HỎA GIÁO BA TƯ LÀ TIỀN THÂN CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA
Khi nghiên cứu tôn giáo Tây Phương,
người ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tôn
giáo khác nhau nhưng đều thờ một vị Thiên
Chúa Duy Nhất (The Only God). Những tôn giáo này xuất
hiện tại nhiều nơi khác nhau và trong những
thời điểm khác nhau, có thể cách nhau nhiều
thế kỷ, nhưng những tôn giáo xuất hiện trước
đều có những ảnh hưởng không nhiều thì
ít đến giáo lý của những tôn giáo xuất hiện
sau. Do đó, khi nghiên cứu về đạo Hồi
chẳng hạn, chúng ta không thể bỏ qua ảnh hưởng
của Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo là những đạo Thiên Chúa đã
có trước nó nhiều thế kỷ.
Hỏa Giáo Ba Tư (Zoroastrianism) cũng là một đạo
Thiên Chúa xuất hiện từ một ngàn năm trước
Công Nguyên và bị Hồi Giáo tiêu diệt vào thế kỷ
10 sau Công Nguyên. Như vậy, Hỏa Giáo đã có trước
Ki Tô Giáo cả ngàn năm và có thể đã
xuất hiện trước hoặc cùng thời với Do
Thái Giáo. Qua hai ngàn năm tồn tại, Hỏa Giáo đã để
lại nhiều dấu ấn quan trọng trong cả ba đạo
Thiên Chúa là Do Thái, Ki Tô và Hồi. Vì Hỏa Giáo đã bị
suy tàn hơn 10 thế kỷ qua nên ít có ai quan tâm đến
nó, nhưng đối với các nhà chuyên
nghiên cứu về tôn giáo thì Hỏa Giáo vẫn có một
chỗ đứng quan trọng trong lịch sử các đạo
thờ Chúa. Việc tìm hiểu những điều
sơ lược về Hỏa Giáo Ba Tư thiết tưởng
cũng là một điều cần thiết và bổ ích để
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các đạo Chúa
hiện nay.
Ảnh
hưởng rõ rệt nhất của Hỏa Giáo Ba Tư đối
với các đạo thờ Chúa (Do Thái, Ki Tô, Hồi) là ý
niệm về Thiên Thần. Tất cả các tên thiên
thần quen thuộc như Mi-ca-e (Michel, Micheal) Gabriel, Raphael
và ý niệm về các thiên thần hộ mạng (guardian
angels) đều là những sản phẩm của Hỏa
Giáo Ba Tư. Những ý niệm về thiên thần xuất
hiện lần đầu tiên tại Ba Tư (nay là Iran) vào
khoảng năm 1000 TCN, khi nước này phát triển
một tôn giáo gọi là Zoroastrianism. Tôn giáo này mang tên của
vị sáng lập là Zarathrusta, phiên âm sang tiếng Hy Lạp
là Zoroaster. Các học giả tôn giáo hiện nay tin rằng
Zoroaster là một người có thật, sinh khoảng năm
1000 TCN hoặc sớm hơn và có thể cùng thời
với Moses tức khoảng 1250 TCN.
Có
một điều rõ rệt nhất là lịch sử Ba Tư
đã xác nhận đạo Hỏa Giáo đã từng là
quốc giáo của nước này từ thế kỷ 6 TCN
đến thế kỷ 7 sau
Công Nguyên, tức ròng rã trong 13 thế kỷ! Vào cuối thế kỷ 7, nước
Ba Tư bị quân Hồi Giáo Ả Rập xâm chiếm và
toàn dân bị cưỡng bách theo đạo
Hồi.
Người
Trung Quốc gọi đạo Zoroastrianism là Hỏa Giáo,
hoặc Thánh Hỏa Giáo, vì trong đền thờ
Zoroastrianism, người ta chỉ đốt một
ngọn lửa duy nhất đặt trên một cái khay
ở bàn thờ để mọi tín đồ tập trung
tư tưởng khi cầu nguyện Thượng Đế.
Vì vậy, người ta gọi đền thờ của
tôn giáo này là "Đền thờ lửa" (The Fire
Temple). Sự thật, Hỏa Giáo không thờ lửa và
cũng không thờ ai ngoài một Thiên Chúa Duy Nhất mà thôi.
Ngôn ngữ Ba Tư gọi vị Thiên Chúa Duy
Nhất là Ahura Mazda hoặc gọi là Đấng Toàn Năng
(Ormazd). Khi giáo chủ Zoroaster giảng đạo thì
cả nước Ba Tư lúc đó đang theo
Đa Thần Giáo (Paganism). Zoroaster giảng đạo
rất hấp dẫn nên được đa số
quần chúng tin theo, nhưng khi Zoroaster yêu cầu họ
chỉ thờ một Thiên Chúa duy nhất thì nhiều người
lại cảm thấy e ngại vì họ không thể
bỏ các vị thần của họ được.
Dần dần, các tín đồ Hỏa Giáo biến các
vị thần của Đa Thần Giáo thành các thiên
thần. Họ mượn tiếng Hy Lạp
ANGELUS, có nghĩa là "kẻ được Thiên Chúa sai đến"
(One who was sent by God) để gọi các vị thần này.
Về sau, Angelus được chuyển sang Anh Ngữ
thành Angels. Lâu dần, các thiên thần được
hiểu là các Thiên Sứ (Messengers) được Thiên Chúa
sai xuống thế gian để thực hiện một
sứ mạng nào đó. Trong khi đó, các ác thần của
Đa Thần Giáo đều biến thành quỉ (demons).
Người
Hỏa Giáo Ba Tư biến đổi các vị thần
của Đa Thần Giáo bằng cách thêm hai cánh cho các
vị thần mà họ mến chuộng như Vata, Vayu,
Mithra v.v... và thêm đuôi cho các thần
hung ác. Những biến đổi này đều
xảy ra khoảng thế kỷ 10 TCN. Đến
thế kỷ 6 TCN, Hỏa Giáo biến thành quốc giáo
của Ba Tư, những ý niệm về Thiên Thần và Ma
quỉ đã trở thành những tín điều của tôn
giáo này.
Năm
597 TCN, Ba Tư chiếm xứ Judah (tức
Do Thái) và năm 539 TCN Ba Tư chiếm toàn vùng Trung Đông
trong đó có Babylon, tức Iraq ngày nay.
Sau
nhiều thế kỷ Ba Tư cai trị Trung Đông, trong đó
có Do Thái và Babylon, Hỏa Giáo đã để lại
nhiều dấu ấn sâu đậm trên giáo lý của Do
Thái Giáo. Sau đó, qua trung gian của Do Thái Giáo, những
ảnh hưởng của Hỏa Giáo Ba Tư đã xâm
nhập Ki Tô Giáo và Hồi Giáo. Ngày nay, có
rất nhiều điều chúng ta tưởng như
những sản phẩm tự nhiên của Ki Tô Giáo hoặc
Hồi Giáo nhưng thực ra nó đã được sáng
tạo bởi Hỏa Giáo từ 1000 năm TCN.
Trước
đây, các sách trong Bộ Kinh Thánh Cựu Ước thường
được gán cho là của Maisen (Moses) thuộc thế
kỷ 13 TCN nhưng theo các học
giả chuyên về Thánh Kinh thì các giảo nghiệm khoa
học xác nhận hầu hết các sách đó đều được
viết trong khoảng thế kỷ 6-5 TCN. Do đó, Maisen
không thể là tác giả và chính nhân vật Maisen cũng không
có thật. Những phép lạ của Maisen như biến
cây gậy thành con rắn và hóa phép cho biển Đỏ
rẽ ra để dân Do Thái đi qua an
toàn v.v... chỉ là những chuyện
thần thoại. Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái
hoặc đã được sáng tác hoặc được
viết lại dưới thời Do Thái bị Ba Tư đô
hộ trong thế kỷ 6-5 TCN. Tác giả Cựu Ước
đã đem vào Kinh Thánh Do Thái những điều họ
hấp thụ từ Hỏa Giáo Ba Tư:
- Sách Sáng Thế Ký được viết trong
thế kỷ 6 TCN kể chuyện Adam và Eve bị Thiên
thần đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
- Sách Xuất Hành (Exodus 3:4) kể chuyện thiên
thần của Chúa hiện ra với Maisen trong ngọn
lửa.
Tất
cả những sách của đạo Do Thái được
viết trước thế kỷ 6 TCN đều không nói
gì đến thiên thần. Điều đó chứng
tỏ từ lúc nguyên thủy lập đạo, người
Do Thái không có một ý niệm nào về thiên thần cả.
Họ đã vay mượn ý niệm về thiên thần
từ Hỏa Giáo trong thời gian Do Thái lệ thuộc Ba Tư
vào các thế kỷ 6-5 TCN và sau đó đã truyền
lại cho hai tôn giáo hậu sinh là Ki Tô Giáo và Hồi Giáo.
Ngoài
những ý niệm về thiên thần và ma quỉ, Hỏa
Giáo còn đem lại cho Do Thái Giáo nhiều tư tưởng
thần học và nhiều giáo lý liên quan đến Ngày
Tận Thế và cuộc sống đời sau. Quan
niệm chủ yếu của Hỏa Giáo là trong vũ
trụ này, mọi thứ đều có lưỡng
cực. Đời sống tâm linh cũng có lưỡng
cực, đó là Thiện và Ác. Con người được
Thiên Chúa ban cho quyền tự do lựa chọn giữa
thiện và ác nên con người phải chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn của mình.
Hỏa Giáo chủ trương không thờ ảnh
tượng vì Thiên Chúa là đấng thiêng liêng vô hình. Mọi sự tạc tượng hoặc vẽ
hình của Ngài được coi như một sự
nhục mạ Thiên Chúa.
Các đạo Do Thái, Hồi Giáo và Tin Lành đều
chấp nhận quan niệm này của Hỏa Giáo. Riêng Công
Giáo, Anh Giáo và Chính Thống Giáo vẫn thờ ảnh tượng
mặc dầu việc này bị các tôn giáo khác lên án nghiêm khắc.
Nhiều học giả chuyên nghiên cứu tôn giáo
cho rằng Zoroaster là người đầu tiên đưa
ra thuyết Mạt Thế (Eschatology). Theo Zoroaster,
mọi vật trong vũ trụ cuối cùng sẽ bị
hủy diệt. Thế gian và loài người
sẽ có ngày tận cùng gọi là Ngày Tận Thế (The
Doomsday). Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ xét
xử công tội của tất cả mọi người,
do đó ngày Tận Thế còn được gọi là Ngày
Phán Xét Cuối Cùng (The Last Judgement).
Để có thể tham dự Phiên Xử Cuối
Cùng của Chúa thì mọi người chết đều được
sống lại. Zoroaster cho rằng khi
chết thì thân xác con nguời bị phân hủy thành tro
bụi nhưng linh hồn chìm đắm trong cõi vô thức
như trong lúc ngủ. Đến Ngày Phán Xét Cuối
Cùng, Thiên Chúa sẽ sai thiên thần thổi kèn (clarion) đánh
thức linh hồn và xác kẻ chết sống lại
hết. Tất cả mọi người đều
tập trung ở một nơi để nghe Chúa phán
xử.
Sau
khi được xét xử, kẻ thiện lành được
lên Thiên Đàng và kẻ ác bị đày xuống Hỏa
Ngục. Chính Thuyết Mạt Thế đã đưa đến
niềm tin vào Thiên Đàng và Hỏa Ngục.
Theo
các giáo sư chuyên nghiên cứu Thánh Kinh James L. Lewis và Everlyn
Dorothy Olivier, tác giả cuốn "Angels A to Z" thì các
cách Cựu Ước của Do Thái được viết
trong thế kỷ 3 TCN đã chịu ảnh hưởng
sâu đậm các học thuyết của Zoroaster, nhất
là Book of Daniel và Book of Enoch.
Từ
thế kỷ 2 TCN xuất hiện một giáo phái mới
của đạo Do Thái là giáo phái Essenes, trụ sở đặt
tại Qumran ở gần Biển Chết. Tu sĩ của
giáo phái này sống khổ hạnh, chuyên việc chữa
bệnh miễn phí cho kẻ nghèo và đi khắp nơi
trong nước Do Thái rao giảng về Ngày Tận
Thế. Một tu sĩ nổi tiếng của giáo phái này
là Gioan Baotixita với đặc điểm là lúc nào
cũng chỉ khoác trên người một tấm da
cừu. Rất nhiều người đến bờ sông
Jordan để nghe Gioan thuyết giảng và được
ông làm phép rửa tội tập thể, trong số đó có
Jesus. Lúc đó là vào khoảng năm 24 sau Công
Nguyên.
Ba năm
sau, Gioan Baotixita bị vua Herod bắt giam rồi chém đầu,
đệ tử của Gioan là Jesus đã thay thế
sư phụ đi giảng đạo. Lúc đó
vào khoảng năm 27 sau Công Nguyên. Sau đó, cũng đúng 3 năm,
Jesus bị đế quốc La Mã bắt và xử tử
về tội "âm mưu gây bạo loạn chống chính
quyền". Thực ra Gioan Baotixita và Jesus đều không
giảng thuyết điều gì khác với học
thuyết của Zoroaster:
Chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Hãy chuẩn
bị sẵn sàng để đón ngày tận thế đang
đến rất gần, gần như trong tầm tay (Doomsday is at hand). Xác loài người
sẽ sống lại để được xét xử
trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Nước Trời sẽ
đến với thế gian (Nước Cha Trị Đến)
Những người lành được lên thiên đàng và
kẻ ác phải xuống hỏa ngục...
Zoroaster đã rao giảng những điều này
tại Ba Tư một ngàn năm trước khi Jesus sinh
ra. Tới thế kỷ 6 TCN, đế quốc Ba Tư
cai trị Do Thái và toàn vùng Trung Đông đã
đem học thuyết của Zoroaster đến với
quần chúng nhân dân tại các nước này. Học
thuyết của Zoroaster đã hòa nhập vào đạo Do
Thái và trở nên một xương một thịt với đạo
này. Sáu trăm năm sau, tức đến đời Gioan
Baotixita và Jesus, người Do Thái không còn biết giáo lý nào
là của Do Thái và giáo lý nào là của Ba Tư nữa.
Các
giáo sư James Lewis và Everlyn Oliver chuyên nghiên cứu về tôn
giáo đã viết: "Ba Tư chiếm Do Thái năm 597 TCN
và cai trị nước này nhiều
thế kỷ.
Do
hậu quả của nhiều thế kỷ, Ba Tư cai
trị Trung Đông nên nguời Do Thái đã chịu ảnh
hưởng nhiều tư tưởng tôn giáo của
Zoroaster, đặc biệt là học thuyết về
sự đối kháng giữa thiện và ác, về thế
giới lưỡng cực trong đó có cuộc chiến đấu
giữa các thiên thần và ma quỉ. (As a result of several
centuries of Persian control of the Middle East, Jews were brought into contact
with Zoroastrian religious ideas, particularly Zoroaster's doctrine of the
struggle between good and evil, a dualistic world view that included war
between good and evil angles - Angels A to Z, James Lewis & Everlyn Oliver.
Visible Ink Press 1996, page 236)
Một trong những học thuyết của
Zoroaster có ảnh hưởng mạnh nhất đối
với Gioan Baotixita và Jesus là học thuyết về Ngày
Tận Thế. Jesus cũng như Gioan luôn luôn kêu gọi mọi người
chuẩn bị đón ngày tận thế sắp đến.
Ngày tận thế cũng là ngày Nước
Chúa Trị Đến (The Kingdom of
God Comes). Những kẻ gian ác như đế
quốc La Mã, bọn chính quyền bù nhìn Herod và bọn
thầy tu đạo đức giả ở đền
thánh Jerusalem sẽ
bị Chúa trừng phạt. Cuộc sống
thanh bình của toàn dân tự nhiên sẽ được
thực hiện. Nhưng thực tế đã
xác nhận những điều Gioan Baotixita và Jesus rao
giảng về ngày tận thế đều sai. Cho nên sau khi Jesus chết, cả Jesus lẫn sư
phụ đều bị gọi là "các tiên tri giả
về ngày tận thế" (False apocalyptic prophets).
Cả Jesus và đồng đạo Do Thái của ông ta đã
vâng theo Luật Mười Điều Răn
và các lời của những tiên tri thuở xưa một
cách máy móc mà không hề tự hỏi tại sao. Họ đã
tuân theo các lẽ đạo một cách
mù quáng và máy móc vì họ không sử dụng đến tri
thức của họ. Đó là nhận xét của giáo sư
Humphrey Carpenter, trong tác phẩm "Jesus" (Oxford
University Press, 2nd
edition 1983 trang cuối cùng: Jesus and his fellow Jews obeyed the
Commandments of the Law and the words of their prophets without questioning
why. Their obedience was blind and mechanical, for their intellect was not
involved in it).
Truyền
thuyết Ba Tư kể rằng: Một hôm Zoroaster leo lên núi cao thì gặp Thiên Chúa hiện ra trong
tiếng sét và tia chớp. Chúa trao cho ông một bộ sách
Luật, tiếng Ba Tư gọi là Zend Avesta. Tên Zoroaster
của ông là một tên ghép: Zoro có nghĩa là con (son) và aster
có nghĩa là vì sao. Vậy Zoroaster có nghĩa là
Con của một Vì Sao (Son of Star). Nhiều người
cho rằng Cựu Ước Do Thái được viết
sau thế kỷ 6 TCN đã mô phỏng truyền thuyết
về Zoroaster. Chẳng hạn như Maisen leo
lên núi Sinai được Chúa hiện ra trong bụi gai có
lửa cháy và Chúa trao cho Maisen bộ sách luật, tiếng Do
Thái gọi là Torah.
Chúng ta đã biết Hỏa Giáo là quốc giáo
của Ba Tư trong 13 thế kỷ (từ TK 6 TCN - TK 7 sau
Công Nguyên). Đế quốc Ba Tư
thống trị Trung Đông từ thế kỷ 6 đến
thế kỷ 4 TCN. Sau đó, từ năm 224 đến
634 sau Công Nguyên, đế quốc Ba Tư mang tên Sassanians
lại thống trị Trung Đông một lần nữa. Điều đó cho thấy Ba Tư đã gieo
rắc học thuyết của Zoroaster cùng khắp các nước
Ả Rập qua nhiều thế kỷ. Do đó, hầu như đại
đa số dân Ả Rập đều tin có Thiên Chúa, thiên đàng
hỏa ngục, thiên thần và nhất là tin có ngày tận
thế, ngày phán xét cuối cùng, mọi người chết
sẽ sống lại v.v...
Ảnh
hưởng của Hỏa Giáo hết sức lớn lao đối với các đạo Chúa (Do
Thái, Ki Tô, Hồi) vì chính nó đã tạo nên những điểm
tương đồng đặc thù của các đạo
này.
Vấn
đề được đặt ra: Ai là người đầu
tiên lập ra đạo Thiên Chúa (tức Độc
Thần Giáo)?
Truyền
thuyết Do Thái tin rằng Abraham là người đầu tiên lập ra đạo
Thiên Chúa (chỉ thờ Một Thiên Chúa).
Người quan trọng thứ hai là Maisen (Moses)
với bộ Kinh Thánh Torah (Sách Luật). Ngày nay, theo kết quả nghiên cứu của các nhà
khảo cổ thì cả Abraham lẫn Mai-sen (Moses) đều
là những nhân vật thần thoại. Vậy chỉ có Zoroaster có thể
tin được là người đã sáng lập đạo
Thiên Chúa từ thế kỷ 10 TCN vì ông ta là người có
thật đã rao giảng tại Ba Tư về một
Thiên Chúa Duy Nhất (The Only One God). Đó là
yếu tố quan trọng nhất của Độc
Thần Giáo (Monotheism).
Theo truyền thuyết Ba Tư thì Zoroaster bắt đầu
đi giảng đạo vào năm 30 tuổi (Một ngàn năm
sau, Jesus cũng bắt đầu giảng đạo
ở tuổi 30). Năm 42 tuổi, Zoroaster thuyết
phục Vua Ba Tư là Vishtaspa theo Hỏa
Giáo. Nhờ đó, Hỏa Giáo đã được
truyền bá khắp nước. Ông có vợ
và nhiều con. Năm 77 tuổi, ông bị một đạo
sĩ thuộc cấp giết chết.
Các đạo sĩ của Hỏa Giáo được
gọi là Magus (số nhiều Magi) thường là những
người trí thức, ham chuộng khoa học nhất là
thiên văn học. Họ làm công việc
thờ phượng nhưng không phải là những tu
sĩ vì họ đều có gia đình. Họ
thường lấy vợ là người có họ hàng
gần.
Các tín đồ Hỏa Giáo tránh việc chôn người
chết ở dưới đất hoặc thiêu xác người
chết trên đống củi. Phương
thức được Hỏa Giáo ưa chuộng nhất
là điểu táng bằng cách đưa xác người
chết lên tháp cao, gọi là "Tháp Yên Lặng" (Towers
of Silence) để cho các ác điểu như quạ,
diều hâu, kên kên đến rỉa thịt người
chết.
Các đạo
sĩ Hỏa Giáo Ba Tư nổi tiếng là những người
thông thái nên người Do Thái thường gọi họ là
"những người thông thái đến từ phương
Đông" (the wise men from the East). Vào năm Jesus sinh ra đời
có hiện tượng ba ngôi sao Mars, Saturn, Jupiter cùng nằm
trên một đường thẳng với trái đất.
Do đó, khi nhìn lên trời với mắt thường, người
ta thấy ba sao hội tụ trở thành một ngôi sao
rất lớn. Mọi người cho đó
là một "sao lạ". Cũng trong lúc đó,
tại Do Thái có ba đạo sĩ Hỏa Giáo Ba Tư
thấy hiện tượng sao lạ đã ra những nơi
trống trải để quan sát nghiên cứu.
Matthew và Luke chộp lấy chuyện này cho vào sách
Tân Ước để thêm mắm thêm muối với
dụng ý biến sự ra đời của Jesus thành
một biến cố giáng sinh thần thánh (divine birth).
Thế là hiện tuợng ba ngôi sao hội tụ trở
thành "Ngôi sao dẫn đường" và ba đạo
sĩ Ba Tư biến thành "Ba Vua Phương Đông"
đến kính thờ lạy Chúa Hài Đồng! Ngày nay,
trong các hang đá Noel không bao giờ thiếu hình ảnh
của "Ba Vua Phương Đông". Sự thật đó
chỉ là ba đạo sĩ Hỏa Giáo Ba Tư lo việc
nghiên cứu thiên văn nhằm vào lúc Jesus ra đời mà
thôi.
Hỏa
Giáo Ba Tư có những nghi lễ đơn giản và ít có
những điều huyền hoặc nhảm nhí so với
những nghi lễ của Công Giáo La Mã vì họ không có
những cái gọi là "phép bí tích". Trước
hết, Hỏa Giáo cũng như Do Thái Giáo và Hồi Giáo
hoặc Tin Lành không thờ ảnh tượng nên đền
thờ của họ gần như trống trơn.
Chỉ có một bàn thờ duy nhất, trên đó có hai cái
khay. Một cái khay có chân cao để bày 4 thứ:
-
Trái cây tượng trưng cho các loài thảo mộc.
- Rượu
nho tượng trưng cho con người.
-
Sữa (loài vật) tượng trưng cho mọi loài
vật.
- Nước
tượng trưng cho các đại dương.
Một cái khay có chân thấp dùng để đốt
một bó củi nhỏ và ít gỗ trầm hương.
Đối với Hỏa Giáo, ngọn lửa
tượng trưng cho Thiên Chúa, nguồn gốc của
Sự Sống và Sự Sáng.
Vào
cuối thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập chiếm
Ba Tư và mọi người dân xứ này bị buộc
phải bỏ đạo Hỏa Giáo để theo Hồi Giáo. Nhiều tín đồ
Hỏa Giáo phải giữ đạo trong bí mật. Đến
thế kỷ 9 và 10, chính quyền Hồi Giáo truy nã gắt
gao những người Hỏa Giáo còn sót lại khiến
cho các tín đồ Hỏa Giáo trung kiên phải bỏ
chạy ra nước ngoài. Nhiều người thuộc
giáo phái Manichaeanism của Hỏa Giáo trốn sang Trung
Quốc và gây nhiều ảnh hưởng quan trọng
tại nước này. Từ thế kỷ 9
người Trung Quốc đã biết đến tôn giáo
của Ba Tư và gọi tôn giáo này là Hỏa Giáo hoặc
Thánh Hỏa Giáo. Một số người Ba Tư
thuộc giáo phái Mithraism trốn sang Âu Châu, còn lại số
đông chạy sang Ấn Độ.
Mặc
dầu bị Hồi Giáo đàn áp qua nhiều thế
kỷ, hiện nay tại Ba Tư (tức Iran) vẫn còn
khoảng 200.000 tín đồ Hỏa Giáo. Con cháu của
những người Ba Tư tỵ nạn tôn giáo cách đây
hơn một ngàn năm vẫn còn tồn tại ở
Ấn Độ khoảng 150.000 người. Người
Ấn Độ gọi họ là người Parsi do đọc
trại tên nước Persia (Ba Tư)
mà ra.
Hỏa
Giáo Ba Tư coi như đã bị xóa tên khỏi danh sách các
tôn giáo trên thế giới hiện nay nhưng rất
nhiều giáo lý quan trọng của Hỏa Giáo Ba Tư như:
chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, tin có Thiên Thần và Ma
Quỉ, Thiên Đàng và Hỏa Ngục, Ngày tận thế,
mọi người chết sẽ sống lại để
hiện diện trong ngày Phán Xét Cuối Cùng... Tất cả
đều đã hòa nhập vào cốt tủy của đạo
Do Thái. Rồi từ đạo Do Thái, các đạo
hậu sinh như Ki Tô Giáo (Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Chính
Thống) và Hồi Giáo đã sao chép lại những giáo lý đó
mà họ tưởng là của các tiên tri Do Thái, nhưng
họ không hề biết rằng tác giả của
những giáo lý đó là một người Ba Tư tên là
Zoroaster. Các tiên tri Do Thái chỉ là những đứa
học trò đã học những bài học giáo lý của
Zoroaster trong những thế kỷ Do Thái bị Ba Tư đô
hộ, từ thế kỷ 6 đến 4 trước Công
Nguyên. Những giáo lý của Hỏa Giáo Ba Tư
đã tạo nên những yếu tố đồng nhất
tiêu biểu cho tất cả các đạo thờ Chúa
hiện nay. Nói cách khác, Hỏa Giáo Ba Tư vẫn
hiện diện và mãi mãi tồn tại trong linh hồn
của các đạo thờ Chúa.