Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

NGÀY TẬN THẾ CỦA GIÁO HỘI SATAN - Cha con GIÁO HOÀNG ALEXANDER VI và Chủ Nghĩa Bá Đạo


Vị thánh sống Công Giáo đứng đầu giáo hội trong các năm 1492-1503 là Đức Thánh Cha Borgia Alexander VI chiếm kỷ lục quốc tế về các môn dâm tặc và loạn luân. Y hoàn toàn bỏ ngoài tai mọi lời đàm tiếu. Linh Mục Jérome Savonarole xúi dân Florence nổi loạn chống giáo hoàng năm 1497 đã bị giáo hoàng đem quân đến dẹp tan. Linh Mục Jérome và 3 đồ đệ bị bắt trói vào cọc thiêu sống ngày 23.5.1498. Con trai của "Đức Thánh Cha Borgia" là ông hoàng Caesar được Machiavel coi là người mẫu lý tưởng cho tác phẩm Le Prince (Quân Vương). Machiavel gọi ông hoàng Cesar là "một thú dữ lớn hoàn hảo", "một quái vật duyên dáng". Đó là một mẫu người phạm tội ác đến mức mọi người phải... ngưỡng mộ! Caesar và Giáo Hoàng Alexander VI đã là nguồn cảm hứng khiến cho Machiavel phải bỏ ra 15 năm tự giam mình trong căn phòng cô đơn để đọc sách nghiên cứu viết ra tác phẩm Il Principe, tiếng Ý có nghĩa là "Quân Vương". Machiavel quan niệm giáo hội Công Giáo là một vương quốc. Kẻ đứng đầu giáo hội hay đứng đầu quốc gia đều là quân vương.
 
Cả giáo hoàng lẫn hoàng tử Caesar đều là những kẻ vô thần, bất cần sự cứu rỗi đời đời. Quan tâm hàng đầu là làm sao chiếm giữ vương quốc trên thế gian để được hưởng mọi loại thú vui: thú vui xác thịt phải được thỏa mãn tối đa dù với bất cứ một người đàn bà nào mà cha con ông ta muốn, bất kể là ai. Thú vui thẩm mỹ với các tượng điêu khắc, tranh nghệ thuật xây cất cung điện nguy nga và các đền thờ đại như đền Thánh Phêrô chẳng hạn, cốt để lưu danh muôn thuở. Không loại trừ cả thú vui trí thức: tìm một triết lý sống, một nghệ thuật thống trị và bành trướng quyền lực. Alexander có sáng kiến xâm lược vùng đất mới tại Châu Mỹ để vét vàng và tài nguyên làm giàu...
 
Cả hai cha con Giáo Hoàng Alexander VI đã đưa tội ác lên cao tới mức nghệ thuật khiến thiên hạ phải khâm phục vì người ta thấy dường như có cả một sự thẩm mỹ trong tội ác.
 
Nghiên cứu trường hợp của hai cha con giáo Hoàng Alexander VI, Machiavel tự hỏi: Bản chất vương quốc là gì? Làm thế nào để chiếm nó? Làm thế nào để giữ nó? Và tại sao người ta đã mất nó?
 
Machiavel đọc các sách cổ kim có thể có được để nghiền ngẫm tìm ra các câu trả lời cho những vấn đề trên. Theo ông, vương quốc là sản phẩm của sức mạnh. (Nền văn minh Kitô Giáo là nền văn minh dựa trên chủ thuyết sức mạnh). Dùng mọi biện pháp của sức mạnh để chiếm đoạt cho được vương quốc. Mọi sự giả vờ, lường gạt, tàn bạo, nhất là chiến tranh là những đối tượng mà quân vương phải luôn luôn để tâm suy nghĩ. Đó là nghề nghiệp của quân vương. Am tường mọi nghệ thuật về chiến tranh là phương cách tốt nhất để tiếm chiếm quyền hành. Người ta chỉ có thể thủ đắc vương quốc (đế quốc lãnh thổ hoặc đế quốc tinh thần như Vatican cũng vậy) là do sự quyết tâm, tài năng, sự kiên trì và sự bạo tợn dám làm. Quân vương phải là người biết xử dụng vũ khí của mình và vũ khí của kẻ khác, phải có âm mưu để thủ đắc vương quốc với sự đồng ý hoặc cả với sự không đồng ý của nhân dân. Machiavel phủ nhận số phận. Ông cho rằng "số phận" chỉ có ở nơi nào người ta không dự liệu các biện pháp để chống lại nó mà thôi. Với tài năng, người ta có thể chiến thắng để xóa bỏ số phận. Machiavel quan niệm "nhân dân" là một tập thể luôn luôn thay đổi lập trường vì rất dễ bị thuyết phục và không có ai duy trì được lâu dài sự tin tưởng của nhân dân đối với quân vương, vì vậy phải dùng bạo lực với nhân dân. Các quân vương đều đã duy trì được luật pháp của mình bằng vũ khí, không có phương tiện bạo lực thì không ép buộc được ai. Dùng sức mạnh , để duy trì niềm tin của quần chúng và nhờ sức mạnh, quân vương sẽ dành được lợi thế để có quyền hành, được hạnh phúc và được kính trọng lâu dài, dù cho quân vương là một kẻ vô đạo đức.
 
Qua tác phẩm Quân Vương (The Prince), Machiavel đã hết lời ca tụng Caesar Borgia. Trong thực tế, Caesar Borgia đã bị mất ngôi một cách buồn thảm. Cha của Caesar Borgia là Giáo Hoàng Alexander VI bị đầu độc chết, mọi người lảng tránh để xác của ông sình thối nhiều ngày mới được đem chôn. Hai cha con Giáo Hoàng Alexander trở thành biểu tượng của sự vô luân, sự tàn bạo và sự gian xảo cùng cực chưa từng thấy.
 
Tuy nhiên, giới quí tộc bảo hoàng rút ra từ đó một bài học: "Hãy tạo ra một quân vương từ uy thế của một người trong hoàng tộc để rồi núp sau lưng quân vương mà thỏa mãn mọi cao vọng". Trong trường hợp vương quốc của giáo hội thì giới quí tộc bảo hoàng này chính là tập đoàn tu sĩ..
 
Giáo Hoàng Alexander VI chết năm 1503 nên đã không có cơ hội đọc tác phẩm "The Prince" của Machiavel ca ngợi: Alenxander VI đã nới rộng lãnh thổ nhờ sức mạnh. Người ta phải hy vọng rằng ông có thể làm cho lãnh thổ này lớn hơn nhiều và đáng kính hơn nhiều". Cuối chương XI của tác phẩm). Nghiên cứu về hoàng tộc nước pháp, Machiavel viết: "Quân vương được vây quanh bởi những nhà quí tộc. Giới quí tộc nắm quyền không phải do đặc ân của quân vương mà do sự lâu đời của dòng dõi mình". Machiavel chỉ cho các người muốn làm chính trị phải biết "Không có cái gì lúc nào cũng tốt và không có cái gì lúc nào cũng xấu mà tốt hay xấu là tùy lúc". Quân vương có thể là vô thần nhưng cần phải tỏ ra sùng đạo. Quân vương có thể là nham hiểm ác độc nhưng phải tỏ ra rộng lượng, thương người, giữ lời hứa, cứng rắn, can đảm, vui vẻ, liêm khiết... Nói tóm lại, quân vương phải cùng một lúc vừa là một con cáo, vừa là một con sư tử. Làm cáo để biết mọi cạm bẫy giăng ra hại mình và làm sư tử để mọi con cáo khác phải biết sợ mình. Quân vương cần phải biết làm cho mọi người phải sợ mình hơn là thương mình. Muốn duy trì quốc gia, phải đi ngược lại với đức bác ái và chống lại tôn giáo khi không còn lợi dụng được nó. Khi có thể được thì đi theo con đường thiện. Khi cần, phải biết dấn thân vào con đường ác.
 
Tác phẩm The Prince của Machiavel chỉ là một cuốn sách mỏng nhưng là kết quả của 15 năm làm việc miệt mài khổ công của tác giả. Ngày 22.6.1527, Machiavel qua đời, thọ 58 tuổi. Khi ông chết, chẳng một ai biết tới tác phẩm của ông. Bốn năm sau khi ông chết, Giáo Hoàng Clement VII (1531) cho xuất bản "Quân Vương". Từ đó, sách này được in ra và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Cả thế giới bình luận ồn ào, có kẻ ca ngợi là tuyệt tác phẩm chính trị, kẻ khác lại kết tội "Quân Vương" là cuốn sách dơ dáy tội lỗi được viết bởi ác quỉ. Có lẽ J. J. Rousseau là người đưa ra nhận xét đúng nhất: "Quân Vương là con dao hai lưỡi, một mặt nó giúp cho quân vương chiếm quyền hành nhưng mặt khác nó giúp cho quần chúng thấy được các thủ đoạn của quân vương!"
 
Từ đầu thế kỷ 17, tại Âu châu, cuốn sách "Quân Vương" trở thành một quái vật huyền thoại. Hầu như mọi vua chúa và cận thần đều say mê đọc và nghiền ngẫm cuốn sách mỏng này. Không ai có thể ngờ ảnh hưởng của nó đã làm thay đổi cả lịch sử loài người với nhiều chuyện buồn hơn là vui.
 
Năm 1614, Richelieu là hồng y giáo chủ kiêm thủ tướng nước Pháp ra lệnh cho tu sĩ Machon viết sách ca ngợi Machiavel. Năm 1787, chính phủ Ý cải mộ của Machiavel đem về an táng tại nghĩa trang quốc gia để nắm xương của ông được nằm bên cạnh các vĩ nhân Dante, Galilee, Michel Ange, Rossini và trên mộ của Machiavel được khắc dòng chữ "Không có lời ca ngợi nào xứng đáng với tên ông".
 
Quả vậy, tên của ông đã tạo ra một lô danh từ trong các tự điển của mọi nước Âu Mỹ: Machiavelism, Machiavelic, Machiavelian... có nghĩa là chính sách xảo quyệt, xảo trá, nham hiểm, ác độc. Có một điều không ai phủ nhận, tác phẩm "Quân Vương" đã là sách gối đầu giường của các bạo chúa từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Từ Richelieu đến Napoléon đều dùng sách của Machiavel để hoạch định chiến lược. Thậm chí khi Napoléon bị thất trận tại Waterloo, người ta đã phát giác ra trên xe của Napoléon có dán nhiều mảnh giấy chép lại nhiều đoạn trong sách Quân Vương.
 
Năm 1924, Mussolini dựa vào sách Quân Vương để phát minh ra Chủ nghĩa Phát Xít. Moussolini tuyên bố: "tôi xác nhận rằng lý thuyết của Machiavel ngày nay còn sống mạnh hơn 4 thế kỷ qua". Hitler cũng là đệ tử của Machiavel. Sau thế chiến thứ hai, người ta mới nhận rõ hơn khuôn mặt ghê tởm của chủ nghĩa Machiavel qua tham vọng nô lệ hóa thế giới của Hitler. Qua cuốn sách của Arthur Koesler, người ta mới biết cả Stalin cũng luôn luôn giữ ở đầu giường một cuốn Quân Vương.
 
Tóm lại, Machiavel đã đào tạo ra một loạt các bạo chúa nham hiểm ác độc trong 4 thế kỷ qua mà khuôn mẫu của nó là cha con Giáo Hoàng Alexander VI thuộc thế kỷ 16. Đó là một quan niệm về đạo đức chính trị dựa trên căn bản của nền văn hóa du mục phi nhân bản phát xuất từ Babylon. Nền văn hóa du mục Babylon thấm qua đạo Do Thái của Abraham, Moses, xâm nhập vào Kitô Giáo và phát triển cao độ nơi đạo Công Giáo mà trung tâm quyền lực của giáo hội này nằm tại Vatican. Từ cái đầu của con bạch tuộc tại Vatican, các chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa Phát xít Đức Quốc Xã, quân chủ chuyên chế, thậm chí chủ nghĩa Cộng Sản của Lenin hay Stalin chỉ là những cái vòi của con bạch tuộc Vatican. Rồi từ cái vòi Cộng Sản Nga Phát sinh ra những cái ống hút nhỏ như Mao Trạch Đông, Pol Pot.... Tất cả các bạo chúa này thực chất là những đệ tử hạng bét của Vatican mà họ không biết.
 
Chủ nghĩa Cộng Sản ghê như vậy cũng chỉ tồn tại được hơn 70 năm. Vậy mà giáo hội của Constantine đã tồn tại và tác oai tác quái ròng rã trên 16 thế kỷ, mà tới nay, đa số nhân loại còn chưa nhận ra được chân tướng của nó, đủ thấy Vatican siêu đẳng cỡ nào? Vatican thực sự là đỉnh cao trí tuệ loài người về phương diện triết học và văn hóa phi nhân bản. Nền văn hóa phi nhân bản xuất phát từ Babylon đã được ghi nhận là hết sức độc hại trong sách kinh Tân Ước viết: "Huyền thoại Babylon vĩ đại là mẹ của các con điếm và mọi chuyện ghê gớm của trái đất này" (MYSTERY BABYLON THE GREAT, THE MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH - Rev. 17: 1-16).
 
6. LỜI KẾT
 
Cả thế giới ngày nay đã đau khổ quá nhiều do hậu quả của nền văn hóa phi nhân bản. Lương tâm và lương tri nhân loại cần phải đi tìm một nền văn hóa nhân bản phục vụ hạnh phúc con người. Thật ra, từ trước Công Nguyên, Hy Lạp đã có một nền văn minh khoa học rất cao và một triết học nhân bản rất tốt đẹp nhưng đã bị đế quốc La Mã thiêu hủy hết các sách của Hy Lạp làm cho cả Âu Châu phải chìm đắm trong thời đại đen tối (The Dark Age) nhiều thế kỷ. Sự mê tín hoành hành khắp lục địa Âu Châu, Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên giữa các lãnh chúa trong thời Trung cổ làm cho các thành phố phần lớn bị đổ nát, các đường sá mọc đầy cỏ dại. Các ngành thương mại bị tê liệt. Toàn dân Châu Âu phải qui tụ lại với nhau để tự bảo vệ trong các làng mạc hẻo lánh hay các tỉnh nhỏ ở thôn quê. Họ sống bằng nghề nông với thu nhập nhỏ khiến đời sống vô cùng chật vật. Đời sống càng thêm khốn khổ do luôn luôn phải đối đầu chiến tranh, bệnh tật và nạn đói.
 
Từ thế kỷ 8, Âu Châu được chia thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước chia thành nhiều thái ấp (fiefs) hoặc chư hầu (vassals). Hệ thống xã hội này được gọi là phong kiến (Feudalism) kéo dài từ thế kỷ 8 đến 13. Dân chúng trở thành các nông nô làm việc cơ cực ở đồng ruộng để nộp hoa lợi cho lãnh chúa. Trong khi đó các lãnh chúa thường xuyên gây chiến tranh với nhau để duy trì quyền lực và quyền lợi riêng. Suốt trong các thế kỷ này của thời Đại Đen Tối, giáo hội Công Giáo La Mã là "lực lượng tinh thần" tối cao vượt trên mọi lãnh chúa. Toàn thể dân chúng cực khổ hướng về giáo hội để tìm đường giải thoát đau khổ bằng cách cầu nguyện Chúa và vâng lời Tòa Thánh. Dân chúng không còn ai lưu tâm gì đến các vấn đề thế giới bên ngoài hoặc để ý tìm hiểu vũ trụ. Vả lại, vào thời đó dân chúng không có thể kiếm ra sách để đọc vì các cổ thư đều được chép bằng tay công phu và rất hiếm. Tuyệt đại đa số dân chúng đều mù chữ, chỉ có giới quí tộc và tu sĩ biết đọc biết viết mà thôi. Mọi ngành văn học và nghệ thuật đều hướng vào việc ca ngợi Chúa và các "thánh" của giáo hội. Các sách đều được giấu trong các tu viện, dấu nhẹm mọi kiến thức khoa học, đàn áp mọi sáng kiến hoặc khám phá vũ trụ đi ngược lại Thánh Kinh. Toàn dân Âu Châu thời đó đều được giáo dục bằng những kiến thức lệch lạc. Mọi người đều tin trái đất phẳng và mặt trời xoay quanh trái đất. Ai sinh ra đời cũng mắc tội tổ tông, cần phải có ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và cần có tu sĩ coi sóc phần linh hồn. Mọi vật trong vũ trụ được cấu tạo bằng 4 yếu tố: đất, nước, không khí và lửa! Các học giả trí thức chỉ thích bàn về thần học và đoán mò về thánh ý của Đức Chúa Trời.
 
Đầu thế kỷ 14, bắt đầu có phong trào xét duyệt lại các giá trị của văn minh Kitô giáo. Học giả và trí thức Tây phương cố gắng moi tìm lại trong quá khứ cổ xưa của Hy Lạp cái kho tàng nghệ thuật, khoa học và triết học đã bị thất lạc. Thời kỳ này kéo dài từ thế kỷ 14 đến 17, được gọi là Thời Kỳ Phục Hưng (The Renaissance) có nghĩa là Sự Tái Sinh của nền văn hóa cổ. Người đầu tiên khai sáng Phong Trào Phục Hưng ở Âu Châu là học giả Ý tên Petrarch (1304-1374). Ông rất thông thạo tiếng Hy Lạp và đã nhờ bạn bè đi khắp nơi mua về cho ông các cổ thư Hy Lạp còn sót lại. Cuối cùng ông lập được một thư viện và kêu gọi mọi học giả đến nghiên cứu. Ông quan niệm: Sách là kho tàng ghi tiếng nói của các bậc khôn ngoan, các bài kinh nghiệm của lịch sử, các tư tưởng về luân lý, tôn giáo, luật pháp và toàn bộ nền văn minh của con người. Sách là ký ức của quá khứ. Không có sách, không có chỗ đứng để đi lên, không có gương sáng để theo và gương xấu để tránh.... Dần dần, Petrarch và các bạn học giả của ông khám phá ra rằng: Hầu hết các bản dịch của các tu sĩ đều sai lầm và bịa đặt. Họ càng nghiên cứu càng thán phục nền văn minh cổ Hy Lạp. Do đó, tư tưởng của các trí thức Âu Châu bắt đầu thay đổi. Thay vì cúi đầu vào Thánh Kinh, họ ngẩng đầu lên quan sát vũ trụ và thế giới. Họ bắt đầu đưa ra các giả thuyết, sau đó trắc nghiệm để dần dần đi tới kết luận. Sự thay đổi não trạng của trí thức Âu Châu đã sản xuất ra nhiều triết nhân có khuynh hướng nhân bản. Họ coi ý kiến của mọi cá nhân là quan trọng và họ đòi hỏi mọi người phải có quyền tự do phát biểu tư tưởng. Họ vạch ra cho mọi người thấy rằng sự tranh luận tự do giữa mọi người sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Cái thói quen ngoan ngoãn tuyệt đối vâng lời các giáo sĩ và giáo hội mà không thắc mắc gì cả là đầu mối của sự mê muội và dìm xã hội trong bóng tối tâm linh.
 
Họ chủ trương luật pháp là sản phẩm của con người nên con người có quyền thay đổi. Chẳng có luật nào là luật của Chúa mà con người không có quyền thay đổi cả. Lập luận này nhắm vào việc đả phá giáo hội Công Giáo vốn có truyền thống cho rằng mọi giáo điều là luật của Chúa có giá trị bất di bất dịch. Chống lại giáo điều và giáo luật không thể bị lên án là chống lại Thiên Chúa vì đó chỉ là cái cớ giả tạo để giáo hội đưa các kẻ chống đối lên dàn hỏa mà thôi. (The Renaissance, by Tim Wood Pinguin Book. 1993).
 
Các học giả Tây phương tiếp tục đào sâu khám phá kho tàng kiến thức của cổ Hy Lạp đều đã nhận ra các tội ác lớn lao của đế quốc La Mã chỉ vì muốn dấu tung tích ngụy tạo của đạo Công Giáo mà ra tay hủy diệt mọi kho sách cổ Hy Lạp khiến cho nền văn minh nhân loại bị chậm lại trên 10 thế kỷ. Đặc tính của La Mã là nhiều tham vọng và tàn bạo. Đặc tính của người Hy Lạp là yêu sự học hỏi (the Hellenic love of learning).
 
Từ thế kỷ 6 trước Công Nguyên, Pythagore đã dạy cho biết trái đất tròn và quay chung quanh mặt trời. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Aristarchus đã vẽ hệ thống thái dương hệ với mặt trời ở trung tâm (heliocentric theory) như Copernicus của thế kỷ 19! Cũng trong thế kỷ 3 trước Công Nguyên, Erathosthenes đã ước tính gần đúng chu vi trái đất. Trong thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên, Democritus và Leucippus đưa ra thuyết nguyên tử của vật chất (the atomic theory of matter) và tiến hóa của sự sống (the evolutionary theory of life) tương tự như Einstein và Darwin!
 
Sử gia Lloyd M. Graham viết: "Thế giới Kitô Giáo từ chối khoa học và triết học Hy Lạp, tất cả kho học vấn cổ này bị đốt ở nơi công cộng. Điều đó còn tệ hại hơn cả tội ác. Đó là tội của các tổ phụ của đạo Kitô di hại đến ngày nay. Vì cái tội ác này mà ánh sáng của Hy Lạp đã phải tắt đi từ Arisarchus đến Copernicus, từ Aristotle đến Bacon, từ Dimocritus đến Darwin..." (The Christian world renounced Greek Science and philosophy for this all ancient learning was burned in the marketplace. It is worse than a crime. Thus are the sins of the Christian Fathers visited to the present time. But for this crime the light of Greek might have burned on from Aristarchus to Copernicus, from Aristotle to Bacon and from Democritus to Darwin – Deceptions and Myths of the Bible, page 450).
 
Tội ác của Đế Quốc La Mã, tổ phụ đích thực của đạo Công Giáo, là hủy diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp để phát triển văn hóa du mục phi nhân bản của Babylon – Do Thái, tràn ra khắp Âu Châu và thế giới. Văn hóa du mục phi nhân bản của "Babylon – Do Thái" chú trọng đến việc phụng sự thần linh và sẵn sàng hy sinh con người (như Abraham giết con trai duy nhất của mình là Issaac) để tế thần. Đạo thờ thần Bal của Babylon tế thần bằng người sống rồi chia nhau ăn thịt. Cũng tương tự như Công Giáo lên rước lễ ăn bánh thánh (thịt Chúa) hay rượu (máu Chúa). Các tôn giáo xuất phát từ huyền thoại Babylon như Do Thái Giáo, Kitô Giáo (gồm cả Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống) và Hồi Giáo đều lấy Cựu Ước Do Thái làm căn bản và đều có đặc tính hiếu thắng và hiếu sát. Gọi chung các đạo này là đạo Thiên Chúa hay Độc Thần Giáo (Monotheism) và có lẽ chính xác nhất là nên gọi chung là Đạo Uống Máu Ăn Thịt Người.
 
Ngày nay, người Tây Phương đã nhận ra điều đó và họ đã tăng cường công tác giáo dục đồng bào họ bằng cách viết ra rất nhiều sách báo để soi sáng tâm linh. Nhờ vậy chúng ta hiện sẵn có rất nhiều tài liệu học hỏi để soi sáng tâm linh của mình và tôi ước mong những gì tôi đã viết sẽ mang lại đôi điều ích lợi cho đồng bào đồng đạo của tôi, trong đó có những người thân yêu nhất của tôi là vợ con, anh em, chị em tôi. Tôi không mong điều gì khác hơn là mọi người Công Giáo hãy bắt đầu sự nghi ngờ để rồi từ đó rà xét lại niềm tin của mình. Hãy biết nghi ngờ về sự thánh thiện của Tòa Thánh Vatican và giáo hoàng. Vì thật sự tất cả chỉ là giả tạo. Bên trong tòa thánh và bản thân giáo hoàng đầy dẫy những chuyện thối tha bẩn thỉu còn ghê tởm hơn các triều đình thế gian. Những màn giáo hoàng ban phép lành tại Tòa Thánh cho các đám đông ở Vatican chỉ là những màn giả tạo để quay phim chụp ảnh. Các ký giả chuyên săn tin Vatican gọi đó là các màn "Shows tailor-made for video". Các hồng y da đen chẳng có chức vụ gì thật ở Vatican ngoài cái nhiệm vụ chính yếu là đi qua đi lại ở công trường Thánh Phêrô cho thiên hạ chụp ảnh quay phim để chứng tỏ giáo hội không kỳ thị chủng tộc. Sự thật, Vatican là cái gốc xua đẩy bọn thực dân da trắng Âu Châu đi bắt dân da đen ở Phi Châu về làm nô lệ trong những thế kỷ qua. Cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa, tác giả Vicars of Christ, đã phải thốt lên "Vatican là cái xưởng sản xuất đồ giả lớn nhất thế giới". (Vatican is the largest document - forgery - factory of the world).
 
Tổ tiên của chúng ta đã dạy: chỉ có cái thật mới phát sinh ra sự tốt lành, sự thật và sự lành sinh ra cái đẹp: chân, thiện, mỹ.
 
Vatican là trung tâm của sự gian trá không thể nào có được sự thiện lành. Sự gian trá chỉ có thể sinh ra tội ác xấu xa. Trên đời này chỉ có sự "gian ác" đối nghịch với sự "ngay lành" mà thôi. Cuối cùng sự thiện lành sẽ chiến thắng sự gian ác, dù cho kẻ gian ác khôn ngoan và quỉ quyệt đêᮍ đâu!
 
Từ cổ chí kim, các bậc minh triết của nhân loại đã băn khoăn rất nhiều về sự thật. Họ đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm để chúng ta học hỏi. Tất cả đều chỉ cho chúng ta thấy rằng: muốn có cuộc sống hòa bình hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta phải bắt đầu bằng lòng yêu sự thật, bởi lẽ phải có CHÂN trước hết rồi mới có thể có THIỆN và MỸ. Nhà tư tưởng nổi tiếng vào thế kỷ 17 gốc Do Thái là Spinoza (1632-1677) được coi là một trong những triết gia vĩ đại nhất của Tây Phương và được xếp ngang hàng với Lão Tử của triết học Đông phương, đã viết: "Không có gì có giá trị hơn tình bạn với những người chân thành yêu sự thật vì không có gì ngoài sự thật có khả năng đoàn kết được mọi ý kiến dị biệt và mọi tính tình khác nhau". (I value nothing more than friendship with people who sincerely love the truth... since nothing but truth can unite different opinions and temperaments – The Enlightened Mind – Harper-Collins Pub. 1991, page 142).
 
Dù cho chúng ta hiện đang ở trong một nhóm thiểu số giữa một tập thể đông đảo đang hùa theo một tà thuyết hay một tà đạo, chúng ta hãy can đảm chiến đấu cho "cái lý của sự thật". Cổ nhân thường nói "Vạn sự nhất lý". Dù chúng ta chỉ là một nhóm rất nhỏ nhưng một khi đã nắm được cái lý do, chúng ta sẽ trở nên những người có sức mạnh vô địch. Cái lý của sự thật sẽ giúp chúng ta vượt thắng mọi trở ngại khó khăn để đạt tới thắng lợi vẻ vang cuối cùng. Trong lịch sử nhân loại, nhiều thế lực gian ác đã có một thời hùng mạnh, nhưng cuối cùng "không có thế lực nào có thể mạnh hơn sự thật". (There is nothing powerful than truth – Daniel Webster 1930). Dù cho sự thật có bị các thế lực gian ác đè bẹp tới sát mặt đất chăng nữa, cuối cùng sự thật sẽ lại vươn lên (Truth crushed to earth shall raise again – William Cullen Bryant 1839). Nhiều triết gia yêu sự thật còn hơn cả ái tình tiền tài danh vọng (Rather than love, than money, than fame, give me truth (Henry Thoreau, 1817-1862). Tất cả chỉ vì một nguyên do: Sự thật là quyền năng và sẽ chiến thắng tất cả (Truth is mighty and will prevail – Đại văn hào Mark Twain).
 
Tuy nhiên, trong khi chiến đấu cho sự thật, chúng ta cũng phải trả giá cho lòng yêu sự thật. Người chiến đấu cho sự thật luôn luôn bị những kẻ gian ác rắp tâm hãm hại và đe dọa sự an toàn thân mạng. Nhưng các chiến sĩ chiến đấu cho sự thật hãy bền gan vì những người chân thật luôn luôn là những người có lòng nhân ái lớn lao. Đó chính là đức từ bi mà Đức Phật đã dạy. Một khi đã có đức BI tất sẽ có TRÍ và DŨNG. Những người thiện lành yêu mến sự thật sẽ được "Thượng Đế" [Không nên hiểu chữ Thượng Đế như người Kitô giáo.] soi sáng và ban sức mạnh tinh thần hết sức dồi dào để chiến thắng mọi loại quỉ vương.
 
Vào thế kỷ 18, văn hào chống Công Giáo số một tại Pháp là Voltaire đã nói lên kinh nghiệm của mình: "Hãy nói lên sự thật rồi chạy trốn để có an toàn" (Tell the truth and run). Voltaire đã trở nên người lãnh đạo hàng đầu của Phong Trào Soi Sáng tại Âu Châu vào thế kỷ 18 (The enlightenment). Tư tưởng của ông là một trong những nguyên nhân dẫn đến hai cuộc cách mạng lớn giải phóng con người là cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789. Cựu Tổng Thống Mỹ Truman cũng cho chúng ta một kinh nghiệm là những thế lực tội ác có thể sẽ kết án chúng ta đã đẩy họ vào hỏa ngục. Nhưng thật ra, "chúng ta chẳng có ý đẩy ai xuống địa ngục cả, chúng ta chỉ muốn nói lên sự thật mà thôi". (I never give them hell, I just tell the truth and they think it is hell!)
 
Đến đây, xin quí độc giả cho phép tôi được mở dấu ngoặc để nói lên một kinh nghiệm bản thân. Tôi vốn được giáo dục trong nền văn hóa Công Giáo từ nhỏ đến lớn nhưng cuối cùng tôi đã phải giã từ cái tôn giáo lâu đời của gia tộc mình.
 
Cuộc hành trình đi đến chỗ bỏ đạo này khởi đầu từ sự nghi ngờ về cái giá trị chân thực của các tín lý và giáo điều của đạo Công Giáo. Tôi cố gắng vận dụng lý trí và đồng thời tìm đến các tài liệu khách quan có giá trị cao để soi rọi vào niềm tin cố hữu của mình. Tôi như một con bệnh tâm trí dần dần được phục hồi để tìm đường về với sự thật. Động cơ thúc đẩy tôi mạnh mẽ nhất là lòng thiết tha yêu mến sự thật và sẵn sàng chết cho sự thật. Sở dĩ tôi cố gắng viết ra những điều này không nhằm mục tiêu nào khác hơn là giúp những người cùng cảnh ngộ có một tài liệu để tự suy nghiệm về niềm tin của mình. Tôi thành khẩn mong những người đó không phải phí thì giờ và công sức đi tìm các tài liệu này.
 
Mới đây, tôi đọc được lời Phật dạy rất hợp với hoàn cảnh của tôi đã khiến tôi vui sướng vô cùng. Phật dạy rằng: "Sự nghi ngờ là chính đáng. Đừng để cho các sách thánh dẫn dắt bởi uy quyền của các vị thầy của các tôn giáo. Khi nhận ra điều gì xấu xa và không xứng hợp với mình thì hãy dứt bỏ nó. Và khi nhận ra điều gì là tốt và xứng hợp thì hãy làm điều đó. Hãy là ngọn đèn tự soi sáng mình. Hãy duy trì sự thật trong mình và chỉ vì sự thật mà thôi". (It is proper to doubt. Do not be led by Holy Scriptures... But when you realize that something is unwholesome and bad for you, give it up. And when you realize that something is wholesome and good for you do it... Be a lamp to yourself. Be your own confidence. Hold to the truth within yourself, as to the only truth – The Buddha – The enlightenment Mind by Stephen Mitchell, Harper Perennial 1991, page 10-11).
 
Tôi rất yêu những lời sau đây của vị Phật Sống Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Một người có đức tin tôn giáo hay không cũng không quan trọng cho lắm. Điều quan trọng hơn nữa chính là họ phải là người thiện lành... Không có một tôn giáo nào thỏa mãn được toàn thể nhân loại. Chúng ta có thể kết luận rằng: Loài người có thể sống khá tốt đẹp mà không cần phải cần đến tín ngưỡng. Điều đó có vẻ như một xác nhận bất thường khi sự xác nhận đó đến từ một nhân vật tôn giáo... Là một con người, tôi có trách nhiệm lớn lao hơn nữa đối với toàn thể "gia đình nhân loại" – mà thật sự chúng ta đều có. Và bởi vì đa số không thực hành tôn giáo cho nên tôi cố gắng tìm ra một con đường phục vụ toàn nhân loại mà không cần kêu cầu đến tín ngưỡng". (Đạo Lý Cho Thiên Niên Kỷ Mới – Linh Thụy chuyển ngữ. Văn Nghệ xuất bản 1999, trang 33-35).
 
Mọi người thân yêu nhất của tôi đều đang có niềm tin Công Giáo. Tôi không có một lý do nào để căm thù cái đạo gốc của mình. Tuy nhiên, tôi không thể nào chấp nhận được cái thói cao ngạo láo xược của đại đa số tu sĩ Công Giáo luôn luôn cho rằng chỉ có Công Giáo là duy nhất thánh thiện, duy nhất đúng đắn. Họ gọi mọi tôn giáo khác là các đạo thờ quỉ. Sự thật chẳng có tôn giáo nào thờ quỉ cả vì theo giáo lý Công Giáo Quỉ là kẻ bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Như vậy, quỉ là kẻ thất bại và bị tước đoạt mọi quyền năng. Liệu có ai ngu xuẩn để tôn thờ một kẻ không còn quyền năng gì mà còn đang bị giam trong lửa hỏa ngục? Các tu sĩ Công Giáo thường có thói quen gọi các đạo khác là "bụt thần ma quỉ" chẳng qua chỉ muốn dùng danh từ này để nhục mạ các tôn giáo khác, nhất là để nhục mạ đạo Phật.
 
Nếu các tôn giáo khác có ai gọi Công Giáo là đạo thờ quỉ, chắc chắn Công Giáo sẽ gây thánh chiến thật thảm khốc chống lại tôn giáo đó. Vậy mà trong các sách kinh Công Giáo vẫn còn chình ình rất nhiều những câu kinh nhục mạ các tôn giáo khác. Thật là một sự tự cao tự đại một cách trơ trẻn và không sáng suốt.
 
Sự tự cao tự đại đó ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng khiến cho các tu sĩ Công Giáo không thể chối cãi. Nhưng cái tội ác của giáo hội Công Giáo ở chỗ đã nhân danh cái quyền tự phong là "độc quyền chân lý" để tàn sát các đạo khác bằng các cuộc "thánh chiến" [Chiến tranh là chết người, là đau khổ thì không thể gọi là thánh được.] đẫm máu và bằng các tòa án tôn giáo đưa hàng triệu người lên dàn hỏa để thiêu sống trong nhiều thế kỷ qua là một tội ác không thể không nguyền rủa.
 
Sau 40 năm chuyên nghiên cứu về Kitô Giáo, giáo sư cựu linh mục Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan John Dominic Crossan, đã từng được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, tác giả tác phẩm best sellers "The Historical Jesus" và "Who is Jesus" đã viết về giáo hội Công Giáo như sau: "Con đường độc đạo chỉ có ta là duy nhất tuyệt đối đúng có nghĩa là tất cả nọi người khác đều phải chết". (One way I alone can be absolutely right is for all others to be dead – "Who is Jesus" Harper – Collines 1996, page 30). Công Giáo La Mã có quyền gì mà dám nhân danh thần linh để hủy diệt mọi người không chấp nhận các tín điều bậy bạ vô luân của Công Giáo. Chỉ có Công Giáo là một thứ đạo khốn nạn và phi nhân nhất trong lịch sử loài người mới có cái thái độ đáng nguyền rủa đó mà thôi. Vậy tại sao loài người lại không có quyền tự vệ chính đáng để bỏ cái đạo khốn nạn đó? Công Giáo là đám cỏ dại trên cánh đồng Việt Nam, tại sao chúng ta không bỏ cái đám cỏ dại này để cứu cánh đồng Việt Nam?
 
Chúng ta cần phải học hỏi các bài học lịch sử đầy đau thương của các quốc gia Âu Mỹ đã từng là những nạn nhân của hiểm họa Công Giáo La Mã.
 
1. Kinh nghiệm của các nước Hy lạp, Nga và Đông Âu.
 
Năm 1054, các giáo hội Công Giáo tại Hy Lạp, Nga và Đông Âu đã là những nước đầu tiên nhận thức được âm mưu xâm lược toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo của Đế Quốc La Mã. Do đó, họ đã đồng loạt tuyên bố tách rời khỏi Vatican. Sử gia John B. Noss đã ghi nhận sự kiện này không phải do xung đột về giáo lý mà là để chống lại ý đồ bành trướng lãnh thổ của Đế Quốc La Mã. Tác giả viết: "CATHOLIC in the West (Vatican) has required the meaning of UNIVERSAL in the sense of the geographic extention of the church throughout the world" – (MAN’S RELIGION, p. 457). Xin tạm dịch: "Trong thế giới phương Tây (của Vatican) danh từ CÔNG GIÁO với nguyên nghĩa là TOÀN CẦU, trong ý nghĩa thật của nó là bành trướng lãnh thổ của giáo hội ra khắp thế giới".
 
Từ đó đến cuối thế kỷ 20, Công Giáo La Mã đã gây ra nhiều cuộc thánh chiến chống lại các quốc gia nói trên, gọi chung là giáo hội Đông Phương hoặc giáo hội Chính Thống. Thảm khốc nhất là các cuộc nội chiến tại Nam Tư giữa xứ Croatia theo Công Giáo và xứ Serbia Chính Thống Giáo.
 
Giữa thời đại văn minh của thế kỷ 20, thế giới đã phải xúc động trước các tin về những vụ giết người tập thể vì lý do tôn giáo tại các xứ Croatia, Serbia và Bosnia tại Nam Tư. Tất cả đều cùng là một giống dân Slave nhưng đã chia thành những quốc gia riêng biệt thù hận lẫn nhau hằng chục thế kỷ chỉ vì sự cuồng tín tôn giáo!
 
Từ những kinh nghiệm đau thương đó nên vào tháng 8 năm 1997, quốc hội Nga (hậu Cộng Sản) đã biểu quyết đạo luật công bố quyền tự do truyền đạo và hành đạo cho mọi tôn giáo. Chỉ có một biệt lệ duy nhất là tuyệt đối cấm Công Giáo La Mã và Tin Lành không được hoạt động tại Nga (như đã nói ở phần trước).
 
2. Kinh nghiệm Anh Quốc:
 
Tiếp theo các nước Đông Âu là Anh Quốc tách rời khỏi Vatican năm 1535. Từ đầu thập niên 1530, vua Anh đã vận động quốc hội Anh chuẩn y việc tách rời này. Công cuôvận động của vua Anh bị thủ tướng Anh thời đó là Thomas More cực lực phản đối. Thomas More xin từ chức thủ tướng Anh Quốc năm 1532. Y vận động chống lại vua Anh và ủng hộ việc thiết lập các tòa án dị giáo để đưa các người chống Công Giáo lên dàn hỏa. Ngày 1.2.1935, nghị viên Anh thông qua đạo luật "The Act of Supremacy" xác nhận vua Anh có quyền tối thượng đối với chủ quyền quốc gia và là giáo chủ của giáo hội Công Giáo Anh quốc. (The King is the supreme head of the church of England). Năm 1559, Quốc Hội Anh biểu quyết đạo luật Tổ chức thống nhất cho toàn hệ thống Công Giáo nước Anh (Act of uniformity) và duyệt xét lại toàn bộ các sách kinh nguyện (prayers) và cho phép giáo dân chỉ được đọc các kinh đã được in trong sách kinh chính thức được gọi là "The Book of Common Prayers". Năm 1535, Thomas More bị đưa ra công trường Westminster chém đầu về tội phản nghịch. Trước khi lên đoạn đầu đài, Thomas More tuyên bố: "Công Giáo La Mã là giáo hội toàn cầu. Tôi chết trong và vì niềm tin Công Giáo". (I die in and for the faith of the Holy Catholic Church).
 
Năm 1935, kỷ niệm 400 năm Thomas More chết vì đạo, Vatican đã phong tên phản quốc này lên bậc hiển thánh. (xin đọc Man’s Religion và A World only lit by fire).
 
3. Kinh nghiệm các nước toàn tòng Công Giáo tại Mỹ Châu La Tinh.
 
Ở phần trên của bài viết này, tôi đã có dịp kể chuyện về cuộc sống dâm ô cuồng loạn có một không hai của giáo hoàng gốc Tây Ban Nha là Alexander VI. Ông ta nổi tiếng vì đã loạn luân với mẹ ông, với con gái, với cô em ruột và với con riêng của vợ. Nhưng ông ta cũng nổi tiếng vì đã phát động cuộc xâm lược đại qui mô của thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ Công Giáo vào lục địa Châu Mỹ. Giáo Hoàng Alexander VI và người con trai là ông hoàng Borgia Caesar cũng nổi tiếng vì đã là nguồn cảm hứng cho Machiavel viết nên tác phẩm lừng danh Quân Vương tôi đã có dịp trình bày ở những đoạn trên nhằm mục đích chứng minh rằng: Vatican là trung tâm phát sinh ra một xu hướng méo mó về đạo đức chính trị phi nhân bản đã phá hoại hòa bình thế giới và hạnh phúc nhân loại trong những thế kỷ qua và còn tiếp tục.
 
Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và cướp đoạt vàng bạc của cải làm giàu cho tòa thánh, giáo hoàng Alexander VI giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha năm 1503. [Ngày 4.5.1493, Giáo Hoàng Alexander IV ký sắc chỉ Inter Catera, sắc chỉ nầy về sau được dùng làm căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (new World).]
 
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha xử dụng một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên đi tìm vàng là Hernan Cortez làm tướng chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600 binh sĩ, cùng với một đoàn tu sĩ dòng Phan xi cô do giám mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3.1519, đoàn quân này đổ bộ ở vùng vịnh Tabasco. Tháng 5.1519, chúng chiếm thành phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchtitlan và hoàn tất cuộc xâm lược Mexico (Mễ Tây Cơ).
 
Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất của Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố nhưng sau khi thành công, bọn chúng đã giết hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám mục lãnh đạo tinh thần của đoàn quân xâm lược là Giám Mục Diego de Landa chủ trương đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da Đỏ.
 
Trong các đền thờ được xây cất tương tự như Kim Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs, Maya thường có nhiều tượng và đồ vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chảy thành vàng khối chở về Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than. Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh rộng 300 mét, lớn gấp đôi kim tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó là nhà thờ "Đức Mẹ Đồng Trinh".
 
Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của 44 thành phố thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một kho sách cổ của dân tộc Maya gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng đều đã bị cháy thành than. Nhiều tấm bia đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vứt xuống đáy hồ. Hiện nay các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít tượng đồng và tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được trình độ cao trong việc sản xuất đồ gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà khảo cổ ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây lịch.
 
Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Diego và Hernan Cortez còn được ghi lại trong những cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi theo đoàn quân xâm lược, trong đó có một số hình ảnh vẽ cảnh chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man. Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực dân tiêu diệt sạch không còn một ai sống sót. Theo một số báo cáo của những đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây Ban Nha thì vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico khoảng 15 triệu người. Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn có 2 triệu người mà thôi. [Dân số Mễ Tây Cơ hiện nay là 100.349.766] Phần lớn thổ dân đã chết vì bị nhiễm các loại vi trùng lạ do thực dân Tây Ban Nha đem từ lục địa Âu Châu qua.
 
Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khoảng 60 triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình Hernan Cortez đã chiếm 250 héc ta đồn điền và làm chủ 200.000 nô lệ da đỏ!
 
Cuối thế kỷ 18, do ảnh hưởng của các cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ và Pháp, nhất là do ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tư tưởng thuộc phong trào Soi Sáng Âu Châu (Enlightement) được dịch sang tiếng Tây Ban Nha, một số linh mục cấp tiến đã cầm đầu các cuộc cách mạng chống lại chính quyền thuộc địa và nhà thờ Công Giáo. Phần lớn các cuộc cách mạng này đều bị tắm trong biển máu! Phải đợi đến thế kỷ 19, nhiều nước tại Châu Mỹ mới đạt được thắng lợi lớn lao về chính trị kinh tế và xã hội trên toàn lục địa Châu Mỹ La Tinh. Sự kiện lớn lao này được mô tả khá chi tiết trong tác phẩm The Emergence of Latin America in the Nineteenth Century" (2nd edition, by David Bushenell and Neil Macaulay. Oxford University Press xuất bản năm 1994).
 
Đáng chú ý nhất là Hiến Pháp Mexico năm 1857. Hiến pháp này được nhiều nước Châu Mỹ La Tinh noi theo. Bản hiến pháp này của Mexico đã đưa ra nhiều biện pháp táo bạo và cương quyết đối với các tu sĩ và nhà thờ Công Giáo khiến ta cũng phải ngạc nhiên sững sờ.
 
- Hiến pháp tước bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của các tu sĩ đã được chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha công nhận trong các thế kỷ trước . Các đặc quyền đặc lợi như: tu sĩ được miễn đi lính, tu sĩ được xét xử tại các tòa án riêng và theo luật riêng. Các tu sĩ tự xưng là người của Chúa (agents of God), nên đòi phải được xử theo luật của Chúa chứ không thể bị xét xử theo luật của người phàm (law of man). Tu sĩ bị tước đoạt độc quyền làm khai sinh hôn thú, chứng từ khai tử... Tất cả các việc này đều được thế tục hóa, tức là được chuyển cho các viên chức nhà nước thực hiện.
 
- Điều quan trọng là nhà thờ phải được tách rời hoàn toàn ra khỏi chính quyền (the separation of Church and State). Các tu viện bị đặt ra ngoài vòng pháp luật (outlawed monasteries). Các viện nữ tu bị hoàn toàn dẹp bỏ với hình phạt tử hình được áp dụng cho bất cứ nữ tu nào bị bắt gặp còn ở lại trong tu viện (the suppression of all nunneries upon the death of the present occupants), Các nam tu sĩ bị cấm không được mặc áo dòng khi xuất hiện ở các nơi công cộng (forbidding the wearing of clerical clothing in public). Toàn bộ tài sản của giáo hội bị tịch thu, [Nhưng tại Viêt Nam, các tài sản của giáo hội Công Giáo nhờ thế lực của thực dân mà vẫn còn, chưa ai đụng đến]. trong số đó có một số nhà thờ được bán cho những người Tin Lành ngoại quốc (The general confiscation of church property).
 
Hầu hết các nước Châu Mỹ La Tinh theo đuổi chính sách công khai chống các tu sĩ Công Giáo (Anticlericalism) nhất là ở Venezuela, Colombia và West Granada.
 
Với rất nhiều kinh nghiệm chống tà đạo Công Giáo trên khắp thế giới, ước mong cần phải nghiên cứu và học hỏi để có thể đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm tiêu hủy, hoặc ít ra là giảm thiểu, các ảnh hưởng tai hại của Công Giáo La Mã trên đất nước ta. Không có gì có thể ngăn cản chúng ta ban hành một đạo luật tương tự như nước Nga là cấm chỉ mọi hoạt động của Công Giáo La Mã và Tin Lành trong khi vẫn cho phép các tôn giáo khác được tự do hoạt động.
 
Bài học Anh Quốc thế kỷ 16 đã chỉ cho chúng ta thấy là muốn bảo tồn chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc thì, giáo hội Công Giáo bản xứ phải dứt khoát đoạn tuyệt với Vatican, vì Vatican luôn luôn tìm cách xâm phạm chủ quyền quốc gia của các nước trên thế giới qua giáo hội Công Giáo bản địa mà ban tham mưu của nó là các hội đồng giám mục tại mỗi nước. Quốc hội Anh thế kỷ 16 đã khẳng định mọi cuốn sách kinh nguyện (prayer books) phải được quốc hội thông qua để loại bỏ mọi câu kinh đi ngược lại quyền lợi chung của quốc gia dân tộc. [Trong cuốn Vatican Thú Tội và Xin Lỗi, Giao Điểm 2001, ông Bùi Kha đề nghị giáo hội Công Giáo Việt Nam nên chỉnh đốn lại toàn bộ Thánh Kinh trước lúc mở các chủng viện và giảng dạy cho tín đồ vì Thánh Kinh có hơn 80% là ngụy tạo, và vô số lời dạy trong đó đã đối nghịch với phong tục tập quán, đạo đức và luật pháp Việt Nam.]
 
Các nước Châu Mỹ La Tinh, như chúng ta đều biết, là những quốc gia toàn tòng Công Giáo từ nhiều thế kỷ qua. Vậy mà hầu hết các nước này đều noi gương Mexico đặt tu viện nam nữ Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật theo tinh thần Hiến Pháp Mexico năm 1857. Toàn thể tài sản của giáo hội Công Giáo bị tịch thu. Các tu sĩ Công Giáo bị tước đoạt quyền dạy học và quyền ứng cử bầu cử. Các nhà trường Công Giáo hoàn toàn bị đóng cửa. Các tu sĩ dòng Tên ngoại quốc bị trục xuất. Các tu sĩ nhà thờ bị cấm ngặt không được thu tiền của giáo dân dưới bất cứ hình thức nào. Các nhà thờ được đặt dưới sự kiểm soát thường xuyên của chính phủ.
 
Sở dĩ các dân tộc Châu Mỹ La tinh có những biện pháp quyết liệt để trói tay giáo hội Công Giáo vì họ không thể quên được tội ác diệt chủng và diệt nền văn hóa cổ xưa của tổ tiên họ là người Da Đỏ. Thiết tưởng những biện pháp nêu trên vẫn là quá nhẹ so với các tội ác tày trời của giáo hội Công Giáo đã phạm trong quá khứ đối với toàn thể các dân tộc Châu Mỹ La Tinh.
 
Năm 1917, Mexico có bản hiến pháp mới nhưng lập trường của họ đối với giáo hội Công Giáo vẫn giữ nguyên tinh thần của bản hiến pháp 1857.
 
Năm 1979 và trong thập niên 1990, Giáo Hoàng Jean Paul II đã nhiều lần đến thăm Mexico để làm hòa nhưng đã hoàn toàn thất bại. Mối quan hệ ngoại giao giữa MexicoVatican đến nay vẫn chưa được nối lại sau trên một thế kỷ hoàn toàn gián đoạn. Trong các nước Châu Mỹ La Tinh toàn tòng Công Giáo mà còn có những bản hiến pháp đặt các tu viện Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật như vậy, không lẽ tại Việt Nam, Công Giáo chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhoi chúng ta lại không thể có được một đạo luật cho toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo [Các giáo phái Tin Lành còn nguy hiểm hơn. Họ muốn biến các sắc dân thiểu số thành những khu vực tự trị.]
 
ra ngoài vòng pháp luật được hay sao? Tuy số tín đồ Công Giáo chỉ chiếm khoảng 8% dân số Việt Nam nhưng hệ thống tu sĩ Công Giáo là một tổ chức chặt chẽ nắm đa số các trường học tư thục từ cấp tiểu học đến đại học, chi phối đa số ghế quốc hội của thời đệ nhị Cộng Hòa, chi phối các giới chức trong chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở cấp lãnh đạo cao nhất. Hiện nay số giáo dân Việt Nam tại hải ngoại phần đông rất giàu có sẽ là nguồn tài trợ đắc lực cho mọi mưu toan lũng đoạn quốc gia của giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam
 
Đứng trước các hiểm họa đó, thiết tưởng một đạo luật đặt hệ thống tu sĩ Công Giáo Việt Nam ra ngoài vòng pháp luật là điều hết sức cần thiết để kịp thời đối phó với các xáo trộn chính trị có thể xảy ra khi đất nước ta bước vào giai đoạn phú cường.
 
Biện pháp này càng tỏ ra cần thiết hơn nữa vì có triệu chứng cho thấy các tôn giáo khác như một nhóm người của Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài cũng bắt chước Công Giáo củng cố hệ thống tu sĩ riêng của mình để lũng đoạn chính trị trong cái gọi là "Liên Tôn". Các ủy ban liên tôn sẽ là những sào huyệt để cho kẻ lưu manh chính trị núp đằng sau tha hồ phá rối an ninh quốc gia và vô hiệu hóa hoàn toàn mọi cố gắng của bất cứ chính phủ nào trong công cuộc kiến thiết quốc gia để mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân tộc.
 
Các bài học chống giáo hội Satan của các nước Âu Mỹ giúp các quốc gia khác một số kinh nghiệm về phương diện luật pháp và hành chánh.
 
Người Nhật trong thế kỷ 17 thấy biện pháp này không đủ hiệu năng nên họ đã treo cổ hoặc đóng đinh trên thập giá toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo bản địa và thừa sai ngoại quốc cùng một lúc với việc tiêu diệt trọn 37.000 giáo dân tại Nagasaki năm 1638. [Nên tránh bài học đau thương như Nhật Bản lúc bấy giờ.]
 
Chính nhờ biện pháp quyết liệt này, nước Nhật đã bảo toàn chủ quyền độc lập, bảo toàn danh dự quốc gia và văn hóa dân tộc. Đó chính là yếu tố đã đưa nước Nhật lên địa vị siêu cường ngày nay.