát xuất từ thần thoại Hy-lạp cho rằng
“Thượng đế đã tạo dựng vũ trụ
bằng lời nói của Ngài” (God
made this universe by His word). Tertullian tán thêm: “Lời nói phát
sinh từ Thiên Chúa nên được gọi là Con của
Thiên Chúa và cùng bản chất với Thiên Chúa. Cho nên Con
của Thiên Chúa đã từ Thiên Chúa mà ra như tinh thần
bởi tinh thần, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi
ánh sáng” (This word was produced from
God and therefore is called the Son of God from the unity of substance with
God. For God is spririt, so from spirit comes spirit, God from God, as light is
from light – Eermands Hanbook of Christianity, page 111-113).
Lời bàn
“Mao Tôn Cương” nói trên của Tertullian không ngờ đã
trở thành nòng cốt cho “thần
học Ngôi Lời” của Ki-tô giáo trong 17 thế kỷ
qua. Tại các nhà thờ Công giáo ngày nay các giáo dân luôn luôn
đọc câu kinh trong các lễ Mi-sa để ca ngợi
Jesus: “....Chúa được sinh ra mà không phải tạo
thành, Chúa là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Tòa thánh
thấy câu văn của Tertullian viết hay quá nên đã
thưởng câu văn này biến nó thành câu kinh để
giáo dân tin rằng Jesus cũng là Thiên Chúa như “ánh sáng
bởi ánh sáng”, ngài là Ngôi Lời đã cùng với Thiên Chúa
tạo dựng nên vũ trụ này!
Đệ tử ruột của vua tán
nhảm Tertullian là Đức ông Philippe Lê xuân Thượng,
chánh xứ của họ đạo Việt Nam
mang tên “Giáo xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập
Thể” (Christ the Incarnate Word Parish) – 8503
S.Kirwood Rd. Houston.
Số phôn: (282) 495-8133. Còn có
website có tên: gx-ngoiloi.tripod.com. Đức ông Thượng
đặt tên cho giáo xứ của ngài là “Đức Ki tô
Ngôi Lời Nhập Thể”, vậy chắc ngài rất thông
suốt về thần học Ngôi Lời. Tôi ghi địa
chỉ của Đức ông như trên để quí
độc giả có điều gì thắc mắc về
thần thoại Ngôi Lời xin cứ việc liên lạc
trực tiếp để được giải đáp
thỏa đáng.
Những khuôn
vàng thước ngọc do Constantine đặt ra cho Ki-tô giáo:
Với
đạo luật Milan
năm 313, Constantine đã
chính thức chấm dứt 3 thế kỷ cấm
đạo Ki-tô của đế quốc La-mã. Constantine
luôn luôn tự coi mình là một đại ân nhân của tôn
giáo này. Hơn thế nữa, Constantine chỉ coi Ki-tô giáo là
một công cụ phục vụ cho mưu đồ
củng cố và bành trướng đế quốc
của hắn nên hắn đã tạo ra những “khuôn vàng
thước ngọc” để buộc Ki-tô giáo phải
tuân theo. Chính vì vậy Constantine
tự coi mình là ông thầy dạy cho Ki-tô giáo phải làm
những việc gì. Trong tác phẩm “Christian Spiritual”, Classics
xuất bản năm 1996, trang 97, tác giả Richard Woods
đã viết rất chí lý: “trong lãnh vực ý thức chính
trị cao, Constantine không phải
là học trò mà là bậc thầy của giáo hội” (In the realm of high politics, Constantine was not the pupil of the church but its
instructor). Quả thật “ông thầy” Constantine
đã để lại cho đứa học trò của mình
là Ki-tô giáo, đặc biệt là Công giáo La-mã, nhiều khuôn
vàng thước ngọc để tuân hành suốt trong 17
thế kỷ qua.
1. Khuôn vàng thước ngọc đầu tiên là Công
Đồng (Council)
Giáo sư
sử học Garry Wills thuộc đại học Western
University đã viết: “Constantine điều hành các công
đồng của giáo hội như một thẩm
quyền chính trị của ông ta nhằm mục đích
đập tan các phe dị giáo và để sắp
đặt các giám mục” (Constantine
who ran church coucils as his political right broke heresies and installed
bishops – Papal Sin, Doubleday 2000, page 153).
Năm 324,
Constantine
thống nhất toàn đế quốc La-mã. Qua năm 325,
ông ta triệu tập Công đồng Nicea bằng cách
gửi giấy mời đến 1800 giám mục trong toàn
lãnh thổ đế quốc, nhưng chỉ có 250 giám
mục đến họp tại Nicea (nay là thành phố
Izmir của Thổ-nhĩ-kỳ). Phòng họp là một lâu
đài sang trọng của nhà vua tại thành phố này.
Constantine
chủ tọa cuộc họp với tư cách là sứ
giả của chúa (Messenger of
God). Constantine chẳng
biết gì về giáo lý đạo Ki-tô nhưng ông ta
nhận thấy Ki-tô giáo có quá nhiều phe phái chống báng
nhau. Ông ra lệnh cho các giám mục phải thống
nhất giáo lý - bất kể là giáo lý nào - miễn sao
đại đa số giám mục biểu quyết
chấp thuận thì giáo lý đó thành chân lý cho toàn giáo
hội. Đó là nguyên tắc chính yếu của các Công
đồng thuộc giáo hội Ki-tô.
Kết quả của Công đồng Nicea
năm 325 là: Ngoài việc chấp thuận Kinh Tin Kính bao
gồm những tín điều căn bản của
đạo Ki-tô, Công đồng còn biểu quyết một
đoạn đặc biệt để chống lại
giáo phái Arius. Đoạn này như sau: “Chúa Jesus có cùng
bản chất với Chúa Cha, Người là Thiên Chúa
thật bởi Thiên Chúa thật” (Jesus was of one substance with Father, He is true God of true God).
Sau khi Công đồng biểu quyết, Arius
là giám mục tại thành phố Alexandria
(Ai-cập) không chịu ký vào biên bản. Ông ta vẫn giữ
vững lập trường cho rằng: “Thiên Chúa tạo ra
Jesus – Ki-tô từ không. Như vậy có lúc chúa Ki-tô không có. Do
đó Ki-tô không phải là Thiên Chúa” (God created Christ from nothing. there was time Christ was not, so he
is not God). Arius bị Constantine
tống giam 9 năm (325-334). Khi được thả ra thì
Arius đã 78 tuổi. Ông sống lang thang trên hè phố Constantinople
được hai năm rồi nằm chết bên
đường như gã ăn mày. Arius đã chết vì
không hiểu chủ đích của Constantine.
Tên bạo chúa La-mã chỉ
cần thống nhất Ki-tô giáo để biến nó thành
một công cụ chính trị. Y không cần đếm
xỉa gì đến cái giáo lý của nó ra sao.
Trong cuộc đời của
Constantine
cho đế khi chết năm 337, y đã trực tiếp
triệu tập và điều khiển 4 Công dồng
để thống nhất giáo lý Ki-tô. Các hoàng đế
La-mã kế nghiệp triệu tập Công đồng
Ephesus
năm 431 để tôn vinh bà Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mother of
God). Công đồng Chalcedon
năm 451 để xác nhận Jesus có hai bản tính con
người và Thiên Chúa....
Triệu tập Công đồng để
giải quyết mọi vấn đề khó khăn
của giáo hội là sáng kiến của Constantine.
Giáo hội Công giáo La-mã thực hiện rất nhiều Công
đồng trong gần 2000 năm qua. Công đồng
cuối cùng là Vatican II do Giáo hoàng XXIII triệu tập
năm 1962.
2. Khuôn vàng thước ngọc thứ hai của
Constantine là
hình thành cơ cấu tổ chức căn bản của
giáo hội Ki-tô.
Trước
hết, Constantine biến Rome thành thủ đô Ki-tô giáo (a
Christian City) bằng cách xuất quĩ xây nhiều nhà thờ
vĩ đại như Đền thánh Phê-rô, biến các
đền thờ của Đa Thần giáo La-mã thành nhà
thờ Ki-tô giáo.
Constantine ban
hành qui chế giám mục.
Các giám mục được coi như tương
đương với nghị sĩ (senator)
được hưởng quyền lợi của viên
chức cao cấp của triều đình (state officiers).
Riêng giám mục ở
Rome
được Constantine
cho ở trong Cung điện Lateran.
Cung điện này nguyên là dinh thự của hoàng
hậu Fausta bị Constantine
giết chết. Lateran trở thành dinh của các giáo hoàng
từ đó cho đến thế kỷ 14 mới
chuyển sang một lâu đài khác.
Một điều quan trọng khác là
Constantine
chia lãnh thổ toàn đế quốc La-mã thành các giáo
phận (dioceses) đứng đầu bởi một giám
mục. Nhà thờ ở nơi có giám mục
được gọi là “Cathedral”, do chữ Hy-lạp
“Cathedra” có nghĩa là cái ghế, ám chỉ giám mục có
quyền cai trị của một viên chức nhà
nước (bureaucratic power). Các tu sĩ (clergy men)
được miễn mọi thứ tạp dịch công
cộng (public duties). Từ năm 323, Constantine
trao cho các giám mục có quyền xét xử mọi
người trong giáo phận quản hạt.
3. Những khuôn vàng thước ngọc của
Constantine
về các nghi lễ tôn giáo.
a. Ngày
28.10.312, Constantine công
nhận thập giá là huy hiệu chính thức của
quân đội La-mã. Trong ngày khai mạc Công đồng Nicea
năm 325, Constantine chỉ thị cho các giám mục phải
dùng Thập giá làm biểu tượng chính thức của
Ki-tô giáo và thập giá phải là trung tâm thờ
phượng của đạo Ki-tô (center of Christian cult).
Từ đó, thập giá xuất hiện trên các nóc nhà
thờ và luôn luôn ở vị trí chính giữa của bàn
thờ Ki-tô giáo.
b.Constantine
tự ý ấn định mỗi tuần dành ra một ngày
lo việc thờ phượng cho các tín đồ Ki-tô. Ngày
đó gọi là “ngày của Thần Mặt trời” (Sunday).
Ngày chủ nhật đầu tiên cho các tín đồ đi
lễ là ngày 7.3.321.
c.
Constantine
không cần biết Jesus sinh ra ngày nào, năm nào. Tuy nhiên, ông
ta tự ý quyết định chọn ngày sinh nhật
của Thần Mặt trời Vạn thắng (The Invincible
Sun God) theo Đa Thần giáo La-mã làm ngày sinh nhật của
Jesus. “Đêm Thánh Vô Cùng” đầu tiên toàn giáo hội Ki-tô
long trọng tổ chức để mừng Chúa “giáng sinh”
là ngày 25 tháng 12 năm 336.
Khi ban bố các lệnh trên,
Constantine
là tín đồ kiêm giáo chủ tối cao của Đa
Thần giáo La-mã. Y muốn những tín đồ Ki-tô
bề ngoài thực hiện nghi lễ của tôn giáo mình
nhưng thực ra là để tôn kính Thần Mặt
trời của Đa Thần giáo. Ngày chủ nhật là ngày
của Thần Mặt trời (Sunday), chứ không phải
là “Chúa Nhật” (God day/ Christ Day! Vì vậy chúng tôi tha
thiết mong những người Việt không nên gọi
ngày Chủ nhật là “Chúa nhật”).
d.
Constantine
tự ý quyết định các buổi lễ (Mass) của
Ki-tô giáo phải có bánh và rượu để tượng
trưng thịt và máu của Jesus. Nghi lễ này không
phải do Constantine sáng
chế mà do sáng kiến của Justus Martyr. Constantine
chỉ muốn giáo hội Ki-tô phải hành lễ theo
một nghi thức thống nhất mà thôi. Nghi thức
tế lễ có bánh và rượu được gọi là
“Phép Mình Thánh Chúa” (Eucharist – A
Concise History of the Catholic Church, Thomas Bokken-Kotten, Doubleday 1990).
Đấng
Bề Trên Của Ki-tô Giáo.
Sử gia
lừng danh thế giới Will Duran đã bỏ ra 25 năm
nghiên cứu Ki-tô giáo và hoàn thành tác phẩm “Cesar and Christ”
(750 trang) trong 5 năm. Nơi trang 656 ông nhận xét thái
độ của Constantine
đối với Ki-tô giáo như sau: “Trong suốt thời
gian trị vì, Constantine
đối xử với các giám mục như những
phụ tá chính trị: Ông ta triệu tập và chủ
tọa các Công đồng. Đối với một tín
đồ chân chính thì phải là một Ki-tô hữu
trước đã rồi mới là chính khách sau, nhưng
với Constantine thì
ngược lại. Ki-tô giáo đối với ông ta
chỉ là một phương tiện chứ không phải
là cứu cánh”. (Throughout his
reign, Constantine treated the bishops as his political aids:
He summoned them, presided over their councils. A real believer would have been
a Christian first and a stateman afterward. With Constantine it was the reverse, Christianity was to him
a means, not an end).
Tác phẩm “Eerdmans Handbook of Christianity” là công
trình nghiên cứu tập thể của trên 100 giáo sư
Sử học và Tôn giáo học của các trường
Đại học Âu, Mỹ, Úc. Nơi trang 109, họ đã
viết: “Trước Công đồng Nicea do Constantine
triệu tập năm 325 thì những tiêu chuẩn phổ
quát của đức tin chính thống Ki-tô giáo chưa
hề có” (Prior to the Council of
nicea summoned by Constantine in 325, no universal touchstone of Orthodox faith
existed).
Các sử gia chân chính trên thế giới cho
chúng ta thấy sự thật lịch sử là đạo
Ki-tô chỉ thật sự thành hình từ sau Công
đồng Nicea năm 325 mà thôi. Trong 3 thế kỷ
đầu Công gnuyên không có Ki-tô giáo mà chỉ có “Phong trào
Jesus” với rất nhiều phe nhóm chủ trương
đối nghịch nhau.
Đọc
lại cuốn Việt Nam Giáo Sử của linh mục Phan
Phát Huồn (trang 20) tôi phải ... ‘phát buồn’ vì thấy
ông linh mục sử gia dỏm này viết sách bất
chấp việc kiểm chứng sự thật lịch
sử. Linh mục Huồn viết: “Lấy võ lực
đàn áp Công giáo để tiêu diệt người Công giáo
thì chẳng những Công giáo không bị tiêu diệt mà còn
sinh sản đông đúc thêm.... Các hoàng đế La-mã
muốn tiêu diệt đạo Công giáo thì ngày nay trên thủ
đô Rô-ma phất phới trước gió một cách oai
hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền
bính của giáo hội.”
Trong 3
thế kỷ đầu Công nguyên chưa có đạo Ki-tô
hẳn hòi mà chỉ có những nhóm thờ Jesus với
những giáo lý hổ lốn. Ta có thể tạm gọi
họ là những tín đồ Ki-tô giáo Nguyên thủy (The
Early Christianity). Sau 325 mới có Ki-tô giáo thống nhất và
phải đợi tới đời con của Constantine
là hoàng đế Constantine I, Ki-tô giáo được ông vua
sùng đạo này đổi tên thành Công giáo (Cattolica) vào
năm 340.
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, dù cho
các hoàng đế La-mã có muốn diệt Công giáo đến
đâu cũng không thể diệt được vì lúc
đó Công giáo chưa được đẻ ra !
Từ sau năm 325, Công giáo là con đẻ
của đế quốc La-mã được đế
quốc vỗ béo cho mau lớn để trở thành tôn
giáo chính thức của cả đế quốc La-mã rộng
lớn. Các hoàng đế La-mã chẳng bao giờ muốn
tiêu diệt Công giáo mà chỉ lo việc bành trướng nó
khắp nơi bằng bạo lực mà thôi.
- Năm 356, hoàng đế Constantius I ra lệnh cấm Đa Thần
giáo La-mã, biến các đền thờ Đa Thần giáo
thành các giáo đường Ki-tô giáo.
- Hoàng đế Thedeosius (379-395) công bố
Ki-tô giáo là quốc giáo, mọi người theo các
đạo khác đều bị tử hình.
- Vào năm 500, một người ở
xứ Gaul tên Cloris dấy binh thống
nhất tất cả các bộ lạc Frank (Frankish tribes)
lập nên nước Pháp. Cloris trở thành vua Pháp liên
kết chặt chẽ với giáo hoàng La-mã và ra lệnh cho
toàn dân Pháp phải theo đạo Công giáo. Ai bất tuân
lệnh phải chịu hình phạt tử hình.
- Cuối thế kỷ 7, Hồi giáo tiêu
diệt Ki-tô giáo tại Ai-cập, Palestine,
Trung Đông và Bắc Phi. Ki-tô giáo lo bành trướng
thế lực ở Tây Âu. Người thực hiện
kế hoạch này là vua Pháp Chrlemagne (lên ngôi năm 768).
Charlemagne đem quân đánh đuổi quân Ả-rập Hồi
giáo khỏi lãnh thổ Tây-ban-nha. Sau đó Charlemagne chiếm
thêm vùng đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ, Hòa
Lan). Đúng ngày lễ Noel năm 800, Charlemagne đến
Rome
quì gối dưới chân giáo hoàng Leo III để
được giáo hoàng đội vương miện và
phong tước hiệu “Hoàng đế của đế
quốc La-mã Thánh thiện” (Emperor
of the Holy Roman Empire). Đây chính là Đế quốc Công
giáo La-mã đầu tiên. Charlemagne và giáo hoàng cùng chủ
trương dùng đạo Công giáo làm lực lượng
thống nhất đế quốc (a unifying force). Sau
đó, Charlemagne đã ban bố một mệnh lệnh ghê
gớm: “Phải theo đạo tập thể hoặc
chống đối sẽ bị tàn sát tập thể” (mass conversion or mass slaughter in case of
resistance – The Story of Christianity by Michael Collins and Mathew Price DK
Publishing 1999, page 91).
Sử sách Âu châu gọi Đế quốc
La-mã trong thời gian từ năm 313 đến năm 590
(277 năm) là “Đế quốc Ki-tô giáo” (The Christianity Empire – Sách dẫn chiếu trang 57-59).
Ki-tô giáo nói chung và Công giáo La-mã nói riêng hiển nhiên là một
sản phẩm của đế quốc La-mã.
Constantine
là người biết rõ điều đó hơn ai hết
nên ông ta luôn luôn có ý coi rẻ tôn giáo này. Một bằng
chứng cụ thể nhất chứng tỏ Constantine
tự coi mình là “Đấng bề trên của Ki-tô giáo”,
đó là việc Constantine
thiết kế khu nhà mồ của mình ở Constantinople
(nay là thủ đô Istambul của Thổ-nhĩ-kỳ).
Trong tác phẩm “The faith – A History of Christianity” nơi trang 96,
sử gia Brian Monahan viết: “Mộ của Constantine
được đặt ở trung tâm khu nhà mồ hình
tròn mà ông ta đã xây cho chính mình tại Constantinople, với
12 ngôi mộ trống ở chung quanh tượng trưng
cho các tông đồ (của Jesus) nằm ở dưới chân hắn” (His tomb was placed in the carter of the
circular mauseleum he built for himself in Constantinople with twelve
sepulchures place around it as though the apostles lay at his feet).
Thái Độ
của Vatican Đối Với Constantine:
Trong Giáo
hội Chính Thống giáo, Constantine
được tôn vinh là Hoàng đế-Thánh (Emperor-Saint) có ảnh
tượng thờ tại các giáo đường. Constantine
đội vương miện cao 3 tầng, tay phải
cầm cây thập giá rất dài để nhắc mọi
người biết Constantine
là người đầu tiên tôn vinh dấu hiệu chữ
Thập (In Hoc Signo). Trong Giáo hội Công giáo, chỉ một
mình mẹ của Constantine
được tôn vinh mà thôi. Mặc dầu tiểu sử
của bà chẳng có gì đặc biệt: xuất thanh
từ một cô gái hầu bàn (a barmaid) lấy một sĩ
quan La-mã, có con rồi bị chồng bỏ. Tuy nhiên,
nhờ có bà mới có Ki-tô giáo
như ngày nay nên bà được Vatican
phong “hiền thánh”. Cả giáo hội Công giáo dành riêng ngày 18
tháng 8 hàng năm để “dâng thánh lễ” tôn vinh ‘bà Thánh’
Helena. Ngoài ra, bà còn được tôn vinh là thánh quan thầy
của kẻ tân tòng. So sánh với bà Helena
thì công lao của Constantine
đối với Ki-tô giáo lớn gấp ngàn vạn
lần. Nhưng Constantine đã không được Vatican
phong thánh. Chẳng những thế, Vatican
còn cố ý lờ đi không nhắc tới để cho
tên tuổi sự nghiệp của Constantine
bị chìm trong quên lãng. Công giáo La-mã là kẻ chịu ơn
của Constantine nhiều
nhất nhưng lại muốn phủ nhận hoàn toàn ‘công
ơn trời biển’ của vị hoàng đế La-mã
này. Tất cả chỉ vì Constantine
đã lôi Ki-tô giáo từ vũng bùn lên, đánh rửa
sạch sẽ và tô son điểm phấn cho nó để
làm công cụ phục vụ những mục tiêu chính
trị của đế quốc.
Bề ngoài
Constantine
củng cố Ki-tô giáo để đạt mục tiêu
chính trị, về mặt tâm linh ông ta vẫn là một tín
đồ của đạo thờ thần Mặt
Trời (a Sun-god worshiper). Cho đến khi về già ông ta
vẫn tự xưng là Giáo chủ Tối cao của Đa
Thần giáo La-mã (Pontifex Maximus).
Vì chỉ coi
Ki-tô giáo như một sản phẩm của mình nên
thật sự Constantine không coi trọng Jesus, do đó ông ta
không thèm xử dụng tước hiệu Đại
diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ) mà xử dụng tước
hiệu “Đại diện Thượng đế Trên Trái
Đất” (God’s Vicar on earth). Trong tác phẩm “The Oxford
Illustrated History of Christianity” của John Mac Mannus, Oxford Uni,
Press 1990, trang 71 có in hình huy hiệu của Constantine, trên
đó có in chữ Hy-lạp có ý nghĩa như trên ‘God’s vicar
on earth’.
Constantine
tạo mọi điều kiện làm cho Ki-tô giáo lớn
mạnh nhưng không cho phép nó thành một quyền lực
độc lập, mà chỉ cho nó làm một bộ phận
của đế quốc mà thôi. Do đó, sau này Vatican
đã phải làm giả văn kiện mang tên “Sự dâng
cúng của Constantine” (The donation of Constantine)
để tạo quyền lực cho giáo hội Công giáo
La-mã. Văn kiện này được Vatican
giả mạo dưới triều giáo hoàng Stephen III
(752-757) bằng cách ngụy tạo văn kiện, ngụy
tạo chữ ký của Constantine
và bịa đặt ngày ký là 30 tháng 3 năm 315.
Trong văn
kiện này có điều khoản quan trọng sau đây :
“Đức Thánh Cha là đấng thừa kế Thánh Phê-rô
sẽ được tôn vinh lên bậc cao cả trong
đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi báu
thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục
ở Antioch, Alexandria,
Constantinople và Jerusalem”
(The Faith, a history of christianity, Brian Monahan, pages 217, 362). Văn kiện giả mạo “The
Donation of Constantine” đã bị lôi ra ánh sáng bởi Lorenzo
Valla, một giới chức cao cấp tại Vatican,
vào năm 1440. Một trong những bằng cớ rõ rệt
nhất là văn kiện giả mạo ghi ngày ký là 30.3.315.
Lúc này, Constantinople chưa có. Thành phố Constantinople
bắt đầu được thành lập từ năm
324!
Với văn kiện giả mạo này, Vatican
đã chiếm được quyền lực cai quản
toàn bộ các giám mục trong giáo hội và lấn
lướt quyền lực của các vua chúa về
phương diện thế quyền. Văn kiện “The Donation of Constantine” chỉ là một trong vô vàn các
hình thức bịp bợm đã tạo nên quyền lực
của Vatican trong 16 thế kỷ qua.
Để
kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời của
sử gia Gibbon trong tác phẩm ‘The Decline and Fall of the Roman Empire’ : “Giáo hội La-mã
dùng bạo lực để bảo vệ cái đế
quốc mà nó đã chiếm được bằng sự
lừa bịp”! (The Church of
Rome defended by violence the empire she
acquired by fraud).
Charlie Nguyễn
(re-edited on March, 2002)