Ai cũng biết các sách Kinh Thánh (Books of the
Bible) là cái gốc của các đạo độc-thần
và được các tín đồ coi là cuốn sách cao quý
nhất trên hết các sách ở trên đời, nhưng
trong thực tế hầu như tuyệt đại đa
số giáo dân không đọc Kinh Thánh bao giờ. Các sách Kinh
Thánh thường rất dày như những cuốn tự
điển, in trên giấy mỏng đặc biệt
(biblical paper) chữ in nhỏ với lối văn dịch
nhiều chỗ ngô nghê và khó hiểu. Trước đây,
sách Kinh Thánh thường được những
người Công Giáo lớn tuổi gọi là Sách Sấm
Truyền, ngày nay người ta thường gọi Kinh
Thánh là Sách Phúc Âm hay sách Tin Mừng (do tiếng Hy Lạp
Gospels có nghĩa là Good News). Thông thường vào mỗi
buổi lễ ngày Chủ nhật, các cha cố
thường trích một đoạn nào đó trong Thánh Kinh
để thuyết giảng cho giáo dân nghe sau khi đã
chọn lọc và nghiên cứu kỹ càng. Do đó giáo dân có ảo
tưởng Thánh Kinh gồm toàn những lời hay ý
đẹp cả. Trong các lễ ngày Chủ nhật
hiện nay, một vài giáo dân được đề
cử để đọc một vài đoạn Thánh Kinh
nào đó. Sau khi đoạn sách được đọc
xong, người đọc nâng cao sách Thánh Kinh lên rồi
kính cẩn nói: "Đó là Lời Chúa" và mọi
người trong nhà thờ cùng đáp: "Tạ ơn
Chúa!".
Sự thật trong cái gọi là Thánh Kinh không
thiếu gì những điều nhảm nhí và vô luân.
Ngược lại, có nhiều điều rất hợp
lý và bổ ích nhưng các cha cố đã cố tình tránh né
không dám mang ra giảng cho giáo dân nghe vì những điều
này có hại cho nghề nghiệp của họ. Chẳng
hạn như lời của Jesus dạy về sự bình
đẳng: "Mỗi người trong anh em đều
là Thầy của nhau. Tất cả đều là anh
chị em của nhau" (For one is your Master and all ye are
brethen – Matt.23: 4-10). Lời của giáo chủ dạy về
sự bình đẳng rõ ràng như thế nhưng các tu
sĩ Công Giáo chẳng bao giờ coi giáo dân là những
người bình đẳng với họ. Họ luôn luôn
cao ngạo tự xưng mình là CHA thiên hạ, các
đấng Bề Trên, Đức Cha, Đức Ông,
Đức Thánh Cha... Các giáo chủ lập đạo là
nhữung tâm hồn yêu thương toàn nhân loại và quý
trọng giá trị của mọi người dù bé nhỏ
đến đâu. Các vị đó chỉ muốn giúp
đỡ phục vụ con người chứ không lên
mặt làm Thầy của bất cứ ai. Trái lại, tu
sĩ Công Giáo đa số rất tự phụ, cao
ngạo, ích kỷ, tham lam và đạo đức giả.
Bởi lẽ trí óc của họ rất hẹp hòi và trình
độ tâm linh rất thấp kém nên họ đã không
hiểu đạo. Các giáo chủ càng đạo
đức và khiêm tốn bao nhiêu thì đệ tử
của các ngài lại càng hư đốn và kiêu căng láo
xược bấy nhiêu.
Phúc âm Tông đồ Công Vụ dạy
rằng: "Thánh Linh Thiên Chúa không ngự trong các
đền thờ được xây dựng bởi bàn tay
con người" và "Anh em là đền thờ
của Chúa, Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh em" (The Holy
Spirit of God no longer dwelt in temples made with men’s hands – Act.17:24 – Ye
are the temples of God, the Spirit of God dwelt in you – Corinth 3:16). Chúa
cũng như Phật đều xác nhận tâm linh con
người mới đích thực là các đền thờ
thật. Đức Phật dạy "Phật tại
tâm" chứ không hề dạy "Phật tại
Chùa" bao giờ. Nhưng nhiều tu sĩ của các tôn
giáo đã biến các nơi thờ tự thành những
nơi buôn thần bán thánh, làm hủy hoại chân lý của
các giáo chủ. Chính chúng đã làm cho các vị giáo chủ
mất hết chỗ đứng trong những ngôi
đền thật là tâm hồn của mọi
người. Một sự thật hiển nhiên là các tu
sĩ chỉ lo xây dựng những ngôi đền giả
vì nhữntg động lực ích kỷ thấp hèn của
chúng và chúng ra sức phá hủy các ngôi đền thật
quý giá vô cùng là lòng người. Thay vì dùng tôn giáo để
giải phóng con người, các tu sĩ đã biến các
tôn giáo thành những nhà tù tư tưởng để giam
hãm đồng loại và biến đồng loại thành
nô lệ phục vụ cho quyền lợi ích kỷ
của chúng. Bởi vậy chúng chỉ trích dẫn từ
Kinh Thánh những gì có lợi cho chúng mà thôi, những
điều tốt lành nhưng bất lợi cho chúng thì
chúng hoàn toàn dấu nhẹm!
Kinh Thánh là một bộ sách rất phức
tạp gồm nhiều cuốn sách do nhiều người
viết trong những thời đại khác nhau. Tuy nhiên,
theo quan điểm của Công Giáo La Mã thì Thánh Kinh gồm có
hai phần: Các sách Kinh Thánh của đạo Do Thái
được người Công Giáo công nhận là Cựu
Ước gồm có 46 cuốn được viết
bằng tiếng Hebrew trong khoảng thời gian từ 1000
TCN đến 400 TCN. Các chuyện kể trong những sách
này đều là những chuyện dân gian truyền khẩu
được góp nhặt lại, trong đó có rất
nhiều chuyện thần thoại được sáng tác
ở Babylon từ
nhiều thế kỷ trước đó. Các giáo phái Tin lành
chỉ công nhận 39 cuốn trong tổng số 46 sách
Cựu Ước nói trên mà thôi. Sáu cuốn khác, trong đó
có cuốn Wisdom of Salomon, bị họ coi là những
chuyện bịa đặt nhảm nhí!
Các sách kể chuyện về cuộc
đời hoạt động của Jesus và các môn
đệ gọi là Tân Ước gồm 27 cuốn do
nhiều người viết bằng tiếng Hy Lạp
trong 60 năm (từ năm 40 đến cuối thế
kỷ thứ nhất sau Công Nguyên). Chúng ta cần chú ý
một số điểm là cả Jesus và đồng
bạn đều là người Do Thái nhưng không nói
tiếng Do Thái (Hebrew) mà nói tiếng Aramaic là ngôn ngữ
của người Syria.
Không một cuốn sách Tân Ước nào được
viết bằng tiếng Aramaic là tiếng mẹ đẻ
của Jesus. Ông giảng đạo và chết tại Do Thái
vào khoảng năm 29 sau Công Nguyên, tới 11 năm sau
mới có cuốn sách đầu tiên kể chuyện về
ông và người ta tiếp tục viết cái gọi là
Thánh Kinh Tân Ước tại Hy Lạp dài dài cho tới
hơn 70 năm sau để làm chứng cho những phép
lạ mà Jesus đã làm tại một nơi xa xôi là Jerusalem!
Vào đầu thế kỷ thứ 7, tại
thành phố Mecca thuộc xứ Ả Rập Seoudite,
một thương gia giàu có là Mahomet đã lập ra
đạo Hồi với sự cộng tác của Zayd là
một tín đồ Do Thái Giáo và của Waraqua là một tín
đồ Ki-tô Giáo. Do đó, đạo Hồi là một
sự tổng hợp của hai đạo nói trên.
Đạo Hồi công nhận một phần Thánh Kinh Cựu
Ước và một phần Thánh Kinh Tân Ước. Họ
tin tổ tông loài người là Adam và Eva, họ nhận
Baraham là tổ phụ và là người sáng lập
Đạo Thiên Chúa (Monotheism). Người Hồi Giáo thù
ghét Do Thái Giáo và Ki-tô Giáo vì họ cho đó là những tà
đạo phỉ báng Thiên Chúa (blasphemous). Họ hết
sức khinh bỉ giáo lý "Thiên Chúa Ba Ngôi" của Ki-tô
Giáo. Nhưng họ lại rất tôn trọng các tiên tri Do
Thái từ Abraham, Isaac, Jacob, Moses, Isaiah cho đến Jesus.
Đối với người Hồi Giáo chỉ có Mahomet
là tiên tri cuối cùng và cao hơn hết thảy. Kinh Thánh
Coran do Mahomet viết liên tục trong 23 năm là sách Thánh Kinh
đúng đắn nhất. CORAN (tiếng Ả Rập là
Quran) có nghĩa là Sự Thuật Lại (Recitation) vì Mahomet
không nhận mình là tác giả mà chỉ nhận là
người ghi chép lại những điều thiên thần
Gabriel đọc cho ông ta viết mà thôi. Mahomet viết:
"Abraham là tín đồ Hồi Giáo đầu tiên
biết tuân phục Đức Chúa Trời. Đức tin
của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin Thiên
Chúa và những điều đã được Ngài
truyền cho Abraham, Isaac, Jacob, Ismael và dòng dõi của các
vị đó. Chúng ta tin vào những điều đã
được làm chứng bởi Moses và Jesus" (Abraham
had been the first Muslim to surrender to God. Ours is the creed on Abraham. We
believe in God and in that which has been bestowed upon Abraham, Isaac, Jacob,
Ismael and their descendants and that which has been vouched to Moses and Jesus
– Koran 2:135-136).
Nói tóm lại, các đạo thờ Chúa
gồm có Do Thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo gọi chung là
Thiên Chúa Giáo hay Độc Thần Giáo (Monotheism) đều
coi Thánh Kinh là bộ sách quan trọng nhất. Tuy nhiên,
mỗi tôn giáo có những quan niệm riêng về thành
phần của Bộ Thánh Kinh: Do Thái Giáo chỉ công
nhận Cựu Ước. Ki-tô Giáo công nhận phần
lớn các sách Cựu Ước nhưng Tân Ước là
chủ yếu. Đạo Hồi công nhận một
phần các sách trên nhưng kinh Coran là chủ yếu.
Chỉ vì những chi tiết khác biệt nhỏ nhặt mà
ba tôn giáo thờ cùng một Chúa và có chung các thánh tổ
phụ đã chém giết nhau trong nhiều thế kỷ làm
thiệt mạng hàng trăm triệu người! Đó là
hậu quả của nền văn hóa du mục bắt
nguồn từ Babylon. Chính
Kinh Thánh Khải Huyền cũng phải công nhận:
"Huyền thoại Babylon
vĩ đại là mẹ của những con điếm và
những chuyện khủng khiếp trên thế
giới!" (Mystery Babylon
the Great, mother of harlots and abominations of the earth. Rev.17:1-6).
Nội dung của các Sách Kinh Nguyện Công
Giáo (Catholic prayer-books) trên nguyên tắc phải phù hợp
với nội dung của các sách Kinh Thánh bao gồm cả
Cựu Ước lẫn Tân Ước. Trong thực
tế có nhiều bài kinh nguyện (prayers) đã phản
lại tinh thần Thánh Kinh (antiscriptural) hoặc không có
căn bản Thánh Kinh (Unscriptural). Theo Thánh Kinh Cựu
Ước thì mọi người chỉ có thể cầu
nguyện với Thiên Chúa mà thôi chứ không được
cầu nguyện với bất cứ ai khác vì chỉ có
Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Việc cầu
nguyện các thánh bị coi là nói chuyện với những
người đã chết bị Cựu Ước lên án
(All attempts to communicate with the dead are condemned – Isaiah 8:19-20).
Trong các sách kinh nguyện Công Giáo có rất nhiều bài kinh
dùng để cầu nguyện với các thánh đã
chết, như vậy là đã chống lại Thánh Kinh.
Những bài kinh dùng để lần
chuỗi Mân Côi được người cầu kinh
lặp đi lặp lại nhiều lần là trái với
lời dạy của Jesus: "Khi anh em cầu nguyện
đừng lặp đi lặp lại như những
kẻ ngoại vì họ lầm tưởng rằng cứ
nói nhiều thì sẽ được nghe nhiều". (When
ye pray, use not vain repititions as the heathen do for they think that they
shall be heard for their much speaking -–Matt. 6:7-13).
Những bài kinh ca ngợi Đức Mẹ
Đồng Trinh là trái với Cựu Ước vì Cựu
Ước chỉ nói rằng Chúa Cứu Thế sẽ
được sinh ra bởi một người mẹ
"Trẻ" chứ không phải là "Đồng
Trinh". Sách của Matthew là sách duy nhất trong bộ Tân
Ước nói Đức bà Maria đồng trinh bằng
cách trích dẫn sách của Isaiah trong Cựu Ước,
nhưng các nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã phát giác ra sự
ngụy tạo của Matthew vì Isaiah dùng chữ Hebrew
"ALMAH" có nghĩa là trẻ (young) chứ không hề
có nghĩa là Đồng Trinh (virgin). Ngoài ra còn rất
nhiều điều ngụy tạo trong bản dịch
Kinh Thánh bằng tiếng La Tinh của Jerôme (Vulgate) so
với chính bản Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp hoặc
những điều ngụy tạo trong các bài kinh
nguyện so với Thánh Kinh sẽ được trình bày
ở những đọan sau.