CÁI NÔI CỦA CÁC ĐẠO CHÚA: VÙNG LƯỠI LIỀM PHÌ NHIÊU Ở CẬN ĐÔNG
(The Fertile Cressent of The Near East)
Theo kết quả của những công trình
khảo cổ từ đầu thế kỷ 19 đến
nay, cái nôi của nền văn
minh Tây Phương đã được xác nhận là vùng đồng
bằng rộng lớn ở miền Cận Đông. Đất đai của vùng này
rất phì nhiêu vì nó đã được tạo nên bởi đất
bồi từ những con sông dài gồm có sông Nil (Ai
Cập) sông Jordan (Palestine) sông Syria và nhất là hai dòng sông
Euphrate và Tigris đều xuất phát từ Tiểu Á để
cùng đổ vào vịnh Ba Tư.
Nếu ta tô màu các miền đồng bằng phì nhiêu
này trên bản đồ, ta sẽ thấy hiện lên
một hình vòng cung trông giống như một cái lưỡi
liềm chạy dài từ Ai Cập qua
Palestine,
Jerusalem,
Babylon
(tức
Iraq và Koweit
ngày nay) đến vịnh Ba tư. Các nhà khảo cổ gọi vùng ngày là Vùng Lưỡi
Liềm Phì Nhiêu Cận Đông (The Fertile Cressent of the
Near-East).
Để truy tìm các di vật của
nền văn minh tại vùng này, rất nhiều cuộc đào
xới qui mô của các nhà khoa học ngành khảo cổ
thuộc nhiều quốc tịch đã được
thực hiện trong hai thế kỷ qua. Tuy
nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ
19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ đã may
mắn phát giác ra những tấm đất sét phơi khô
(sun-baked clay tablets) có ghi những dấu hiệu kỳ
lạ.
Cho tới nay, người ta đã thu lượm được hàng chục
ngàn tấm đất sét phơi khô. Đa số các tấm
đất sét này có
cỡ trung bình khoảng 10cm x 20cm, một
số ít có hình lăng trụ
(prism) hoặc hình trục lăn (cyclinder). Sau nhiều chục năm nghiên
cứu kiên nhẫn, các nhà khảo cổ trên khắp
thế giới, nhất là tại các phân khoa khảo cổ
thuộc các trường Đại
Học Mỹ, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ. . . đã phát giác ra những tấm đất
sét khô đó chính là những "cuốn sách" của dân
tộc Sumerians, giống người đầu tiên định
cư tại
Babylon. Người
Hy Lạp gọi
Babylon là
Mesopotamia,
tức Lưỡng Hà Châu (Meso: In The
Middle, Potamia: Rivers). Các nhà khảo cổ đã lập ra một môn
học chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ của dân
tộc này gọi là Sumerology.
Những nỗ lực của các nhà khoa học
khảo cổ đã đưa đến kết quả là
hầu hết những "cuốn sách" của dân
tộc Sumer đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng.
Thoạt đầu, người Sumerians phát
minh ra loại chữ tượng hình (pictographic characters) nhưng
chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, loại
chữ này được thay thế bằng hệ
thống chữ viết ghi âm (phonetic system of writing) gồm
có 18 dấu hiệu tượng trưng cho 18 âm căn
bản. Các
dấu hiệu này phần lớn đều có hình tam giác,
góc nhọn, hình thoi nhọn đầu... trông giống như
những cái nêm cối. Do
đó các nhà khảo cổ gọi nó là Cuneiform, do căn
ngữ La tinh "Cunei" có nghĩa là cái nêm (wedge).
Tới giữa thế kỷ 20, nhiều
bộ tự điển và sách dạy văn phạm
về loại chữ này đã được xuất
bản khiến cho công cuộc dịch thuật cả
một kho tàng vĩ đại những sách cổ của
dân tộc Sumer trở nên dễ dàng hơn. Nhờ đó, cánh
cửa bí mật của lịch sử văn minh Tây phương
đã được mở rộng. Loại chữ
viết đầu tiên của dân tộc Sumer được phỏng định đã xuất
hiện vào năm 3150 TCN.
Đây là cái mốc quan trọng đánh
dấu lịch sử nhân loại. Tất cả
những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được
coi là Thời Tiền Sử (prehistoric).
Dò tìm các đấu tích do con người để
lại trên các vách đá, trong các hang động và khảo
nghiệm các vật dụng do con người chế
tạo bằng đá, bằng đồng, gỗ, đất
nung... Các nhà khảo cổ đã dần dần tìm hiểu được
lịch sử tiến hóa của loài người trong
moị sinh hoạt của đời sống cá nhân và
tập thể cho tới giới hạn thời gian 25 ngàn năm.
Để có một ý niệm khái quát về
thời tiền sử này, thiết tưởng cũng nên đề
cập qua về những cái mốc thời gian quan
trọng (viết theo tài liệu Archaeology in The Land of The
Bible của Avraham Negev - Shoken Books N.Y.1977) :
- Thời Đồ
Đá Cổ Đại (Old Stone Age) từ 25.000
-10.000 Trước Công Nguyên (TCN) , con người chỉ
biết săn bắt, hái lượm và sống trong hang động.
- Thời Đồ Đá Trung Đại
(Middle Stone Age) 10.000-7500 TCN, con người biết trồng
cấy, thuần hóa thú vật, chế tạo gạch và đồ
gốm. Một
số thành phố nhỏ xuất hiện với thành quách
vây quanh. Đáng chú ý là
thành phố
Jericho được
xây cất tại đồng bằng sông
Jordan ở
phía bắc Biển Chết (The Dead Sea) vào khoảng 8000 năm
TCN. Cho tới nay, người
ta tin rằng đây là thành phố đầu tiên trong
lịch sử nhân loại đánh dấu sự chuyển hướng
của con người từ cuộc sống lang thang du cư đến cuộc sống định
cư.
- Thời Đồ Đá Cận Đại (New
Stone Age) 7500-4000 TCN. Nhiều
làng mạc và thành phố xuất hiện, ngừời ta
biết trồng trọt nhiều loại hoa màu và cây ăn trái, nuôi nhiều loại gia
sức.
Tục
lệ thờ cúng xuất hiện.
- Thời Đồ Đồng (Chacolitic) 4000-3150 TCN. Đồng (copper) nguyên chất được
xử dụng để chế tạo dụng cụ. Con người biết xây
dựng nhà nhiều tầng và biết làm hầm (basement) để
trú ngụ.
- Thời Đồng Thau (Bronze Age) 3150-1200 TCN. Người ta biết pha thiếc vào đồng nguyên chất để
chế tạo hợp kim cứng hơn. Đồng thời
chữ viết được phát minh tại Sumer chấm dứt thời tiền sử. Chữ viết
của người Do Thái (Hebrew), mãi tới hơn 1000 năm
sau mới xuất hiện.
Cũng trong Thời Đồng Thau, những con đường
giao thông qua biển Địa Trung Hải và trên bộ đã
nối liền các thành phố trong vùng Lưỡi Liềm
Phì Nhiêu với nhau. Nền văn
minh của
Sumer
(tức
Babylon) đã lan rộng tới toàn vùng, nhất là tại
Ai Cập và Do Thái. Điều
đáng chú ý là cách đây 3400 năm (1400 TCN), ngôn ngữ
của dân tộc Sumer đã trở thành một ngôn ngữ
quốc tế cho vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu này. Các nhà khảo cổ đã tình
cờ tìm thấy nhiều tấm đất sét ghi chữ
hình nêm (cuneiform) của
Babylon tại
Tell Amarina trên bờ sông Nil (Ai Cập). Sau khi nghiên cứu
mới biết đó là những văn kiện ngoại
giao giữa vua thuộc dòng Kassite của
Babylon và Pharaoh Tutankhamen của Ai Cập.
Các tài liệu này cũng đề
cập tới những tranh chấp khiếu nại về
các vấn đề buôn bán, triều cống, việc hôn
nhân giữa hoàng gia hai nước với nhau. Đặc biệt là các tấm đất
sét này còn in dấu ấn (seal) được khắc theo hình vẽ do những trục lăn
tạo ra để thay cho chữ ký.
Tất cả các khám phá này cho thấy
Babylon là nguồn gốc văn hóa rất quan trọng đối
với Do Thái.
Các Kinh
Thánh Cựu Ước của Do Thái hầu như đã
chép lại hoặc mô phỏng từ các huyền thoại
hay từ các tôn giáo của
Babylon. Sở dĩ sau này ít ai biết
nguồn gốc đầu tiên của Kinh Thánh là Babylon vì
vào thế kỷ 4 TCN, Babylon đã bị hoàn toàn phá hủy
bởi một cơn lụt lớn do sự đổi
dòng đột ngột của sông Euphrate.
Babylon đã
bị chôn vùi dưới lớp cát sa
mạc từ 24 thế kỷ qua nên thế giới không còn
ai biết tới dân tộc
Sumer là tác
giả của các huyền thoại đó.
Sơ lược lịch
sử của dân tộc
Sumer
và địa danh
Babylon.
Theo sự tường thuật của nhà bác
học H. Mellersh, tác giả nhiều cuốn sách giá trị đặc
sắc về lịch sử và khảo cổ, trong đó có
Archaeological Section của bộ Great Encyclopedic Dictionary và cuốn Sumer and Babylon (NY Crowell
1965), xin tóm lược như sau:
Babylon là một thành phố cổ mà trước đó
nhiều thế kỷ nó được gọi là Sumer.
Babylon nằm
trên vùng châu thổ tả ngạn sông Euphrate và ở vị
trí gần nhất với sông
Tigris, ngang vĩ tuyến 30.
Hàng chục ngàn năm về trước, giống người
khôn ngoan như chúng ta hiện nay (homo
sapiens) đã biết chăn nuôi và trồng trọt. Khoảng 6000 năm
TCN, những người "homo sapiens" từ các vùng đồi
núi tràn xuống vùng châu thổ phì nhiêu định cư. Cuộc sống định
cư là nguồn gốc phát sinh nền văn minh. Danh từ Civilization do căn
ngữ Latin "Civis" có nghĩa là dân cư (citizen). Cuộc sống định
cư muốn được ổn định phải có
tổ chức và sự kiểm soát nên đã nảy sinh ra
chính quyền (government) và chấm dứt thời kỳ
bộ lạc.
Luật pháp và tục lệ phát
triển.
Hai loại người chiếm ưu thế trong
xã hội này là vua quan và tu sĩ. Hàng loạt đô thị mọc
lên trên miền châu thổ của hai con sông Euphrate và
Tigris là Larsa,
Lagash, Erech
Isin,
Ur và
Eridu.
Thành phố
Ur và Eridu nằm về phía
Nam của
Babylon và gần giáp biên giới Kuwati ngày nay.
Ur nổi
tiếng trong thế giới Kitô Giáo, thậm chí Giáo Hoàng
Jean Paul II cũng dự tính đi thăm thành phố này
trong năm 2000.
Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu
tiên của bộ Thánh Kinh Cựu Ước đã nói
tới thành phố
Ur như sau : "Thành phố
Ur là nơi
sinh trưởng của Terah.
Terah dẫn con trai là Abraham và con dâu (vợ Abraham)
là Sarah đi từ
UR đến miền đất
Canaan để
lập quốc Do Thái".
Sau này các nhà học giả nghiên cứu các huyền
thoại của dân
Sumer đã
phát giác ra là Thánh Kinh Cựu Ước đã chép lại
gần nguyên văn câu chuyện thần thoại ở
Babylon. Chuyện kể rằng
: Vị Thần Đất ở thành phố
Ur là
Thần Terah sinh ra nam thần
Abarama và nữ thần Sarai .
Sau lớn lên thần Abarama đã lấy em gái mình làm
vợ... giống như Kinh Thánh Cựu Ước như đã trích ở trên.
Vì lý do những chuyện thần thoại
của Babylon đã được truyền bá từ xa xưa
trong khắp vùng Cận đông và vùng Địa Trung
Hải nên tiếng La tinh từ xưa đã du nhập tên
vị thần Đất "TERAH" của Babylon
làm nguyên ngữ của chữ
"TERRA" nghĩa là Đất. Sau đó đến
lượt Pháp ngữ mượn tiếng Terra của
Latinh làm căn ngữ cho chữ "LA TERRE" cũng
nghĩa là Đất. Chữ
"Ur" theo tiếng
Sumer có
nghĩa là Ánh Sáng (Light) cũng tương tự như người
Pháp gọi
Paris là
"Kinh Thành Ánh Sáng" vậy.
Khám phá này cho thấy Abraham đã từng được
coi là tổ phụ của các dân tộc Do Thái và Ả
Rập, đồng thời cũng là ông tổ của các đạo
thờ Chúa (trong đó có Công Giáo Việt Nam) không phải là
nhân vật có thật mà chỉ là nhân vật thần
thoại của Babylon.
Người Babylon biết nung gạch và
chế ra hồ để xây nhiều ngôi đền theo hình tháp có đáy hình tròn rất
lớn. Họ xây những đường
đi bậc thang chung quanh tháp theo hình
xoắn ốc. Trên
đỉnh tháp là một ngôi đền nhỏ. Loại đền
thờ hình tháp này gọi là Ziggurat. Có nhiều tháp rất cao, tới
cả 100 mét.
Đây
là nguồn cảm hứng cho người Do Thái viết
chuyện tháp
Babel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Người Babylon tưởng
tượng cứ xây tháp thật cao sẽ có lúc đụng
tới trời. Họ tin
Babylon là cái
cổng của trời vì chữ
Babylon được
cấu tạo bởi hai chữ Bab là trời (god) và ili là cái cổng (gate). Babylon chính là Gate of God (Cổng trời).
Vào năm 1917,
nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh là Sir
Leonard Wooley tổ chức một cuộc khai quật thành
phố
Ur và ông rất ngạc nhiên đã khám phá ra nhiều
mồ chôn tập thể.
Ngôi mộ lớn nhất là mộ
nữ hoàng Shubad. Trong
mộ có một cái hang rộng với những bộ xương
người nằm ngay ngắn thành nhiều hàng với đầy
đủ dấu tích của quần áo, nữ trang, yên
ngựa và vũ khí. Bên dưới
cái hang này là một con đường dốc dẫn
xuống một cái hang hình vuông rộng lớn hơn,
tại đó có mộ của nữ hoàng. Dọc đường đi có
những bộ xương của một đàn bò (oxen) và chung quanh mộ nữ hoàng là những bộ
xương của các nhạc sĩ vì bên cạnh họ có
những cây đàn hạc (harps).
Tất cả đều nằm ngay
ngắn thứ tự chứng tỏ không hề có một
sự phản kháng nào.
Bên cạnh mỗi bộ xương có một cái tách
chứng tỏ họ đã uống thuốc ngủ
hoặc thuốc an thần để đi
vào kiếp sau với nữ hoàng một cách êm ái.
Thành phố Ur được xây cất vào
khoảng năm 5000 TCN ( đọc sách dẫn chiếu
tới đây, nơi trang 16-18, kẻ viết bài này
chợt liên tưởng đến vụ tự sát tập
thể của những người thuộc giáo phái
"Adventist" Cổng Trời ở San Diego cách đây
mấy năm.
Thật
không ngờ tâm linh của những người Kitô Giáo đương
thời của chúng ta chẳng khác gì tâm linh của
những người sơ khai (primitive) ở
Ur cách đây
trên 7000 năm!) .Từ thời đó, người
Babylon biết khai thác mỏ lấy đồng và
thiếc).
Họ
biết pha 10% thiếc vào đồng
nấu chảy để hòa với nhau thành hợp kim
gọi là thau để đúc thành các vật dụng
cứng như lưỡi cày, vũ khí, mũi tên, bánh xe.
Họ là những người đã chế
ra bánh xe và từ đó tạo ra
những toa xe (wagon) hoặc xe chở người do
ngựa hoặc bò kéo. Vàng được dùng làm nữ trang và thiếc được
dùng để làm các tượng thần.
Mỗi thành phố là một quốc gia đô
thị (giống như Quốc gia Đô thị Vatican =
Stato Citta del Vaticano) và thường hay có chiến tranh
với nhau.( giống như quân của
giáo hoàng kéo đến tấn công quốc gia đô thị
Florence, quê hương của nhà danh họa Michel Angelo vào
thế kỷ 16 tàn sát trên 3000 người dân tại đây).
Với những phát minh về bánh xe và
thau, họ đã làm cho ngành giao thông thương mại phát
triển. Với
lưỡi cày cứng, họ làm cho đồng ruộng được
cày sâu nên hoa màu tươi tốt hơn. Nhưng đồng
thời với những vũ khí cải tiến, chiến
tranh giữa họ với nhau cũng đẩm máu và tàn
phá ghê gớm hơn. Sau đây là một trích đọan
rút ra từ một trang báo National Geographic Magazine phù hợp
với nội dung của các phần đã trình bày :
(An awsome record of human achievement defines the history
of Mesopotamia - the Land between the rivers. Traditional birthplace of man for Jews, Christians and Muslim.
It provided seed and soil for nearly all that is good and evil in modern life,
litterature, medicine and science, despotism and warfare. Unprotected by
natural barrier at the mercy of unpredictable rivers, the region endured and
profited from legion of invaders and migrants whose blood mingles with that
today
Iraq.
Babylon had been
the capital more than a thousand years when it was shacked by the Assyrians in
689 B.C., under Nebuchadnezza, it rose phoenix-like to
become the greatest city in the world. Traditional birthplace of Abraham, the
Royal City of Ur was abandoned in the fourth century B.C. after the Euphrate
changed course , leaving
UR enclosed
by desert. Artifacts excavated at Eridu date from before 5,000 B.C. fixing it
as
Mesopotamia 's oldest city.
IRAQ' S ANCIENT HERITAGE.
National Geographic Magazine May- 1991)
Trong số các phát minh của dân tộc
Sumer, sự phát minh ra chữ viết cuneiform phải được
kể là quan trọng hơn cả. Nhờ đó nhà vua đã có
thể ban ra các chỉ thị cho các viên chức, quân lính và
thần dân. Các tu sĩ làm ra
các bài kinh, các câu thơ, các huyền thoại lưu
truyền khắp dân gian và lan sang các nước
lân cận. Họ không thể
tưởng tượng được những huyền
thoại do họ sáng tác đã làm thay đổi bộ
mặt thế giới một các sâu rộng cho tới ngày
nay.
Thí dụ như
chuyện Noah đóng tàu lớn để tránh nạn
lụt (người Sumer gọi Noah là Nipishtim).
Huyền thoại về Đấng Cứu Thế
Tammuz (Tammuz, The Savior)
người Do Thái dịch ra là Messiah từ thiên niên kỷ thứ hai
TCN. Năm 332 TCN, Alexander the
Great chinh phục toàn vùng Cận Đông, trong đó có Do Thái
và Babylon mở đầu thời kỳ truyền bá văn
hóa Hy Lạp (Hellenistic Period) kéo dài 180 năm từ 332 đến
152 TCN. Hầu
hết mọi người Do Thái trí thức đều nói
và viết tiếng Hy Lạp. Do đó,toàn
bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã được
dịch sang tiếng Hy Lạp trong thời kỳ này. Sau này, từ giữa đến cuối
thế kỷ I sau Công Nguyên, các Kinh Thánh Tân Ước đều
được người Do Thái viết bằng tiếng
Hy Lạp, mặc dù Chúa Jesus và các tông đồ đều
không biết tiếng Hy Lạp và cũng không biết
tiếng Hebrew mà chỉ nói tiếng Aramic là ngôn ngữ
của người Syria. Người ta dịch chữ Messiah (Đấng
Cứu Thế) ra tiếng Hy Lạp là Christos. Anh và Pháp phiên âm thành Christ. Các cha cố Tây Ban Nha sang Việt
Nam
truyền đạo gọi Chúa Cứu Thế là Cristo. Công Giáo Việt
Nam phiên âm thành Ki-ri-xi-tô.
Sau này giáo
hội Công Giáo Việt Nam đã bỏ không xài danh từ Ki-ri-xi-tô nữa vì nghe
nó có vẻ vừa Tây vừa dài quá nên rút gọn lại
thành "Ki-tô".
Xin đừng lầm "Ki Tô" phiên
âm từ tiếng Tây Ban Nha CRISTO với "Gia-tô" là
tiếng người Hoa phiên âm tên của JESUS. Nguời Hoa viết là "Gia Tô" nhưng phát âm
thành "Giê Su" vì các vần "T" trong tiếng
Việt người Hoa phát âm thành "S". Thí du: Tam
Đa thành Samtor, Tam nguyên thành sám mắn, Đại tiểu
thành Tài-sỉu, Tây Cống thành Sài Gòn v. v...
Trên
thế giới này chỉ có Đạo Kitô tức
Christianity chứ không có đạo nào gọi là Đạo
Giê Su hay đạo Gia Tô (never Religion of Jesus) như người
Việt mình ngày xưa thường gọi sai.
Kitô là huyền
thoại xuất phát từ Babylon đã có từ nhiều ngàn năm trước Công
Nguyên. Còn Jesus là
một gã thợ mộc Do Thái, thất học mù chữ,
sinh khoảng năm thứ 4 TCN, cao 6 ft, nặng 12 stones rưỡi ( đơn vị đo lường
thời cổ của Do Thái ) tương đương 1
mét 82 và 79 kí lô. Jesus đã được thần thánh hóa
bằng huyền thoại Kitô của
Babylon (Jesus
was Christed to become God!) để trở thành Ngôi Lời
Nhập Thể hay
Nhập Tràng cho những kẻ ngu thờ phượng.
Khi Alexander the Great chiếm Cận Đông
thì
Babylon đã bị trận lụt lớn phá hủy được
ít lâu.
Alexander
muốn phục hồi nền văn minh rực rỡ
của
Babylon và có ý chọn
Babylon làm thủ đô của đế quốc Hy Lạp. Ý định này chưa thành thì ông
đã qua đời (Sumer and Babylon, H. Mellersh, Crowell NY 1965,
P.80 )
Người Hy lạp rất khâm
phục các vườn treo ở Babylon và coi những vườn này là một trong bảy
kỳ quan của thế giới cổ. Tuy những vườn này được
gọi là vườn treo (hanging gardens) nhưng thực ra
không phải là treo mà đã được xây dựng ở
trên sân thượng rất rộng của các lâu đài đồ
sộ như hoàng cung hay trên nóc các đền thờ
lớn, khiến cho từ xa nhìn lên mọi người đều
có cảm tưởng như các vườn đó được
treo lơ lửng trên trời!
Người Babylon gọi xứ sở
của họ là Khu Vườn Ở Phía Đông (tiếng
Sumer là Gan Eden) Người Do Thái ví thiên đàng như Vườn
Địa Đàng của Babylon.
Tôn
giáo của dân Sumer coi
Babylon là bản sao của Thiên đàng (a replica of Heaven). Người
Sumer ngụ
ý thành phố của họ là Ánh Sáng (cũng như
Ur là Ánh
Sáng): Đến với
Babylon là đi
tìm ánh sáng mặt trời ở phương Đông! Do nguồn gốc vườn Địa
Đàng (Gan-Eden / Garden of Eden) của Babylon, những tu sĩ
Do Thái viết Kinh Cựu Ước đã phịa ra
chuyện Adong Evà được Chúa tạo ra tại vườn
Địa Đàng là tổ tiên loài người và biến
câu chuyện thần thoại về việc Adong Evà ăn
trái cấm thành Tội Tổ Tông (The Original Sin). Vào thế kỷ thứ 4, nhà
thần học số một của Kitô Giáo là Augustin đã
dựa vào chuyện Vườn Địa Đàng trong
Cựu Ước viết sách nguyền rủa phụ
nữ: "Mỗi phụ
nữ là một Eva, các người là cái cổng của
quỉ dữ. Các người
là kẻ đào ngũ đầu tiên
khỏi luật của Chúa.
Các người đã tàn phá đàn ông - hình ảnh của Chúa. Chỉ vì cái tội đào ngũ
của các người mà Con của Thiên Chúa phải
chết" (Do you know that you are each an Eve. You are the Devil's gateaway. You are the first deserter of divine
law. You so carelessly destroyed man -
god's image. On account of your
desertion, even The Son of God had to die - "On Female Dress". Augustin). Từ lý thuyết của
Augustin,
Vatican đã đẻ
ra luật nam tu sĩ độc thân, luật không cho
phụ nữ làm linh mục, óc kỳ thị phụ nữ
và coi họ như cái bẫy cám dỗ đàn ông phạm
tội..
Augustin cho rằng mọi người
đều mắc tội tổ tông truyền kiếp vì đã
sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ. Đức Mẹ Maria không giao
cấu với Chúa Thánh Thần và sinh ra Chúa Jesus mà vẫn
còn trinh nên chỉ có Chúa Jesus và Đức Mẹ Maria là không
bị nhiễm tội tổ tông. Augustin đã vin vào
thần thoại Gan Eden của Babylon để xây dựng
nên giáo lý "Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội"
- Thánh Bổn mạng của Địa Phận Bùi Chu yêu
quý !.
Augustin là người
Algérie, là cha đẻ của giáo hội Kitô nguyên thủy
và cũng là người sáng lập hệ tư tưởng
Tây phương.
Tư
tưởng của ông nhiễm nặng tư tưởng
của
Babylon qua trung gian Cựu Ước Do Thái. Nền văn minh
Babylon đã lan ra khắp Tây phương do sự bành trướng
của Kitô Giáo trong 2000 năm qua.
Trong 6 thế kỷ đầu Công Nguyên, toàn
vùng Bắc Phi Ai Cập, các nước Cận Đông cho
tới Thổ Nhĩ Kỳ thuộc Âu Châu đều
nằm trong vùng ảnh hưởng của Kitô Giáo. Hồi Giáo bắt đầu
bành trướng vào đầu thế kỷ thứ 7. Năm 630 họ
chiếm
Jerusalem. Đến
giữa thế kỷ 8, đế quốc Hồi Giáo
chiếm toàn vẹn vùng Bắc Phi, Ai Cập, các nước
từ vùng Cận Đông đến Thổ Nhĩ Kỳ và
biến các nước Kitô giáo này thành các quốc gia Hồi
Giáo. Nhưng dù là Kitô Giáo hay
Hồi Giáo, tất cả cũng đều cùng một
nguồn gốc văn hóa của Do Thái vốn là hậu
duệ của
Babylon.
Babylon ngày nay
chỉ còn là một bãi sa mạc hoang vu đầy
những gò đống và hang lỗ chằng chịt do
sự khai quật của các nhà khảo cổ và do dân quanh
vùng đào lấy gạch về xây nhà riêng. Người ta đã cố
gắng làm nhiều con sông đào để dẫn nước
vào vùng sa mạc này nhưng vô ích, nó
vĩnh viễn không bao giờ trở lại thành "Vùng Lưỡi
Liềm Phì Nhiêu" như xưa.
Con cháu của Mahomét đã xây cất một thủ đô
khác là
Baghdad cách đống
tro tàn
Babylon
khoảng 80 dặm về phía Bắc và ở phía bên kia của Lưỡng Hà Châu.
Tìm hiểu thêm về những phát minh đầu
tiên của dân tộc
Sumer:
Nhà bác học của ngành khảo cổ người
Mỹ Sumuel Noah Kramer, sinh vào cuối thế kỷ 19, đặc
biệt chú ý đến văn hóa Babylon và bỏ ra gần
cả cuộc đời nghiên cứu chữ viết
cuneiform của người Sumerian.
Ông trở thành giáo sư chuyên dạy
về môn khảo cổ học tại Đại Học
Pennsylvania. Ông
và các đồng sự hoàn thành bộ tự điển 18
tập về ngôn ngữ Sumerian. Năm 1956, giáo sư Kramer cho
xuất bản lần đầu tác phẩm "History
begins at
Sumer". Từ đó cho đến 1980,
với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan văn
hóa Hoa Kỳ, ông đã đi đến nhiều bảo tàng
viện trên thế giới sao chép các di vật thâu lượm
được ở Babylon để nghiên cứu và bổ
túc cho tác phẩm của ông.
Tới nay, tác phẩm History begins at
Sumer đã được
tu chính và tái bản lần thứ tư (1994). Theo tác giả thì người ta có
thể liệt kê tới 39 phát minh đầu tiên của
nhân loại là do dân tộc Sumer, đại lược như
sau:
Ngoài những phát minh nổi tiếng trong
thế giới cổ mà người ta biết xuất phát
từ
Babylon là bánh xe, vòng tròn có 360 độ, một giờ có
60 phút, hợp kim đồng pha thiếc, dẫn thủy
nhập điền... Dân tộc
Sumer còn là
tác giả của nhiều sản phẩm văn hóa và
những phát kiến đầu tiên thuộc nhiều lãnh
vực:
-Về giáo dục, người
Sumer đã
mở trường dạy học sau khi đã phát minh ra
chữ viết vào cuối thiên niên kỷ thứ tư trước
Công Nguyên (khoảng 3150 TCN). Họ gọi trường học là "nhà
của những tấm đất sét" (clay tablet house)
gọi thầy giáo là cha (school father) học trò là con (school
son) phụ giảng là anh lớn (big brother). Học trò bị phạt kỷ
luật bằng roi hay bằng gậy. Năm 1934, một
nhà khảo cổ Pháp đã khai quật tại thành phố
Mari một ngôi trường học có nhiều hàng ghế
bằng đất sét, mỗi ghế ngồi được
một, hai hoặc ba người. Tới nay, người
ta đã phát giác thêm nhiều ngôi trường học
tại
Nippur, Snippa và
UR.
Những
di vật đáng chú ý là bộ tự điển Sumer - Akkadian (ngôn ngữ của giống dân Ả Rập
lai Do Thái). Sách lịch sử kể chuyện các đời
vua tại
UR và Nanshe từ thượng cổ đến vua Sargon
(2600 TCN).
Năm 1895, các nhà khảo cổ tìm
thấy hai cột hình trụ lớn bằng đất
sét. Hai
cột này được đưa về trường Đại
Học Yale để nghiên cứu. Sau hơn hai mươi
năm làm việc cần mẫn của những người
trí thức quyết tâm phụng sự chân lý, công cuộc
nghiên cứu về dịch thuật mới hoàn tất. Theo giáo sư François
Thureau Dargin thì hai cột trụ này là hai cuốn sử ghi
chép các trận chiến và nhiều sử liệu về các
vua chúa tướng lãnh dưới triều đại Entemena
(3000 TCN).
Ngoài
ra, người chép sử cũng mô tả các sinh hoạt
kinh tế xã hội trong đời sống dân chúng, trong đó
có cả việc nhà vua đặc miễn cho dân
Lagash không phải đóng thuế trong 30 năm. Ta có thể coi đây là những
cuốn sử đầu tiên của loài người.
Năm 1951, các nhà khảo cổ tìm thấy 19
tấm đất sét tại Nippur, được xác định
niên đại vào khoảng 2400 TCN.
Đáng chú ý là những tấm đất sét này đã
ghi lại tư tưởng của dân tộc
Sumer nghĩ
về con người và cuộc đời. Theo họ, con người
đã được sinh ra từ đất sét và được
sinh ra để phục vụ các vị thần (con người
phải phục vụ tôn giáo chứ không phải tôn giáo
phục vụ con người). (Sumerian thinkers firmly
convinced that man was fashioned of clay and created for one purpose only: to serve gods by supplying them with food,
drink or shelter so that they might have leisure for their divine activities -
sách dẫn chiếu tr. 101).
Quan niệm này đã ăn sâu vào đạo
Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tín đồ các đạo này đều
tin rằng Thiên Chúa đã tạo ra con người từ đất
sét để con người thờ phụng kính mến
Chúa trên hết mọi sự.
Mọi người Tây phương chịu ảnh hưởng
của các đạo này tới nay vẫn tin rằng con người
đã được sinh ra từ đất sét. Có lẽ từ quan niệm
thiếu nhân bản đó, người Tây phương
cũng như những tín đồ Ki Tô Giáo đã coi
rẻ con người và đã gây nhiều cuộc thánh
chiến đẫm máu để bảo vệ tôn giáo
bất chính của mình .
(Riêng một nhận định này cũng đủ
cho ta thấy giá trị nhân bản cao đẹp của tam
giáo Phật Khổng Lão đã ăn sâu
vào tâm thức Việt Tộc đầy tình người
chúng ta. Công Giáo đã xâm
nhập nước ta hơn bốn trăm năm, nhưng
rõ ràng là tôn giáo phi nhân tính này không thể bắt rễ sâu
trong lòng dân tộc Việt
Nam. Nó chỉ có thể
xâm nhập và phát triển trên đất nước ta
bằng bạo lực của bọn xâm lược
hoặc bằng những thủ đoạn lừa gạt
gian manh đối với những người kém hiểu
biết mà thôi. Cho đến
muôn đời sẽ chẳng bao giờ có được
một thứ văn hóa hòa đồng "Tứ Giáo Đồng
Nguyên" như ước mong của những kẻ lãnh đạo
cái thứ "Đạo Vô Đạo" này. Công Giáo La Mã chỉ
là một tà đạo đã được sinh ra để
loài người nguyền rủa cho đến muôn đời.
Tham vọng của mọi kẻ lưu manh
chính trị muốn dùng Công Giáo La Mã để xâm phạm
chủ quyền, sinh mạng và danh dự Việt Nam sẽ mãi mãi chỉ là một ảo tưởng
của những kẻ mơ ngủ giữa ban ngày.
Trước khi tìm ra những di vật
tại
Babylon, mọi người vẫn tin rằng Sách Cách Ngôn
(Biblical Books of Proberb) trong kinh Thánh Cựu Ước Do Thái
là sách cách ngôn cổ nhất. Sau đó,
nhiều sách cách ngôn của Ai Cập đã được
tìm ra và được xác nhận niên đại trước
sách cách ngôn của bộ Kinh Thánh Cựu Ước
nhiều thế kỷ.
Tới khi các tấm đất sét ghi cách ngôn
của
Sumer được phát giác, mọi người mới
vỡ lẽ ra là các sách cách ngôn nói trên đều là vay mượn
từ
Babylon. Năm 1934, giáo
sư Edward Chierra thuộc đại học Pensylvania công
bố bản dịch các cách ngôn từ các tấm đất
sét thu lượm tại
Nippur được
xác định niên đại là thế kỷ 18 TCN.
Năm 1937, hàng trăm
bản đất sét ghi cách ngôn Sumer lưu trữ tại Bảo tàng viện Istambul
(Thổ Nhĩ Kỳ) được nhiều nhà ngôn
ngữ học Sumer (Sumerologists) nghiên cứu, các bản dịch được
công bố trong các năm 1951-1952 tạo thành một bộ sưu
tập khổng lồ về các cách ngôn cổ của
Babylon. Ta có thể đơn
cử một số câu cách ngôn tiêu biểu của dân
tộc
Sumer :
- Người nghèo chết sướng hơn
sống vì khi có muối thì không có bánh mì, khi có bánh mì lại
không có muối (The poor man is better dead than alive. If he has bread, he has no salt. If he has salt, he has no bread)
- Tiêu xài hoang phí ta sẽ chết, biết
tiết kiệm sẽ sống lâu. (We are doomed to die, let us
spend. We will live long, let us save).
- Giấc ngủ của người siêng năng
làm việc rất ngon lành. (The sleep of a labouring man is sweet).
- Càng có nhiều tiền của càng lo nghĩ
nhiều. (Who multiplies possession
multiphies worry).
Nhiều tấm đất sét khác
kể chuyện ngụ ngôn tương tự như
chuyện ngụ ngôn của Aesop (Aesopic Fables). Thí dụ như
chuyện cãi nhau giữa Mùa Đông và Mùa Hè. Cuộc tranh luận giữa
hạt lúa, cây cối và cánh đồng... Qua các chuyện
ngụ ngôn này, các nhà khảo cổ nhận thấy người
Sumerians đã biết sắp xếp mọi vật thành
từng cặp đối lập (tương tự như
dịch lý)
nhất là trong lãnh vực nông nghiệp: Chim đối với cá, mùa hè đối
với mùa đông, nhà nông đối với người chăn
cừu (văn hóa nông nghiệp đối lập với văn
hóa du mục), cái cuốc đối với cái cày, cây
lớn đối với cây sậy... (sách
dẫn chiếu tr. 132-133). Điều
thích thú hơn nữa là các nhà khảo cổ phát giác
những chuyện kể trong các tấm đất sét này có
nhiều chuyện tương tự như trong sách Sáng
Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu tiên của
bộ Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái. Chẳng hạn như chuyện
phân rẽ giữa trời và đất, chuyện con người
được nặn ra từ đất sét, chuyện anh
em giết nhau (như chuyện Cain và Abel trong Cựu Ước) quan niệm
về Nước Chúa (Kingdom of
God).
Chuyện thần thoại "Enki và
Ninhursag" là một chuyện thơ dài 278 dòng được
ghi trên tấm đất sét có 6 cột, hiện lưu
trữ tại Bảo tàng Viện Đại Học
Pennsylvania (bản sao lưu tại BTV Louvre-Paris) được
công bố năm 1945 trong No.1 Bulleting of the American of Oriental
Research.
Chuyện kể rằng: Dilmun là đất của sự
sống (land of the living) rất sạch và sáng, ở đó
không có bệnh tật và sự chết. Đó là khu vườn
thiêng liêng (a divine garden của hai người Enki và Ninhursag. Enki là thủy
thần (water god), Ninhursag là thổ thần (earth god). Họ là cha mẹ đầu
tiên của dân tộc Sumer.
Trong khu vườn thiêng này, tám vị
thần ở trên trời trồng 8 cây đặc biệt
và cấm không ai được phép ăn. Một hôm, do sự cám dỗ
của một vị thần hai mặt (two-face god) là Isimud,
Enki đã vi phạm luật trời ăn luôn cả tám cây
cấm. Sau đó,
Enki bị đau tám bộ phận trong người. Vợ chàng là Ninhursag
tức giận, nguyền rủa chồng sẽ phải
chết vì tội vi phạm luật của các vị
thần và nàng bỏ nhà ra đi. Một con chồn đến
gặp Enki và hứa sẽ đi tìm Ninhursag về cho
chàng. Con chồn tìm được
Ninhursag và dẫn nàng về nhà đoàn tụ lại với
chồng. Nàng Ninhurag ngồi bên cạnh
chồng khấn vái tám vị thần để chữa tám
bộ phận của chồng bị đau. Vị thần
chữa xương sườn đau có tên là Ninti. Theo ngôn ngữ
Sumer chữ Nin là bà (lady), chữ ti là xương sườn
(rib) và cũng có nghĩa là sinh sản. Do đó, Ninti vừa có nghĩa là
"lady of the Rib" và cũng có nghĩa là "The Lady who
makes life".
Người Do Thái vay mượn chuyện
này để sáng tác chuyện Adam và Eva ăn
trái cấm trong vườn địa đàng và chuyện
Thiên Chúa lấy xương sườn của Adam để
tạo ra Eva.
Trong
ngôn ngữ
Sumer, tiếng "ti" vừa có nghĩa là xương
sườn vừa có nghĩa là sinh sản nhưng trong ngôn
ngữ Hebrew, tiếng 'ti" có nghĩa là xương sườn
và tiếng có nghĩa là sinh sản là hai tiếng biệt
lập. Tuy nhiên, ý
nghĩa của chuyện huyền thoại
Sumer
nhấn mạnh đến điểm: Trước khi vi phạm luật cấm của các vị
thần, con người sống hạnh phúc không biết đau
khổ, bệnh tật và không phải chết (trường
thọ bất tử). Chính
sự vi phạm luật trời của
hai vị tổ tiên đã khiến tất cả con cháu muôn
đời phải đau khổ, phải chết và đặc
biệt là các bà mẹ phải đau đớn khi sinh con.
(Sách dẫn chiếu tr. 141- 147).
Ngoài những sáng kiến đầu tiên
về giáo dục, toán học và nhất là về tôn giáo tín
ngưỡng, người
Sumer là dân
tộc đầu tiên đã sáng chế ra lưỡi cày kim loại đúc bằng hợp kim đồng
pha thiếc (10%). Họ
cũng là những người đầu tiên lập
hồ nuôi cá kiểng trong nhà, tìm cách trồng rau, trái hoa màu
dưới bóng râm của các cây cọ (Shade tree gardening) để
tránh ánh nắng chói chang và các cơn bão cát sa
mạc.
Về chính trị và luật pháp, họ đã
biết cách tổ chức các định chế dân chủ
tương tự như lưỡng viện quốc
hội: Những tấm đất
sét có niên đại 3000 TCN ghi cuộc tranh luận trong buổi họp của
những người đàn ông võ trang quyết định
việc nên hòa hay chiến (tương tự như war
congress). Quyết
định của buổi họp này phải được
đưa lên Hội đồng của các niên trưởng,
trong đó ý kiến của vua là tối hậu, tương
tự như Thượng viện (Senate). Họ tổ chức việc xét
xử tội phạm thiếu nhi riêng
rẽ với việc xét xử người lớn.
Qua trên một thế kỷ sưu tầm,
hiện nay các nhà khảo cổ đã thâu lượm được
nhiều chục ngàn tấm đất sét của dân
tộc Sumer, trong đó có đủ loại văn kiện
luật pháp như khế ước, di chúc, biên lai,
quyết định của tòa án.
Trong đó có nhiều bản ghi chép cùng một
chuyện phạm pháp và quyết định của tòa án đã được thâu lượm
từ nhiều địa điểm khác nhau. Người ta ước đoán đó
có thể là những án lệ đầu
tiên được phổ biến trong giới luật pháp
để làm khuôn mẫu cho các việc xét xử tội
phạm trong hệ thống luật pháp quốc gia.
Babylon là nguồn gốc của các tôn giáo xây dựng giáo lý
trên huyền thoại. Các đạo thờ Chúa
đều là những tôn giáo xây dựng giáo lý trên căn
bản là những huyền thoại của
Babylon. Riêng Công Giáo La Mã là đạo đã được
sao chép gần như nguyên bản tôn giáo của
Babylon. Vì vậy, Hội Nghiên Cứu
Thánh Kinh Ralph Woodrow
California đã rất hữu lý gọi Công Giáo La Mã là "THE
MODERN BABYLON MYSTERY RELIGION".
Phúc Âm Khải Huyền
của Thánh Gioan có lời chép bằng chữ lớn rằng : " TÔN GIÁO HUYỀN THOẠI BABYLON
VĨ ĐẠI LÀ MẸ CỦA LŨ ĐIẾM THỐI
VÀ CỦA NHỮNG CHUYỆN KHỦNG KHIẾP TRÊN TRÁI ĐẤT
NÀY " ( MYSTERY BABYLON THE GREAT, MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF
THE EARTH - Revelation 17: 1 - 6 ).