Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018

Thắc mắc về Phục sinh

Theo một số người khác thì ký thuật của Tân Ước chưa hoàn tất. Họ cho rằng sau đó Giê-su kết hôn, có con và cùng vợ đến sống ở miền Nam nước Pháp hoặc tại Glastonbury, Anh Quốc. Có người cũng tin rằng các đời vua triều đại Moravech là hậu duệ của Giê-su.
Tôi có nhiều thắc mắc về khái niệm Phục Sinh. 

Trong quá trình khảo cứu, những giải thích tôi tìm gặp thường chỉ đưa đến các thắc mắc mới nữa. Và những giải thích cho các thắc mắc mới nầy cũng lại chỉ đưa đến các thắc mắc khác hơn nữa.

Hoặc không có giải thích.

Dưới đây là tóm lược những thắc mắc và nhận xét về các giải thích nầy.

■ Nếu hỏi “Lễ Phục Sinh là gì?” thì câu trả lời thường nghe là “Lễ tưởng niệm Chúa Giê-su sau khi bị đóng đinh chết 3 ngày đã sống lại bay lên trời.”

Thắc mắc trước nhất: Tại sao Giê-su bị đóng đinh chết?

Giải thích: “Cái chết của Chúa Giê-su là để cứu chuộc hết những tội lỗi của con người”.

Thắc mắc: Thế thì con người tội gì?

Giải thích: “Tội tổ tông, nghĩa là tội xuất phát từ việc thủy tổ loài người là A-đam đã cãi lời Chúa Trời ăn trái cấm vì vậy bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng và từ đó phải chịu hình phạt chết”.

Thắc mắc: Tại sao chỉ vì A-đam phạm tội đầu tiên mà toàn thể nhân loại sau nầy đều phải mang tội đó? Ở Trung Hoa ngày xưa có tội hình tru di tam tộc. Khi một người phạm trọng tội thì không những chính người đó bị xử chết mà mọi người khác trong toàn thể dòng họ nội, họ ngoại và họ vợ/chồng dù vô can vẫn bị xử chết theo. Có ai không cho rằng luật tru di tam tộc là bất công và tàn nhẫn không?Luật của Thiên Chúa về tội tổ tông có khác gì luật tru di tam tộc?
Không có giải thích.
Thắc mắc: Còn lời dạy của chính Thiên Chúa là hãy tha thứ những kẻ phạm lỗi thí dụ như trong Kinh Thánh – Đệ Nhị Luật 24:16 “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình” thì sao?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Vì Thiên Chúa toàn năng và sáng suốt vô tận và Ngài đã tạo ra con người nên Ngài đáng lẽ phải biết rõ bản chất thiếu hoàn hảo của sản phẩm “con người” nầy của Ngài. Và Thiên Chúa hiểu biết vượt không gian và thời gian nên Ngài đáng lẽ cũng phải biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trước khi nó xảy ra.Tại sao Thiên Chúa có vẻ như không thấy biết trước được là A-đam sẽ cãi lời Ngài và ăn trái cấm? Tại sao Thiên Chúa chỉ bảo A-đam và Ê-va không được ăn trái cấm rồi không làm gì khác nữa (thí dụ như ít ra dựng lên một bức tường cao chung quanh cây trái cấm) để ngăn ngừa họ làm việc đó?

Giải thích: “Thiên Chúa có thấy biết trước mọi chuyện nhưng muốn A-đam có sự tự do lựa chọn cho hành động của mình”.

Thắc mắc: Thế thì thử tưởng tượng một người cha có một khẩu súng đã nạp đạn sẵn. Trước khi đi công việc ra khỏi nhà, ông để khẩu súng đó trên bàn rồi dặn 2 đứa con nhỏ “Tuyệt đối không được đụng đến khẩu súng đó!”Ai cũng đoán được chuyện gì sẽ xảy ra khi người cha không có mặt ở nhà. Thế khi 2 đứa con gây ra tai nạn chết người bởi khẩu súng ấy thì chúng ta nghĩ sao nếu người cha giải thích rằng “Tôi muốn cho chúng có sự tự do lựa chọn có nghe lời tôi dặn hay không”?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Vì những thiếu sót trên, chẳng phải là Thiên Chúa có trách nhiệm trong việc đã tạo hoàn cảnh cho A-đam phạm tội hay sao?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Ngoài vấn đề về tội tổ tông từ A-đam, tại sao Thiên Chúa lại sáng tạo ra một nhân loại không hoàn hảo và có khuynh hướng lầm lỗi ngay từ đầu làm gì? Tại sao một đấng tối thượng đầy huyền lực thấy biết mọi sự việc quá khứ lẫn tương lai lại chế tạo ra một con người trước sau gì cũng sẽ sa vào những điều tội lỗi, và do đó sẽ chắc chắn bị đốt cháy đời đời trong hỏa ngục theo luật của Ngài đặt ra?
Không có giải thích.
Thắc mắc: Chỉ có 2 trường hợp – hoặc là Ngài không thấy trước chuyện đó, hoặc là Ngài cố tình ngay từ đầu làm chuyện đó. Nhưng nếu không thấy trước chuyện đó thì Ngài không phải là toàn năng toàn lực.Và nếu thấy trước mà vẫn cố tình để nó xảy ra thì tại sao?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Và nói chung, khi một chiếc máy do thiết kế kém hoàn hảo gây ra phiền toái cho người sử dụng thì sản phẩm đó có lỗi hay người thiết kế và sản xuất ra chiếc máy đó có lỗi?
Không có giải thích.

Đến đây, lời biện hộ tôi thường được nghe là: “Nhưng Thiên Chúa đã đưa người con duy nhất xuống chịu bị đóng đinh chết để chuộc tội cho nhân loại”.

Thắc mắc: Tôi hỏi thế thì sự kiện Giê-su bị đóng đinh chết có liên quan gì đến việc con người được xóa tội?

Giải thích: “Chúa Giê-su vì thương loài người nên tự nguyện hiến mình chịu chết như là một hành động tuân phục trọn vẹn làm vui lòng Thiên Chúa để đền tội thay thế cho nhân loại. Lấy thí dụ nôm na như đứa con A lầm lỗi làm người cha giận dữ muốn trừng phạt, tuy nhiên đứa con B tự nguyện xin thay thế cho A hứng chịu hình phạt đó; việc làm nầy là vì tình thương của B đối với A và vì muốn làm người cha nguôi giận”.

Giải thích khác: “Thiên Chúa là Đấng Phán Xét. Con người đã phạm tội, và vì vậy, theo sự công bình của Thiên Chúa, Ngài phải đoán phạt con người. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng Yêu Thương, nên giải pháp được chọn, thoả mãn cả đức công bình lẫn đức yêu thương của Thiên Chúa, là phán bảo con Ngài, tức là Giê-su, Đấng Hoàn Toàn Vô Tội, đến để gánh thay tội lỗi của thế gian trên vai Ngài”.

Thắc mắc: Nếu Thiên Chúa từ bi vô lượng thì tại sao lại cần phải có Giê-su thế thân đền tội thì Ngài mới hài lòng và tha thứ được cho con người? Điều nầy cũng có vẻ như Thiên Chúa chỉ muốn thấy có người nhận chịu hình phạt thôi chớ không cần phải đúng là người phạm tội?

Giải thích: “Vì Thiên Chúa tôn trọng luật lệ của chính mình nên không thể thay đổi luật lệ đó để xóa tội nhân loại một cách dễ dàng như vậy. Luật của Thiên Chúa là khi phạm tội thì phải đền tội.Và đây là tội chết.Vì vậy phải có kẻ nhận chịu hình phạt đó.”

Thắc mắc: Tương tự như trên, thế thì những lời dạy về bao dung, độ lượng của Thiên Chúa thì sao? Ở đây Ngài có vẻ coi trọng hình phạt của Ngài đặt ra hơn tình thương dành cho con người của Ngài. Thế thì bài học về tha thứ trong chuyện Đứa Con Lạc Lối của kinh Lu-ca 15:11-32 (người cha tha thứ đứa con trai hư hỏng sau khi nó biết lỗi trở về nhà) thì sao? Nếu như vậy thì có phải Thiên Chúa đã mâu thuẩn với chính những lời dạy của Ngài không?
Không có giải thích.
Để tránh xa những cách giải thích dẫn vào ngõ cụt trên, có người khuyên tôi nên hiểu ý nghĩa của chuyện Giê-su bị đóng đinh chết để xóa tội con người như sau: “Con người đã đối xử cực kỳ tàn nhẫn với Chúa Giê-su, tức là đã thể hiện mọi tội lỗi độc ác lên Người nhưng Giê-su đã cho chúng ta thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho tất cả chúng ta”.

Nhận xét: Cách giải thích nầy may ra cố cho thấy Thiên Chúa rất bao dung (nên đã tha thứ những kẻ hành sử độc ác với mình). Cách giải thích nầy không cho thấy tại sao sự kiện Giê-su bị đóng đinh chết dẫn đến sự kiện con người được xóa tội.

Thắc mắc: Nói đến việc tha thứ và xóa tội, sau khi Giê-su chịu chết thay thế cho nhân loại thì nhân loại đã nhận hưởng được khoan hồng gì? Nếu Giê-su đã chịu chết để xóa hết tội rồi thì tại sao con chiên vẫn còn tội tổ tông? Thí dụ như một người sau khi trả hết nợ đã mượn cho ngân hàng rồi thì họ đâu còn cần ngân hàng phải “tha” cái nợ đó cho họ nữa!
Không có giải thích.

Thắc mắc: Và nếu vì tội tổ tông đã làm con cháu A-đam bị phạt tội chết thì tại sao khi Giê-su thay mạng chuộc tội rồi mà sự chết vẫn còn thống trị nhân loại ngày nay?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Hóa ra việc “chuộc tội” của Giê-su đã không đem đến ích lợi gì cả hay sao?

Giải thích: “Nhờ Chúa Giê-su làm vậy nên con người có thể thấy tình thương vô bờ bến của Ngài, và của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng là Giê-su và Giê-su cũng là Thiên Chúa”.

Nhận xét: Đây có thể là cách giải thích làm cho chuyện “Giê-su xuống trần chịu chết trên thánh giá để chuộc tội cho loài người” trở thành tối nghĩa và vô lý nhất: Nếu Thiên Chúa cũng là Giê-su và Giê-su cũng là Thiên Chúa thì điều đó có nghĩa là Ngài đã gởi chính Ngài xuống trần tự nguyện chịu chết để chuộc tội cho một sản phẩm kém hoàn hảo do chính Ngài sáng tạo ra vì nó đã vi phạm những luật lệ cũng do chính Ngài đặt ra!
Không có giải thích.

Thắc mắc: Nếu “Thiên Chúa là Giê-su và Giê-su cũng là Thiên Chúa”, thế thì Giê-su lúc còn sống có biết điều đó không? Nếu Giê-su biết mình là Thiên Chúa thì tại sao ở những giây phút cuối cùng khi bị đóng đinh trên thánh giá lại thốt ra “Thiên Chúa tôi ơi! Thiên Chúa tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?"(Ma-thêu 27: 46; Mác-cô 15: 34) Đây rõ ràng là lời than vãn của một người đang đau đớn trong tuyệt vọng. Nếu Giê-su lúc đó biết mình cũng chính là Thiên Chúa thì tại sao lại cảm thấy đau đớn tuyệt vọng như vậy?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Hơn nữa, trong lúc gần chết Giê-su cũng nói: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì." (Lu-ca 23: 34). Và "Cha ơi, Con giao thác linh hồn Con lại trong tay Cha!"(Lu-ca 23: 46). Đây là lời của một người nói với một người khác. Nếu Giê-su lúc đó biết rằng mình cũng là Thiên Chúa thì tại sao đã không nói những câu gì tương tự như: "Ta tha tội cho các người, vì các người không biết mình làm điều gì" hay là “Linh hồn ta sẽ biến trở thành Thiên Chúa”?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Các lời nói buột nói ra lúc đó của Giê-su cho thấy ngay ở giây phút trước khi chết đó Giê-su vẫn không biết, hay ít ra là không tin rằng mình là Thiên Chúa. Và nếu lúc còn sống Giê-su không biết điều đó thì chẳng phải là toàn thể khái niệm Chúa Ba Ngôi đều vô nghĩa hay sao?
Không có giải thích.

Nhận xét: Và ngay cả nếu tất cả thắc mắc trên đều được giải thích thỏa đáng thì một điều cần nhận thấy là Giê-su đã không hề thật sự chết. Giê-su chỉ “chết tạm” có vài ngày rồi sống lại.Thiên Chúa là một đấng toàn năng thấy hiểu quá khứ vị lai nên đã biết trước điều nầy.Thiên Chúa không có hình hài vật chất nên không biết đau đớn, khổ sở.Giê-su vì cũng là Thiên Chúa nên tất cả đau đớn khổ sở đó chỉ là tạm thời và không đáng kể gì cả. Chuyện nầy không khác gì anh chàng tặng người yêu một chiếc nhẫn xoàn thật lớn rồi nói rằng “Anh đã làm lụng cực khổ nhiều năm mới dành đủ tiền mua chiếc nhẫn nầy cho em để biểu lộ tình yêu của anh với em”, trong khi thật ra đó chỉ là một chiếc nhẫn giả chẳng tốn kém gì bao nhiêu cả.
Không có giải thích.

Thắc mắc: Nếu hy sinh chịu chết thật sự, và chết vĩnh viễn, thì sự hy sinh đó mới có giá trị. Đàng nầy Thiên Chúa (qua hình hài Giê-su) chỉ chết tạm 3 ngày rồi sống lại.Thế thì chẳng phải là sự kiện “Thiên Chúa đưa con là Giê-su xuống chịu chết thay thế cho nhân loại” chỉ là một vở kịch diễn giả tạo hay sao?
Không có giải thích.

Thắc mắc: Trong các tôn giáo khác cũng có những truyền thuyết mà thần linh của họ phải hứng chịu những hy sinh khổ sở cực độ. Thí dụ như trong tôn giáo cổ Hy Lạp, thần Prometheus đã ăn cắp lửa của thần Olympus để ban cho nhân loại. Khi Thượng Đế Zeus khám phá ra việc nầy, Prometheus đã bị phạt xiềng chặt vào một tảng đá lớn để kên kên bu lại ăn gan của ông ấy. Mỗi khi đêm về, gan của ông mọc ra lại để đến sáng hôm sau bị bầy kên kên tiếp tục mổ ăn nữa. Ngày nầy qua ngày khác đau đớn tột cùng không dứt.Sự hy sinh đó rất đau đớn khổ sở nhiều hơn việc Giê-su chết tạm 3 ngày.Thế thì câu chuyện Giê-su có gì đặc biệt lắm đâu?
Không có giải thích.

■ Bây giờ dưới đây tôi bước qua phần “Chúa Giê-su sống lại bay lên trời”.

Chuyện đại loại kể rằng sau khi Giê-su bị đóng đinh đã chết rồi thì thi thể được bỏ vào một hầm mộ đóng cửa lại có niêm phong và có lính canh gát.Tuy nhiên 3 ngày sau lúc môn đồ đến thăm mộ ra thì cửa đã bị mở ra và không còn thi hài trong đó nữa.

Thắc mắc: Có một giải thích rất khả dĩ và thực tế là Giê-su chưa hề thật sự chết trên thập tự giá rồi sau đó hồi tỉnh lại trong hầm mộ, và rồi được môn đồ lén vào dẫn trốn đi. Tại sao không dùng giải thích nầy?

Tín đồ phản bác như sau:

a/ “Chúa Giê-su chắc chắn đã chết vì ngoài việc bị đóng đinh Ngài còn bị quân lính đâm dáo nhọn vào người chảy máu và nước ra rất nhiều”.

b/ “Bên ngoài quân lính canh gát rất cẩn mật nên Chúa Giê-su nếu có hồi tỉnh lại cũng không thể nào trốn ra hay môn đồ nào lẻn vào cứu mà không bị phát giác”.
c/ “Hầm mộ đã bị đóng kín bằng tảng đá rất nặng thì môn đồ không thể mở được dễ dàng”.

d/ “Sự kiện tấm niêm phong đã bị xé rách cộng với sự kiện không còn thi hài trong hầm mộ nữa chứng tỏ rõ ràng Chúa Giê-su đã sống lại và ra khỏi nơi đó”.

Tôi trả lời các phản bác trên như sau:

a/ Không thể nào biết chắc chắn Giê-su đã chết hay không. Sự kiện “người chết sống lại” xảy ra thường xuyên từ xưa đến nay ở mọi nơi. Không có gì đặc biệt hay thiêng liêng cả. Ngay với kỷ thuật y khoa tân tiến nhất ngày nay mà vẫn có nhiều trường hợp người bị tai nạn được bác sĩ chứng nhận đã chết rồi bỗng nhiên bừng sống lại vài ngày sau trong nhà xác, hay có khi cả ngay trong hòm trước khi chôn. Vào google "người chết sống lại" thì sẽ thấy ngay hàng trăm thí dụ có tài liệu chứng từ hẳn hoi.

b/ Tuy có lính canh gác bên ngoài mộ nhưng có thể không cẩn mật như người ta nghĩ. Đó là vì nếu cẩn mật thì tại sao lính canh không hay biết tấm đá cửa mộ bị lăn mở ra hồi nào? Nếu cẩn mật thì tại sao lính canh không thấy Giê-su bước ra khỏi mộ?Nếu cẩn mật thì tại sao mãi đến khi các môn đồ đến thăm mộ thì việc nầy mới bị phát giác?Và nếu không có sự cẩn mật như vậy thì rất khả dĩ xảy ra việc các môn đồ đêm khuya lẻn mở cửa vào cứu Giê-su mà không bị phác giác.

c/ Cửa hầm mộ là một tảng đá có thể rất nặng nhưng có hình tròn (dựa theo Kinh Thánh kể rằng “cửa hầm mộ đã được LĂN mở ra”). Nếu một vật tròn lăn được thì có thể không cần dùng nhiều sức lắm mới lăn nó mặc dù trọng lượng nó rất lớn.

d/ Sự kiện tấm niêm phong bị xé rách chỉ chứng tỏ rõ ràng một việc: tấm cửa đá đã được mở ra. Tấm cửa đá có thể đã được mở từ bên ngoài (hoặc do các thiên thần, hoặc do các môn đồ thừa đêm tối lẽn đến), cũng có thể đã được lăn mở từ bên trong (bởi chính Giê-su sau khi hồi tỉnh lại). Sự kiện nầy và sự kiện thi hài Giê-su không còn trong hầm mộ nữa không hề chứng tỏ là Giê-su đã 1/ thật sự chết rồi, và 2/ sống lại.

Có một cách giải thích khác cũng rất khả dĩ: Các môn đồ đã lẻn vào đánh cắp thi hài của Giê-su và chôn dấu ở nơi nào khác rồi phao tin đồn tạo dựng lên câu chuyện phục sinh.

Lý do các môn đồ làm chuyện đó là để mọi người tưởng rằng Giê-su thật sự sống lại đúng như lời tuyên bố trước đó. Các môn đồ muốn danh tiếng Giê-su (là thầy của họ) được tràn lan, để phong trào Giê-su không bị dập tắt. Đây cũng là một hành động phản chống lại chính quyền La Mã.

Và nếu vì thếthì tại sao có một số môn đồ sau đó đã thấy Giê-su?Người mà các môn đồ gặp lại sau nầy rất có thể chỉ là một môn đồ nào đó có hình dáng tương tự đã giả dạng Giê-su.

Thế thì tại sao các tín đồ phân biệt / không phân biệt được người giả hay thật?Nếu xét đến thân thế của những tín đồ được cho là đã thấy Giê-su sống lại thì chúng ta không nên ngạc nhiên lắm. Đó là vì hầu như tất cả đều là dân quê ít học, mê tín; và có thể có những người chưa hề gặp mặt Giê-su lúc còn sống.

■ Ngoài các nhận xét ở trên, trong khi khảo cứu về đề tài nầy tôi cũng được biết rằng:

– Theo quan điểm của người Do Thái trong quyển “Cuộc Đời của Giê-su” (“Toledoth Yeshu”) thì xác của Giê-su bị dời đi ngay trong đêm bị đóng đinh.

– Theo kinh Koran của Hồi Giáo thì Giê-su đã không bị đóng đinh mà một người khác có hình dáng tương tự đã chết thay.

– Theo Thứ kinh Phúc âm của Barnabas cho rằng Giê-su không bị đóng đinh mà Judas đã thế chỗ.

– Theo một số tài liệu bởi sử gia Nga Nicolai Notovitch, sau khi hồi tỉnh lại và trốn thoát, Giê-su đã sống trọn cuộc đời mình tại Kashmir. Ở đó có lẽ có phần mộ của Giê-su mang tên là Yuz Asaf.

– Theo một số người khác thì ký thuật của Tân Ước chưa hoàn tất. Họ cho rằng sau đó Giê-su kết hôn, có con và cùng vợ đến sống ở miền Nam nước Pháp hoặc tại Glastonbury, Anh Quốc. Có người cũng tin rằng các đời vua triều đại Moravech là hậu duệ của Giê-su.

Và tôi cũng không ngạc nhiên lắm khi thấy ngay cả trong Công Giáo cũng có một số tín đồ theo khuynh hướng tự do xem sự kiện phục sinh không gì khác hơn là một biểu tượng tôn giáo về niềm hi vọng. Họ chấp nhận đây là một huyền thoại có tính biểu trưng và có tác dụng nuôi dưỡng tâm linh; ý niệm phục sinh không phải là một sự kiện lịch sử nhưng chỉ là một thái độ tôn giáo. Những người theo khuynh hướng này bác bỏ luận điểm cho rằng Giê-su đã thật sự sống lại trong thể xác.

Một điều cần nói là trong tất cả giải đáp các thắc mắc đưa ra ở trên, có lẽ tôi được nghe câu trả lời sau đây nhiều nhất:

“Bạn không tìm ra giải đáp cho các thắc mắc của bạn là vì bạn không tự lựa chọn điều đó.Nếu một người tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì các giải đáp sẽ tìm đến những thắc mắc của họ một cách dễ dàng hơn. Hơn nữa nếu bạn tin vào Thiên Chúa thì bạn sẽ hiểu rằng trí óc con người không thể nào cao hơn Thiên Chúa và hiểu hết được những điều Ngài làm. Có lẽ là chúng ta không nên thắc mắc nhiều như vậy mà chỉ nên tin thờ Thiên Chúa và chấp nhận những gì Ngài phán dạy.”

Câu trả lời trên thường được đưa ra ở những nơi tôi ghi chú là “Không có giải thích”.

Thật ra đây không phải là lần đầu tiên tôi gặp câu trả lời nầy. Nó được tín đồ sử dụng thường xuyên cho bất cứ câu hỏi nào họ không giải thích được. Những lần đầu khi mới nghe lời giải thích trên, tôi đã bực tức phản đối rằng: Làm sao ai có thể tin được những điều vô nghĩa lý, nhiều lúc đến mức độ khùng điên, như vậy? Thế thì chúng ta nên gạt bỏ khả năng suy luận của mình qua một bên để tin tưởng vô điều kiện vào những gì người khác muốn chúng ta tin à? Ngay cả những điều giả dối trắng trợn nhất miễn là chúng được dán nhãn “tôn giáo”?v.v. và v.v.

Tuy nhiên đến một lúc nào đó tôi rồi chợt nhận hiểu ra về câu trả lời đó. Đối với những người được dạy dỗ rằng “Lành thay những kẻ không thấy mà tin” thì nó hoàn toàn hữu lý.Chính những thắc mắc như của tôi mới là vô nghĩa lý. Vô nghĩa lý và vô bổ ích, đối với họ.Họ không bao giờ cần, và muốn, nghe những thắc mắc phát xuất từ trí óc nhận xét và lý luận của những kẻ không cùng đức tin với họ.

Điều đó không thay đổi được sự kiện Thiên Chúa Giáo hiện đại không thể nào giải đáp được những thắc mắc trên. Những câu trả lời dạng trên chỉ thể hiện rõ ràng hơn sự kiện toàn thể hệ thống tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo giống như một ngôi nhà được xây dựng bằng những lá bài xếp chồng chất lên nhau một cách mong manh. Nếu lấy một lá bài ra là ngôi nhà sẽ sụp đổ, nếu không toàn bộ thì cũng từng phần. Vì thế cũng không khó hiểu lắm tại sao những thuật ngữ khéo léo, những lịch sử lệch lạc cùng những ngụy chiêu tâm lý được sử dụng thường xuyên. Để lòn lách và tránh né, để bảo vệ và chống đở căn nhà bằng những lá bài đó.

Như đã thấy ở trên.

Nguyễn Nhân Trí
Nguồn: Vô số tài liệu khác nhau từ internet.

Chúa cũng có em trai?

Các mảnh giấy được lấy từ 13 mã vellum buộc da thuộc đã được chôn ở Ai Cập và được tìm thấy vào năm 1945.
Bản thảo bí mật về lời dạy của Chúa Jesus cho em trai được khai quật
Secret manuscript revealing Jesus’ teachings to his brother James re-writes The Bible 
Các mảnh giấy được lấy từ 13 mã vellum buộc da thuộc đã được chôn ở Ai Cập và được tìm thấy vào năm 1945.

Các tài liệu này mô tả "Khải huyền đầu tiên của James", trong đó Chúa Jesus chia sẻ những hiểu biết về Thiên Đàng và các sự kiện trong tương lai cho người em trai, kể cả cái chết của người em này.

Tuy nhiên, những tài liệu này đã bị các tín đồ Thiên chúa giáo đầu tiên "cấm" thêm vào Tân Ước 1.600 năm trước khi tài liệu này được viết lần đầu.
 
Tài liệu chi tiết cái chết của James.

Athanasius, Giám mục Alexandria, trong "Thư Phục Sinh năm 367" đã định nghĩa 27 cuốn sách Tân Ước: "Không ai có thể thêm vào chúng, và không có gì có thể được lấy đi từ chúng".

Bản thảo này là từ một hình thức Thiên chúa giáo đầu tiên gọi là Gnosticism vẫn còn là một bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu.
BBT

Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

Vài nét về ngôi Giáo Hoàng

pope-francis-corruption-mafia.si_
Tác giả: Phạm Văn
Ngôi Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo La Mã là một chức vụ đã có từ lâu và thường giữ vai trò quan trọng trên thế giới cho đến nay. Kitô giáo ra đời trong Đế quốc La Mã giữa cộng đồng dân Do Thái với câu chuyện Thánh kinh về Jesus, con của Chúa. Mặc dù Thánh kinhkhông nói tới chức Giáo hoàng như hình ảnh ngày nay, ngôi Giáo hoàng, với vai trò kế vị Peter, dựa trên một diễn giải thần học có tính lịch sử: Vị trí nổi bật của Peter trong 12 tông đồ. Phúc âm Matthew 16:18-19 ghi lời Jesus nói với Simon:
“Ta bảo cho ngươi, ngươi là Peter [nghĩa là đá], ta sẽ xây Hội Thánh của ta trên tảng đá này, và cổng âm phủ sẽ không thắng nổi nó. Ta sẽ cho ngươi chìa khóa nước thiên đàng; bất cứ điều gì ngươi buộc dưới đất cũng sẽ buộc trên trời, và bất cứ điều gì ngươi cởi dưới đất cũng sẽ cởi trên trời”.
Câu nói đầy ẩn dụ này đặt nền tảng cho quyền uy tuyệt đối của Peter. Vì thế, mặc dù Linus là lãnh tụ đầu tiên của cộng đồng Kitô hữu ở La Mã, nhưng Peter có địa vị tối cao khi ông đến La Mã và được Giáo hội coi là Giáo hoàng đầu tiên. Jesus không nói cụ thể rằng sẽ có những người kế vị Peter để cởi và buộc những điều trên trần thế. Jesus cũng không dặn Peter, hay những người kế vị Peter, nên đặt nền móng cho hội thánh ở kinh đô La Mã. Đối với Jesus có lẽ Jerusalem có vị trí quan trọng hơn nhiều, nhưng La Mã là trung tâm chính trị thời đó và có ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của cộng đồng Kitô trên toàn đế quốc. Ngoài ra, trong bốn cuốn Phúc âm Matthew, Mark, Luke và John, chỉ cóMatthew nhắc tới chữ “hội thánh” (church) hai lần, lần thứ hai trongMathew 18:17, vì thế nhiều người còn đặt câu hỏi Jesus có thực sự đề cập đến việc lập hội thánh cho những người cùng niềm tin, nhất là dưới dạng một tổ chức với hệ thống trên dưới phức tạp như Giáo hội hiện nay.
Sau nhiều thăng trầm, ngày nay về mặt tinh thần Giáo hoàng là Giám mục địa phận La Mã, có quyền bổ nhiệm các chức vụ cốt lõi trong Giáo hội và là chủ chăn của hơn một tỉ tín đồ Công giáo trên trần thế; về mặt thế tục ông đứng đầu nhà nước ở Vatican có liên hệ ngoại giao với nhiều nước và tổ chức trên thế giới.
***
Cho đến nay có 265 người được Giáo hội ngày nay công nhận là Giáo hoàng hợp lệ. Trung bình họ giữ ngôi dưới tám năm. Nếu không kể đến Peter, Piux IX (1846-1878) trị vì lâu nhất, hơn 31 năm. Urban VII (1590) làm Giáo hoàng ngắn nhất, qua đời 13 ngày sau khi được bầu, trước khi kịp làm lễ đăng quang. Stephen II (752) được bầu làm Giáo hoàng nhưng mất 3 ngày sau đó, và vì chưa thụ phong Giám mục nên ông không được coi là Giáo hoàng. Ngày nay, với tiến bộ về y khoa và hết bị bức hại cũng như không còn đánh nhau giành quyền lợi với các nhà cai trị thế tục nữa, Giáo hoàng thường trị vì lâu hơn. John Paul II (1978-2005) giữ ngôi hơn 26 năm, lâu thứ nhì trong lịch sử Giáo hội.
Lịch sử đạo Kitô xảy ra nhiều vụ tranh chấp nội bộ, dẫn tới ly giáo hoặc các nhóm tín đồ tự bầu ra Giáo hoàng của phe mình để chống lại Giáo hoàng của phe khác. Nhiều vị bị cho là bất hợp lệ, gọi là Giáo hoàng đối lập, “anti-popes”. Nhiều khi có ba hay bốn Giáo hoàng được bầu lên đúng thủ tục quy định, mỗi vị dựa vào một thế lực riêng để chống lại các vị kia. Giáo hoàng đối lập đầu tiên thời Giáo hội còn sơ khai là Thánh Hippolytus (217-236). Giáo hoàng đối lập cuối cùng là Felix V (1439-1449). Sau thời ông, các tín đồ bất mãn với đường lối của Giáo hội La Mã thường rủ nhau lập giáo phái mới chứ không đoái hoài gì tới vai trò của La Mã và Giáo hoàng nữa. Ngày nay, hàng năm Vatican xuất bản Annuario Pontificio, trong đó có danh sách các Giáo hoàng được Giáo hội chính thức công nhận.
Nhiều Giáo hoàng sống đúng lời gọi thiêng liêng của nhiệm vụ được giao, nhưng cũng có ông đáng bị chỉ trích về mọi mặt. Cho đến nay có 78 Giáo hoàng được phong thánh (gần 30%), mặc dù khi còn sống vị thánh này có thể chống lại và phạt vạ tuyệt thông một vị thánh khác hay gây ra chiến tranh đẫm máu. Trong 49 Giáo hoàng của 5 thế kỷ đầu tiên, chỉ có hai vị không được coi là thánh, Liberius (352-366) và Anastasius II (496-498). Giáo hoàng được phong thánh gần đây nhất là Pius X (1903-1914). Ba vị thường được hậu thế gọi là Giáo hoàng “Cả” (The Great), Leo I và Gregory I và Nicholas I, vì có công lớn về mặt tinh thần, học thuật, xã hội, chính trị… Có Giáo hoàng là anh hùng, như Leo I năm 452 đã dám đi triều cống vua Attila để Ý khỏi bị tấn công. Có ông trụy lạc như John XII (955-963), lên ngôi Giáo hoàng khi 18 tuổi và sa đoạ tới nỗi kinh đô của tội lỗi thời đó là La Mã cũng thấy xấu hổ. Nhiều Giáo hoàng có vợ con và là người chồng, người cha gương mẫu, nhưng cũng có ông có nhiều nhân tình và con rơi sau khi đã lên ngôi.
Giáo hoàng có thể xuất thân từ mọi tầng lớp xã hội. Callistus I (218-223) là cựu nô lệ, Pius XII (1939-1958) là quý tộc La Mã, nhưng John XXIII (1958-1963) kế vị Pius lại là nông dân. Giáo hoàng có thể thuộc mọi sắc dân: Pháp, Hy Lạp, Đức, Tây Ban Nha, Phi châu và hơn 80% là người Ý. Một vị người Anh là Hadrian IV, một Ba Lan là John Paul II, nhưng chỉ có một vị từ Galilee là Peter, và chưa có Giáo hoàng gốc Úc hay Á. Một số vị chưa là tu sĩ khi được chỉ định, vì thế họ phải nhận chức linh mục, rồi tấn phong Giám mục La Mã trước khi chính thức được xem là Giáo hoàng. Cho đến nay tất cả Giáo hoàng đều là nam giới, nhưng huyền thoại về nữ Giáo hoàng Joan trong thời Trung cổ vẫn cứ lưu truyền. Người ta cũng nói đến các Giáo hoàng có khuynh hướng đồng tính luyến ái, nhưng chưa ai tìm thấy tài liệu cụ thể nào trong thư khố của hội thánh.
Trong thời gian đầu, Giám mục La Mã là người có uy tín ở địa phương do tín hữu cử ra. Một thời gian sau các hoàng đế La Mã chỉ định kẻ thân cận giữ chức Giáo hoàng để phục vụ đắc lực cho quyền lợi của đế quốc. Khi Giáo hội trở nên độc lập hơn đối với các nhà cầm quyền thế tục, Giáo hoàng lại được người đồng đạo bầu ra. Ngày xưa cử tri đoàn bầu Giáo hoàng có thể họp bất cứ nơi nào thuận tiện tùy theo tình hình, hoặc ở nơi Giáo hoàng qua đời, không nhất thiết phải ở La Mã.
Là người cầm đầu cộng đồng tín hữu, Giáo hoàng thường có cuộc sống giàu sang và tiện nghi hơn các giáo dân cùng thời, trừ những khi bị bức hại. Nhiều vị chi tiêu xa hoa ngoài sức tưởng tượng, xây những cung điện và giáo đường vĩ đại trong lúc giáo dân cùng khốn, nhưng cũng có vị sống đời khổ hạnh đáng làm gương cho mọi thời và mọi người kế vị. Là Giám mục La Mã, họ cai quản tài sản của giáo xứ, và vào thời kỳ đầu họ phải cưỡng lại nhiều cám dỗ đi đôi với chức Giám mục đó. Tín đồ thường hiến đất và tiền cho “Thánh Peter”, nghĩa là cho Giám mục La Mã. Điền sản Thánh Peter mở rộng nhất hồi thế kỷ 18, kéo dài từ Naples tới Venice cùng một số nơi ở Pháp, và Giáo hoàng trở thành vua của các Nước Giáo hoàng, với đầy đủ những vấn đề của một nhà cai trị thế tục. Lợi tức của họ có từ đất đai của Giáo hội và các giáo xứ giao nộp hay cướp được, hoặc có khi từ việc bán giấy xoá tội và bán chức vụ trong hội thánh, hoặc do các lãnh chúa tặng vì lợi ích của Giáo hội hay vì muốn đổi lấy một ân huệ nào đó. Y phục của họ thường diêm dúa, chỗ ở của họ là các cung điện hoành tráng. Họ không phải lo đến bữa ăn, trừ khi phải chạy trốn vì thất bại trong cuộc tranh chấp với các lãnh chúa hay giáo sĩ khác. Mỗi khi di chuyển, đoàn tùy tùng của họ có thể lên đến hàng ngàn người, từ Hồng y tới binh lính, từ vua chúa tới tiện dân, để giúp việc, để bảo vệ khỏi bị hãm hại, và cũng để phô trương thanh thế.
Ngày nay, Giáo hoàng là người đứng đầu nhà nước Vatican với dân số dưới một ngàn người trên mảnh đất rộng 44 hectare giữa thành phố La Mã. Vatican theo chế độ quân chủ tuyệt đối và có quan hệ ngoại giao với đa số các nước trên thế giới. Về mặt tinh thần, Giáo hoàng còn có vai trò tối cao về hành pháp, lập pháp và tư pháp đối với cộng đồng hơn một tỉ tín đồ sống khắp hoàn cầu. Các huấn dụ và phán quyết của Giáo hoàng có ảnh hưởng lớn không những đối với cuộc đời riêng của giáo dân mà cả sinh hoạt chính trị-xã hội nơi họ sống.
Lá cờ Toà thánh: màu vàng tượng trưng cho quyền uy tinh thần của Giáo hoàng; màu trắng là quyền lực trần thế; trên nền trắng là huy hiệu Toà thánh, hình hai chiếc chìa khóa của Thánh Peter đặt chéo trên vương miện ba tầng của Giáo hoàng.
***
Mọi chức vụ trên trần thế đều phản ảnh tình hình chính trị của xã hội. Ngôi Giáo hoàng cũng không đi ra ngoài quy luật đó. Lịch sử ngôi Giáo hoàng có năm mốc quan trọng:
1) Khi cộng đồng tín hữu còn phôi thai, hai thánh tông đồ Peter và Paul đến rao giảng và tử đạo ở La Mã. Vì tầm quan trọng của kinh đô La Mã và địa vị của Peter, vai trò chủ chăn ở La Mã có địa vị trội hơn giám mục các nơi khác. Khi Kitô giáo còn bị áp bức, Giám mục La Mã tự đặt cho mình một nhiệm vụ rất khiêm tốn là giữ cho mộ thánh Peter và Paul khỏi bị phá hoại, cử hành thánh lễ tại các nhà thờ địa phương và giúp dân nghèo. Khi các Giám mục khắp nơi có tranh cãi về thần học, họ thường hội ý với những vị có uy tín ở các giáo xứ quan trọng, trong đó có Giám mục La Mã, người kế vị Peter.
2) Đầu thế kỷ thứ 4, Hoàng đế Constantine cải đạo sang Kitô giáo – công lao của Constantine lớn tới nỗi một số tín đồ Kitô xem ông là tông đồ thứ 13. Khi Hoàng đế theo tôn giáo mới, triều đình và thần dân cũng cải đạo theo. Hơn nữa, Constantine đốc thúc các Giám mục trên toàn cõi đế quốc nhận nhiệm vụ dân sự, từ đó Giáo hội ngày càng mạnh và dấn sâu vào việc hình thành cơ cấu chính trị của xã hội. Giám mục La Mã vừa chăn dắt giáo dân địa phương, vừa giúp Hoàng đế giải quyết những vấn đề liên quan đến Kitô hữu trên toàn cõi đế quốc.
Khi Kitô giáo trở thành quốc giáo của đế quốc La Mã, nhất là sau Chỉ dụ Milan năm 313, ngôi Giáo hoàng thường do Hoàng đế chỉ định, không do tín hữu địa phương cử ra nữa. Hoàng đế là vua của đế quốc, vua của các vua. Giáo hoàng chỉ là vua một vùng đất nhỏ trong đế quốc, vì thế phải thoả mãn yêu cầu của Hoàng đế, đôi khi của hai Hoàng đế cùng một lúc, một ở La Mã phía tây và một ở Constantinople phía đông.
3) Đến thế kỷ thứ 8, đế quốc La Mã đã suy đồi, Hoàng đế ở Constantinople không bảo vệ được La Mã nữa, vì thế Giáo hoàng tìm sự giúp đỡ của triều đình Carolingian, Pháp. Liên hệ giữa Giáo hoàng với các nhà cai trị phía Tây trở nên gắn bó, và ảnh hưởng của Byzantine nhạt dần.
Sau biến cố Giáo hoàng đội Léon III vương miện cho Hoàng đế Charlemagne năm 800, ngôi Giáo hoàng dần thoát khỏi sự kiềm chế của thế quyền và đôi khi lấn át các ông vua khác ở Âu châu. Các Nước Giáo hoàng hiện ra ngày càng rõ, tuy không liền một khối. Công việc cai trị đòi hỏi phải mộ quân, tích lũy lương thực, củng cố thành lũy, nhà thờ, cung điện, và thu thuế khắp nơi. Giai đoạn này cũng thường xuyên xuất hiện các Pháp đình Tôn giáo để răn đe và chống kẻ dị giáo, hoặc chỉ dùng danh nghĩa tôn giáo để dập tắt kẻ chống đối. Rồi khi Đất Thánh bị vua Hồi xâm lăng, các Giáo hoàng đứng lên kêu gọi thực hiện cuộc viễn chinh Thập tự giá. Các cuộc thánh chiến đẫm máu do họ đề xướng kéo dài suốt mấy thế kỷ nhằm giành lại Jerusalem cho tín đồ Kitô, và trên thực chất cũng để giải quyết các vấn đề kinh tế-chính trị ở phương Tây.
4) Quyền uy lớn dẫn đến băng hoại lớn, Giáo hội Công giáo là một tổ chức của con người cũng không thoát khỏi điều đó. Thời Phục hưng và Khai sáng ở Âu châu, kéo dài từ thế kỷ 14 đến 18, với các phát triển trong ngành nhân văn và khoa học tự nhiên đã bộc lộ rõ sự lỗi thời và phản tiến bộ của Giáo hội Công giáo La Mã thời ấy dưới mắt nhiều người. Giáo hội ngày càng phải dựa vào Pháp đình Tôn giáo để đàn áp và củng cố quyền lực của mình. Tu sĩ các dòng tu Francisco, Dominic, Jesuit… giúp Giáo hoàng vượt qua nhiều cơn bão của thời đại và cũng là phán quan đắc lực trong các Pháp đình Tôn giáo khắp vòm trời Kitô.
Trong khi đó, tình trạng nhũng lạm của tu sĩ ngày càng trầm trọng, trí thức Âu châu và các tu sĩ có tinh thần cải cách liên tục kêu gọi chỉnh đốn Giáo hội. Họ dịch Thánh kinh ra ngôn ngữ địa phương để giáo dân có thể trực tiếp đọc và hiểu lời Chúa, một điều làm Giáo hội La Mã sợ hãi. Cùng với sự tiến bộ của ngành in, các bản dịch Thánh kinh phổ biến rộng trong dân chúng, mang lại một sức sống mới cho thần học Kitô. Họ cũng lập ra rất nhiều giáo phái khác để cùng nhau sống đạo trong tinh thần mới, phản đối một số phán quyết và tác phong của Giáo hội La Mã. Các Giáo hoàng thời kỳ này vừa phải chống đỡ với những băng hoại từ bên trong Giáo hội, vừa phải lúng túng đối phó với tiến bộ về mọi mặt của xã hội thế tục. Giáo hoàng không còn địa vị tối cao dưới mắt nhiều cộng đồng Kitô hữu nữa.
5) Vào thế kỷ 19, dân trên bán đảo Ý bắt đầu muốn lập một nước Ý thế tục và thống nhất. La Mã dần dần trở thành thủ đô của một nước Ý đang định hình, những nước nhỏ của các đại gia trên bán đảo bắt đầu phải chịu giải thể và sáp nhập lại, trong đó Giáo hoàng là một trong những đại gia có thế lực nhất.
Giáo hội La Mã là lực lượng cuối cùng phản đối nỗ lực của người dân muốn thành lập nước Ý. Giáo hoàng Pius IX (1846-78) không công nhận vương quốc Ý, vì thế ông bị tước mọi quyền thế tục và bị đuổi khỏi lâu đài Quirinale, phải vào ở trong Vatican. Để chống lại, Pius IX tuyên bố rút phép thông công những ai đi bầu hoặc tham gia vào chính quyền Ý. Năm 1905, Pius X (1903-14) mới chính thức cho giáo dân quyền bầu cử, và phải bầu cho các đại biểu không thuộc phe xã hội. Năm 1929, không thể đi ngược với trào lưu tiến hoá nữa, Toà thánh ký Hiệp ước Lateran với nhà độc tài phát xít Benito Mussolini, giao tất cả đất đai của các Nước Giáo hoàng trên bán đảo và thành phố La Mã cho chính phủ Ý, đổi lại dân Ý công nhận Vatican là một nước độc lập có chủ quyền. Từ nay, Giáo hoàng không còn quyền sinh sát như trước, mà chú trọng nhiều hơn vào trách nhiệm tinh thần, dẫn dắt Giáo hội qua hai cuộc thế chiến của thế kỷ 20 và đối diện với những tiến bộ mới sau đó trong khoa học tự nhiên và nhân văn.
***
Vai trò của Giáo hoàng giữa trần thế và trong cộng đồng tín hữu thay đổi theo thời gian. Mối liên hệ giữa Giáo hoàng với các nhà cai trị thế tục cũng như với các tu sĩ khác trong Giáo hội thường rất phức tạp. Để tranh quyền với vị Hoàng đế đã chỉ định mình, Giáo hoàng có thể lập vây cánh với các ông vua khác. Để nắm chắc Giáo hội đi theo đường lối của mình, Giáo hoàng có thể phong thật nhiều chức Hồng y, Giám mục hay trưởng dòng tu cho phe nhóm hay gia đình mình, để chính sách và quyền lợi của phe mình sẽ được duy trì ngay cả sau khi mình qua đời.
Diễn giải thần học về vai trò của Giáo hoàng đối với các nhà cai trị thế tục cũng biến đổi theo tương quan lực lượng về chính trị-kinh tế. Với nhiều tình cờ của lịch sử, từ vai trò rất khiêm tốn ở buổi đầu còn bị bách hại, đến khi Kitô là tôn giáo thống trị trên một vùng rộng lớn, Giáo hoàng dần trở thành người có quyền chuẩn nhận tính hợp pháp thiêng liêng của các ông vua trần thế. Với tư cách là người đứng đầu Giáo hội linh thánh, Giáo hoàng phong vương cho các ông vua Công giáo, qua hành động đội vương miện lên đầu họ. Khi bị Hoàng đế chèn ép, Giáo hoàng có thể cầu cứu thế lực của ông vua nào mạnh nhất hay ở gần nhất. Khi Hoàng đế tỏ ra suy yếu, Giáo hoàng có thể lấn thêm một bước. Tranh chấp quyền lực giữa Giáo hoàng và các nhà cai trị thế tục luôn luôn phức tạp, nhưng nguyên nhân chính vẫn từ tham vọng, và kết quả chính vẫn tùy thuộc phần lớn vào sức mạnh trần thế của hai bên.
Ngày nay Giáo hoàng không chuẩn nhận tính chính thống của nhà cầm quyền thế tục nào nữa, mà chỉ là lãnh tụ tối cao của Giáo hội hoàn vũ. Ông có toàn quyền chỉ định Giám mục trên khắp thế giới, thay vì Giám mục được cộng đồng tín hữu địa phương chọn ra như thuở ban đầu. Giáo dân mất quyền chọn người dẫn dắt gần gũi với mình, nhưng toàn Giáo hội có một tiếng nói thống nhất. Trong khi đó, Giáo hoàng thường trao đổi, thương lượng với nhà nước thế tục trước khi bổ nhiệm các chức sắc của Giáo hội địa phương, và có quốc gia không công nhận quyền này của ông. Ngày nay, Giáo hoàng cũng tiếp xúc đông đảo mọi người trên khắp thế giới, kể cả người ngoại đạo.
Giáo hoàng cũng viết huấn dụ gửi Giám mục các nước, vạch đường hướng cho Giáo hội và giáo dân trên trần thế. Tín đồ có thể gặp khó khăn khi luật của hội thánh mâu thuẫn với luật của quốc gia. Khi luật của hội thánh khác với suy nghĩ và sinh hoạt trong đời sống riêng của mình, các giáo dân thường tỏ ra linh động và tùy nghi áp dụng, chẳng hạn trong vấn đề ngừa thai. Huấn dụ của Giáo hoàng thường liên quan tới các vấn đề lớn nhỏ của thời đại, như chiến tranh, khoa học, công bằng xã hội, đức tin, vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, ngừa thai, hôn nhân giữa nam nữ và giữa những người đồng tính, lời nguyện độc thân và nạn xách nhiễu tình dục của tu sĩ, sự hợp nhất với các Giáo hội Kitô khác… Ngoài ra, khi Giáo hoàng có những tuyên bố “không thể sai lầm” thì toàn thể giáo dân không được tranh biện, đến khi tuyên bố ấy bị một Giáo hoàng khác hủy bỏ.
***
Một số tín đồ Công giáo cho rằng Giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa trên trần thế nên được Chúa trực tiếp chọn ra. Do đó, lúc họp kín để bầu Giáo hoàng mới, Mật nghị Hồng y chỉ cầu xin đấng tối cao hướng dẫn họ. Tuy được thánh linh dẫn dắt, các Hồng y thường phải bầu đi bầu lại nhiều lần, và khó giải thích các cuộc vận động ngầm hay công khai bên trong và ngoài Giáo hội, trước và trong khi bầu chọn Giáo hoàng mới. Ngày nay bầu Giáo hoàng bằng cách lên tiếng tán thành không còn hợp lệ mà phải bỏ phiếu chính thức. Mật nghị Hồng y chỉ gồm các Hồng y dưới 80 tuổi. Họ không được dàn xếp ngầm, nghĩa là một số Hồng y cùng thoả thuận về một ứng viên, biết rằng các Hồng y khác sẽ chịu theo thoả thuận đó. Mọi diễn tiến liên quan đến việc bầu Giáo hoàng phải được giữ bí mật tuyệt đối, ngoại trừ kết quả của những lần bỏ phiếu. Hình thức bầu cử duy nhất là bỏ phiếu kín.
Mật nghị Hồng y họp kín, nhưng vẫn chịu áp lực của thế giới bên ngoài vì họ xuất thân từ cõi đó. Áp lực có thể từ hội thánh hay thế tục, đúng với niềm tin rằng Giáo hội là tổ chức vừa thiêng liêng vừa thuộc về con người. Vì Giáo hội mang tính thiêng liêng, nên Chúa tham dự vào quá trình lựa chọn đấng dẫn dắt con chiên có tầm quan trọng như Giáo hoàng. Vì Giáo hội mang tính con người, nên con người tham dự vào việc bầu lên Giáo hoàng. Và nơi nào có con người, nơi đó có chính trị, tư lợi và khát vọng quyền lực. Không ai biết chắc hai yếu tố linh thiêng và con người tác động nhau thế nào, nhưng đó là điều huyền bí của hội thánh.
Giáo lý Công giáo cho rằng Giáo hoàng là người kế vị Peter và đại diện của Chúa, nhưng thủ tục bầu ông lại là một thủ thuật chính trị do con người đặt ra. Hồng y đoàn lựa một số ứng viên. Ứng viên được chọn vì hình như có khả năng thích hợp với nhu cầu của thời đại, hay bị chống đối vì hình như có thể làm hại đến sứ mạng và sự tồn vong của Giáo hội. Tất nhiên, không phải lúc nào Hồng y đoàn cũng chọn được người mình muốn. Vì thế họ tính toán, chọn một ứng viên khác dễ được chấp nhận hơn hay ít bị chống đối hơn. Nhiều khi việc bầu bán kéo dài rất lâu vì các thế lực bên ngoài điều đình chưa xong. Sau khi Clement IV mất năm 1268, Mật nghị Hồng y họp ba năm ở Viterbo mới bầu được Gregory X kế vị, vì các Hồng y thuộc hai phe Pháp và Ý kình địch nhau. Nhà cầm quyền Viterbo phải nhốt họ trong cung điện, rồi giỡ mái nhà, cúp bớt lương thực và cuối cùng doạ bỏ đói họ mới chịu bầu xong. Ngược lại, năm 1503, Mật nghị Hồng y sau khi nhận hối lộ chỉ cần họp nửa buổi để bầu lên Julius II. Về sau, chính Julius II (1503-1513) quy định rằng mua chuộc bầu cử là bất hợp pháp và vô giá trị, và người được bầu là kẻ bội giáo. Năm 1975, Paul VI (1963-1978) bãi bỏ quy định vô hiệu hoá kết quả bầu cử để tính pháp lý của cuộc bầu Giáo hoàng trong quá khứ cũng như tương lai không bị đặt vấn đề vì bất cứ lý do nào.
Vì ngôi Giáo hoàng là thể chế quân chủ tuyệt đối, Giáo hội phải đối phó ra sao nếu vị Giáo hoàng làm trái với nhiệm vụ thiêng liêng của mình? Trong quá khứ, Giáo hội và các nhà cai trị thế tục, đôi khi không vì lợi ích Phúc âm, đã cách chức vĩnh viễn hay tạm thời 26 Giáo hoàng (gần 10%), kể cả phạt vạ tuyệt thông hay truất phế và giết họ mà không được sự chấp thuận rộng rãi trong Giáo hội. Giáo hoàng đầu tiên phải thoái vị là Thánh Pontian (230-235), và người bị bắt giam và truất phế gần đây nhất là Pius VI (1775-1799).
Ngày nay, giáo luật quy định ngôi Giáo hoàng chỉ bỏ trống khi Giáo hoàng qua đời, hay tự ý từ chức. Tuy nhiên, không ai có thẩm quyền nhận lời từ chức của người kế vị Thánh Peter. Giáo luật không dự tính trường hợp Giáo hoàng bị điên, hôn mê, hay quá yếu không làm nhiệm vụ được nữa. Cũng không có quy định nào khi Giáo hoàng bị nhiều người cho là theo dị giáo, hay gây ra ly giáo, hay thiếu đạo đức. Luật chỉ nói rằng Giáo hoàng luôn hợp nhất với các Giám mục và Giáo hội hoàn vũ. Hơn nữa, ai công khai phản đối Giáo hoàng trong các vấn đề về đức tin và luân lý có thể sẽ bị khiển trách và chế tài, hay bị phạt vạ tuyệt thông, hay gọi về Vatican để bị chất vấn và cấm phát biểu.
***
Chữ Latin “papa” nghĩa là cha, để chỉ Giáo hoàng. Thoạt tiên, “papa” dùng để gọi những người có uy tín và được yêu mến trong cộng đồng tín hữu ở các địa phương. Vào thế kỷ thứ 5, khoảng thời Giáo hoàng Leo I, danh hiệu “papa” bắt đầu dùng riêng cho Giám mục La Mã, một địa phận đặc biệt linh thiêng vì tông đồ Peter và Thánh Paul đã giảng đạo và qua đời ở đó. Mặc dù hãnh diện về vai trò của Peter và Paul, các Giáo hoàng thường nhìn mình chỉ dưới hình ảnh Peter. Họ thấy mình là đại diện cho Peter dưới thế gian, vicarius Petri. Ngày nay Giáo hoàng làvicarius Christus, một danh hiệu lúc đầu dùng cho mọi tu sĩ và cả nhà cai trị thế tục vì họ trông nom nhà thờ và làm nhiệm vụ dưới danh nghĩa của Chúa. Đến đầu thế kỷ 13, Innocent III mới chính thức dùng tước hiệu đó để tỏ quyền hạn cao hơn các Giám mục khác.
Trong thời Trung cổ, Giáo hoàng đôi khi tự xưng là “Giáo phụ La Mã”, về sau trở thành “Giáo phụ phương Tây” để phân biệt với “Giáo phụ phương Đông” ở Constantinople. Đến thế kỷ 19, danh hiệu này được chính thức ghi nhận trong bảng liệt kê các danh hiệu của Giáo hoàng, nhưng đến năm 2006 lại bị loại bỏ.
Ngày nay các huấn dụ do Giáo hoàng ban hành dưới tên Summus Pontifex (Cha cả). Công đồng Vatican II (1962-1965) nhấn mạnh vai trò phục vụ khiêm tốn của người cầm đầu Giáo hội, từ đó Giáo hoàng còn gọi là “tôi tớ của các tôi tớ Thiên chúa”, servus servorum Dei. Tiếng Việt dùng các danh hiệu Đức Thánh Cha, Đức Giáo tông, Đấng Giáo chủ, Giáo hoàng… để chỉ người cầm đầu Giáo hội hoàn vũ.
Trong một thế kỷ qua các Giáo hoàng đóng vai trò rất lớn trong việc định hình Giáo hội. Mười thế kỷ trước đa số tín đồ chưa chắc đã biết có ngôi Giáo hoàng, hay nghĩ rằng chức vụ đó có ảnh hưởng gì đến đức tin và tôn giáo của họ. Giữa thế kỷ 15, một phần nhờ máy in, các phái Tin Lành loan truyền rộng rãi những luận cứ gạt bỏ quyền lực của Giáo hoàng, vì thế Giáo hội Công giáo La Mã và tín đồ lại càng ủng hộ ngôi vị ấy. Nhiều giáo dân Công giáo tự xem mình là người theo chủ nghĩa giáo hoàng (papists). Từ khi Công đồng Vatican I (1869-1870) ban hành tín điều Giáo hoàng không thể sai lầm khi tuyên bố những điều liên quan tới đức tin và luân lý, địa vị của ngôi Giáo hoàng trong Giáo hội càng được củng cố vững chắc. Ngày nay, ngôi Giáo hoàng vẫn giữ vị trí quan trọng đối với Giáo hội Công giáo cũng như xã hội thế tục, một phần nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại như radio, TV, internet, phần khác vì vai trò thần học cũng như thế tục của ngôi Giáo hoàng đã bước qua một giai đoạn mới.
Tham khảo và lược dịch
Charles L. Killinger, The History of Italy, Greenwood Press, Connecticut, 2002
Richard P. McBrien, Lives of the Popes, HarperCollins Publishers, New York, 1997
John W. O’Malley, S.J., A History of the Popes, Rowman & Littlefield Publishers, Maryland, 2010
Vatican Council II – The Conciliar and Post Conciliar Documents, Austin Flannery, O.P., ed., Costello Publishing Company, New York, 1977
Encyclopedia Britannica, Inc., http://www.britannica.com
Kevin Knight, Catholic Encyclopedia, http://www.newadvent.org
Nguyễn Văn Phương et al. dịch, Bộ Giáo Luật, 1987,
Giáo hoàng học viện Piô X, Thánh Công đồng chung Vaticanô II,
The Vietnamese Priests and Seminarians in Taiwan, Tự điển thần học tín lý Anh-Việt, The Quang-chi Press, Taipei, 01/01/ 1996,http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vntudien.htm

Thứ Năm, 1 tháng 2, 2018

Giê-su Có Thực Hay Không?

... Matthew cho rằng Jesus đã sinh ra tại nhà Joseph ở Bethlehem, dưới triều đại của Herod the Great (vốn đã chết trong năm 5 hoặc 4 trước Công nguyên, BC). Luke cho rằng Ngài đã sinh ra tại một chuồng bò trong thời kỳ điều tra dân số tiến hành bởi Quirinius trong năm 6 CE - một sự khác biệt của ít nhất 9 năm!
Matthew đã không viết về điều tra dân số, và Luke đã không viết về những nhà thông thái hay Herod "tàn sát những kẻ vô tội.” Matthew và Luke không đồng ý dữ dội trên gia phả của Giê-su, thậm chí cả ông nội của Ngài. ...
Như phần lớn người dân (đặc biệt là những kẻ Ki-tô từ bé, như tôi), tôi đã luôn luôn giả định rằng Chúa Giê-su Ki-tô có thực, tuy ngài có thể không phải là thần thánh gì. Sau khi xem xét các bằng chứng trong và ngoài cuốn Bible và Ki-tô giáo thời kỳ ban sơ, cùng với những huyền thoại thời bấy giờ, tôi đã phải kết luận rằng không có bằng chứng xác đáng nào cho thấy Giê-su đã thực sự tồn tại - và bằng chứng quan trọng lại cho thấy ông là huyền thoại hoàn toàn.
Bằng chứng Kinh Thánh
Câu chuyện thường được chấp nhận về Giê-su là một mớ hổ lốn các câu chuyện chủ yếu từ các sách Phúc Âm, từ Paul và các tác giả tông đồ khác, và từ sách Khải Huyền (the book of Revelation). Trước hết, hãy tách rời các nguồn tin để xem các tác giả đã viết những gì. Làm việc này thực khó khăn bởi thực tế rằng đã có khá nhiều chỉnh sửa đáng kể, sao chép, và thậm chí giả mạo. Các tác giả, nhà biên tập và biện ký đã không đối xử với những tác phẩm ấy như là thiêng liêng bất khả xâm phạm và không thể đổi thay. Trái lại, họ thường xem những câu chuyện về Giê-su như những truyện kể có thể sửa đổi được để thúc đẩy ý đồ riêng của mình, hoặc để làm cho câu chuyện tốt hơn. [1]
Sách Khải Huyền không đưa ra hỗ trợ nào cho tính lịch sử của Giê-su và có thể bị loại bỏ dễ dàng như một nguồn đáng tin cậy, vì các cảnh giới khác thế gian đầy ảo giác của nó.
Các tài liệu tham khảo được biết đến sớm nhất về Giê-su là trong các tác phẩm của Paul (Phao-lồ, còn gọi là Saul ở Tarsus), người đã "ảo tưởng thấy" Giêsu khi ông trên đường đến Damascus. Bản ghi chép của Paul là một phần của các bức thư tông đồ, được viết sau năm 48 AD. Nếu đã có một Giê-su thực, thì Paul đã phải viết về cuộc sống và giáo lý của Ngài. Ông đã không làm vậy (ngoại trừ một vài đoạn thêm vào mà ai cũng biết). [1] Paul và các tác giả các bức thư khác - bao gồm Peter - dường như không biết bất kỳ chi tiết tiểu sử của cuộc đời Giê-su, hoặc thậm chí thời gian của cuộc sống trần gian của Ngài. Họ không đề cập đến Bethlehem, Nazareth, Galilee, Calvary hoặc Golgotha ​​- hoặc bất kỳ cuộc hành hương nào đến những nơi đáng ra thiêng liêng của cuộc đời Giê-su. Họ cũng không đề cập đến bất kỳ phép lạ mà Giê-su được cho là đã làm, lời dạy của Ngài về đạo đức, việc Chúa được trinh nữ sinh ra, việc xét xử Ngài, ngôi mộ trống, hoặc thậm chí đến các môn đệ của Chúa. [1]
Tôi thấy điều này đáng kinh ngạc! Các chi tiết cơ bản nhất mà chúng ta được nghe nói về cuộc đời Chúa Giê-su đã không được các tác giả Ki-tô giáo sớm nhất biết đến. Không phải chỉ đơn giản là họ bỏ sót những chi tiết này. Có rất nhiều chỗ Paul và những người khác có thể đã nhắc nhở đến các môn đệ hay dùng thẩm quyền đạo đức của Chúa Giê-su để tô đậm quan điểm riêng của họ, nhưng họ đã không làm vậy. [1] Lời giải thích đơn giản là những chi tiết này đã chưa xuất hiện, và sẽ không tồn tại cho đến khi các sách Phúc Âm được viết khoảng hai mươi năm hoặc hơn sau đó.
Đối với các tông đồ viết thư, thì Giê-su dường như đã có ít hoặc không tồn tại trên trần thế. [2] Paul là một nhân chứng cho sự tồn tại thực của Giê-su, lại nói một cách rõ ràng rằng ông chưa bao giờ gặp Chúa Giê-su, nhưng chỉ thấy Ngài trong "ảo ảnh". Paul và Peter ám chỉ mình là tông đồ (sứ giả - apostles), chứ không phải là môn đệ (kẻ đi theo bên thầy - disciples). Paul cho biết ông không thua kém các "siêu tông đồ" vốn rao giảng về một Chúa Giê-su khác (2 Corinthians 11:05 và 12:11), và rõ ràng ông đã chống đối với Peter (Galatians 2:11) – điều này không có nghĩa là Peter đã thực sự kề cận Chúa Giê-su. Paul cũng mô tả "ảo ảnh" của cả hai, mình và Peter, về Chúa Giê-su bằng cách sử dụng cùng một từ. [1] Điều này có nghĩa rằng Paul không nghĩ rằng Peter đã đi theo một Chúa Giê-su trần thế, nhưng (cũng như ông) một ông thần linh cứu thế trên trời, mà chỉ có thể biết được qua sự mặc khải. Vị cứu thế này là một người trung gian tinh thần giữa Thiên Chúa trên trời và con người dưới đất. Paul thậm chí thừa nhận rằng tất cả các ý tưởng của mình đến từ mặc khải và không từ bất kỳ người nào. [3] Nói cách khác, ông đã sáng tác ra hoặc lấy cảm hứng từ Thánh Kinh của người Do Thái (Jewish Scripture) và các tôn giáo khác. Hai đại biểu chính là Zoroastrianism và Mithraism, vốn có một trung tâm tại quê của Paul ở Tarsus.
Thánh Kinh Do Thái là nguồn chính cho Paul [1], có lẽ qua bản dịch tiếng Hy Lạp (gọi là Septuagint) [4]. Ông cho rằng sự hiện hữu trên trời của một kẻ tiên tri đã được tiết lộ cho ông bởi Thiên Chúa (Galatians 1:16) và trong Kinh Thánh, với Giê-su như là người trung gian tinh thần giữa Thiên Chúa trên trời và con người trần thế - không phải là một người sống ở thời gian vừa qua, nhưng như là một bí ẩn được che giấu trong nhiều thời đại đã qua [5], hoặc sẽ được tiết lộ. [6] Phao-lô thường ám chỉ Giê-su là "Đức Cứu thế - Ki-tô" (một thuật ngữ tâm linh). Ngay cả tên "Giê-su" xuất hiện đến 218 lần trong bản dịch Septuagint, vì vậy nó không phải là một tên mới cho những người quen thuộc với bản dịch [4]. Paul cũng không hề chỉ rõ ngay cả cuộc đời của Giê-su, cái chết hy sinh và sự sống lại xảy ra lúc nào, nhưng toàn ngụ ý rằng các sự kiện ấy đã từng xảy ra trong quá khứ tâm linh. Ông cũng đổ lỗi cho cái chết của Chúa Giê-su là do ác quỷ, không phải là do người Do Thái hay người La Mã như trong các sách Phúc Âm. Khái niệm về một vị cứu thế tòan vẹn, chịu hy sinh, bị làm nhục của Paul rút ra từ Isaiah 52-53 và Daniel 9. [1] Ý tưởng này đã giúp làm cho Ki-tô giáo phổ biến hơn trong các tầng lớp thấp kém trong hai thế kỷ đầu. Họ có thể đồng hóa với một người chân chính bị đóng đinh một cách bất công bởi giai cấp cầm quyền đáng khinh, nhưng người này cuối cùng đã chiến thắng. [7]
Một vấn đề khác với Paul là "ảo ảnh" nổi tiếng của ông về Giê-su có tất cả các dấu hiệu của một cơn động kinh não. Chúng ta biết rằng bệnh động kinh có thể gây ra ảo ​​tưởng tôn giáo, hyperreligiosity (mối quan tâm quá mức với tín ngưỡng), hypersexuality (quan tâm thái quá với vấn đề tình dục), và hypergraphia (một sự thôi thúc áp đảo để viết). Đây là tất cả các đặc tính có thể được dùng để mô tả Paul, như được tiết lộ trong các bức thư của mình. Có lẽ động kinh là "cái gai - thorn" đã dày vò ông, mà ông đề cập đến trong 2 Corinthians 12:7. Chúng tôi cũng có thể nói rằng người ta đã buộc tội Paul nói dối, bởi vì ông đã cố gắng bảo vệ mình trong Rô-ma 3:5-8.
Những tham khảo Kinh Thánh chính về Giê-su là từ các sách Phúc Âm, được viết bởi cá tác giả vô danh sau năm 70 CE (và rất có thể nhiều thập kỷ sau). Trong một xã hội bán khai và mê tín dị đoan, đó là một thời gian dài sau khi cuộc sống giả định của Giê-su - một thời gian dài cho huyền thoại phát triển. Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng đề cập đến đầu tiên của những gì chúng ta gọi là các sách Phúc Âm là do Papias trong khoảng năm 140 CE [8], tuy ông ta chỉ ám chỉ các cuốn Mark và Matthew. Tất cả bốn sách Phúc Âm lần đầu tiên được nêu tên vào năm 180 CE, bởi Irenaeus của thành Lyons. [8]
Mark là cuốn Phúc Âm sớm nhất. Nó sai ngữ pháp [9] và phản bội tác giả của nó về sự thiếu kiến thức về địa lý và tình hình xã hội của Palestine - cho thấy rằng tác giả không phải là người địa phương. [8], [10] Luke sao chép các lỗi về địa lý (Luke 8), trong khi Matthew thay đổi vị trí và số lượng những người đàn ông (Matthew 8). [8] Tác giả của cuốn Mark cũng đã sai lầm khi cho Giê-su trích lời từ bản dịch tiếng Hy Lạp của Thánh Kinh Do Thái (the Septuagint), thay vì từ bản tiếng Do Thái gốc. [8] Cả Mark và John bắt đầu với chuyện Giê-su đã là một người đàn ông trưởng thành - không có chuyện sinh ra từ đồng trinh, ngôi sao kỳ diệu, hay những câu chuyện thời thơ ấu khác. Một trường hợp mạnh mẽ có thể được nêu ra là phúc âm của Mark đã được viết như một lối kể lại của sử thi Homer. [11]
Các sách Phúc Âm của Matthew và Luke không đồng ý với năm và các chi tiết khác của Chúa Giê-su giáng sinh, bao gồm cả dòng dõi của Ngài. Matthew cho Ngài đã sinh ra tại nhà Joseph ở Bethlehem, dưới triều đại của Herod the Great (vốn đã chết trong năm 5 hoặc 4 trước Công nguyên, BC). Luke cho rằng Ngài đã sinh ra tại một chuồng bò trong thời kỳ điều tra dân số tiến hành bởi Quirinius trong năm 6 CE - một sự khác biệt của ít nhất 9 năm! Matthew đã không viết về điều tra dân số, và Luke đã không viết về những nhà thông thái hay Herod "tàn sát những kẻ vô tội.” Matthew và Luke không đồng ý dữ dội trên gia phả của Giê-su, thậm chí cả ông nội của Ngài. (Matthew 1:16, Luke 3:23).  Thêm vào đó, các danh sách trong Matthew và Luke khác nhau từ 1 Chronicles 3. Lưu ý rằng ngay cả bản liệt kê tổ tiên nam của Chúa Giê-su không phù hợp với học thuyết của một trinh nữ sinh ra (điều đã được thêm vào sau đó trong quá trình huyền thoại hóa). Một số nhà biện giải cho rằng Luke liệt kê gia phả của Bà Maria, nhưng đó là điều không thể được bởi vì Bà Maria không được đề cập đến và vì vào thời điểm đó người ta nghĩ phụ nữ không đóng góp bất kỳ vết di truyền nào cho một em bé, nhưng được coi như là một cánh đồng màu mỡ cho hạt giống (tiếng Hy Lạp: "tinh trùng”) được gieo trồng.
Nếu các sách Phúc Âm được viết bởi những chứng nhân​​, tại sao họ chờ đợi quá lâu và tại sao họ không mô tả về Chúa Giê-su? Tại sao các sách Phúc Âm được viết chủ yếu dưới dạng người thứ ba (như một câu chuyện), thay vì dưới dạng người đầu tiên? Các sách Phúc Âm thường trích dẫn tư tưởng hay lời nói của Chúa Giê-su khi ông ở một mình hoặc với người khác. Đây là những ví dụ về những câu chuyện hư cấu, không lịch sử. Tại sao các sách Phúc Âm của Matthew và Luke lại đạo văn của Mark (và thêm những câu chuyện thời thơ ấu)?  Trong 666 câu gốc của Mark, thì 600 xuất hiện trong Matthew (với ngữ pháp cải thiện), khoảng 300 trong Luca. [9] Phúc âm của Matthew lại kỳ quặc đề cập đến Matthew ở ngôi thứ ba. Phúc âm của Luke nói rằng nó đã được viết như sự kể lại những câu chuyện trước. Phúc âm của John cũng kỳ quặc ám chỉ đến tác giả của nó lại ở ngôi thứ ba, và hầu như không đề cập gì đến Chúa Giê-su như là một người thực có một cuộc sống thực. Cũng như Paul, tác giả đã xem Chúa Giê-su phần lớn là một ông thần trời.
Chúng ta biết rằng các sách Phúc Âm đã được thay đổi theo thời gian, với các chỉnh sửa và lỗi của các biện ký (transcribers), và thậm chí sai biệt trọng yếu giữa các bản dịch khác nhau. [8] Các học giả Kinh Thánh đã chỉ ra rằng mười hai câu thơ cuối của Mark (16:9-20) đã được thêm vào trong thế kỷ thứ hai, hình như cung cấp thêm các hoạt động của Chúa Giê-su sau khi sống lại. Những câu chuyện về Chúa Giê-su và phụ nữ ngoại tình (một chuyện tôi yêu thích bởi vì nó dạy bảo trách nhiệm cá nhân) không có trong phúc âm ban đầu của John. Bằng chứng cho thấy rằng nó có thể đã được thêm vào trong thời Trung Cổ. [12]
Tại sao chúng ta phải tin vào các tác giả và biện ký vô danh của các sách Phúc Âm? Làm thế nào để chúng ta biết rằng họ không phải là lập dị hoặc cố ý viết tiểu thuyết? Thậm chí chúng tôi có thể nói rằng các tác giả đã cố gắng làm trọn cho hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh (Do Thái), bởi vì họ đã nhận thấy nó sai ở nhiều nơi: [13]
Giê-su sinh ra tại Bethlehem (không đúng) cho hợp với Micah 5:2.
Matthew và Luke không đồng ý về gia phả của Giê-su, và tương tự với sự ra đời đồng trinh. Mẹ Maria là một trinh nữ (không đúng) cho hợp với Isaiah 07:14.
Gia đình của Giê-su đã đi đến Ai Cập (không đúng) cho hợp với Hosea 11:1.
Herod đã “giết hại những người vô tội" (không đúng) cho hợp với Jeremiah 31:15.
Giê-su từ Nazareth tới (không đúng) cho hợp với Judges 13:05.
Trong ngày lễ lá (Palm Sunday) Giê-su không thể nào cưỡi hai con vật cùng một lúc (không đúng) cho hợp với Zechariah 09:09.
Bàn tay và bàn chân của Giê-su đã bị đóng đinh trên thập tự giá (không đúng) cho hợp với bài Thánh Vịnh Psalm 22:16.
Judas đã được trả 30 đồng bạc (không đúng) cho hợp với Zechariah 11:12.
Thậm chí có bằng chứng đáng tin cậy rằng tại thời điểm của Giê-su Nazareth đã không có người ở. [8], [14], [15] Trong một nỗ lực để chứng minh rằng Chúa Giê-su hoàn thành lời tiên tri Kinh Thánh (Do Thái), tác giả vô danh của Matthew dường như nhầm lẫn "Nazareth" và "Nazarene" (một người từ Nazareth) với "Nazirite" (một người đàn ông sống riêng và đã thực hiện một lời thề kiêng khem). [13]
Những sai sót này không quá ngạc nhiên nếu bạn nhận ra rằng tiếng mẹ đẻ của các tác giả có lẽ là tiếng Aram, còn (Cựu Ước) Kinh Thánh có gốc gác bằng tiếng Hebrew (Do Thái), và họ đã viết các sách Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp.
Tất cả điều này loại bỏ các sách Phúc Âm như bất kỳ chuyện kể của nhân chứng đáng tin cậy. Để hiểu rõ thêm về độ tin cậy của phép lạ hoặc những nhân chứng​​, đây là các lời trích hữu ích:
“Không có đủ bằng chứng để thiết lập một phép lạ trừ phi sự dối trá của lời chứng rằng có như vậy còn mang nhiều phép lạ hơn so với nỗ lực để thiết lập thực chứng.”
- David Hume , Trong Miracles (1748 )
“Có nhiều khả năng rằng sự tự nhiên đã đi lạc ra ngoài các quá trình diễn tiến, hoặc con người nói dối? Chúng tôi chưa bao giờ thấy, trong thời đại chúng ta, tự nhiên đã đi lạc ra ngoài các quá trình diễn tiến, nhưng chúng tôi có lý do vững chắc để tin rằng hàng triệu lời nói dối đã được kể lại trong cùng thời, do đó, đã có ít nhất là hàng triệu đối một, là kẻ kể lại một phép lạ nói dối."
- Thomas Paine, The Age of Reason (1794 )
"Đó là một thực tế lịch sử và các sự kiện đồng thời rằng con người phóng đại, hiểu sai, hoặc nhớ sai sự kiện. Họ cũng đã giả mạo gian lận đạo đức. Hầu hết các tín đồ trong một tôn giáo hiểu rõ điều này khi kiểm tra những xác quyết của các tôn giáo khác."
- Dan Barker [16]
Nhà nghiên cứu lịch sử Ki-tô giáo David Fitzgerald đã viết, "Trong các tác phẩm Ki-tô giáo ban sơ, như bảy bức thư chân thật của Paul, Đức Ki-tô là một nhân vật tâm linh tiết lộ trong Kinh Thánh Do Thái, chứ không phải là một nhân vật lịch sử gần đây. Nhiều thập kỷ sau đó, tác giả vô danh của những gì chúng ta gọi là "Phúc Âm theo Mark” đã viết một câu chuyện ẩn dụ về Chúa Ki-tô thần thoại này trong xứ Judea trước chiến tranh, vay mượn từ nhiều họa tiết tôn giáo và văn học cổ đại. Ý tưởng về một Chúa Cứu thế đến trần gian không thể cưỡng lại được, về sau tín đồ Ki-tô thích câu chuyện và không thể không tự ý sửa chữa, bổ sung văn bản của 'Mark', biến một sáng tạo hoàn toàn văn học thành cơ sở tiểu sử tưởng tượng của riêng họ. Hàng chục các sách Phúc Âm được viết, và vài thế kỷ sau đó bốn cuốn được lựa chọn cuối cùng để tạo thành cuộc mở đầu cho bộ Tân Ước quen thuộc của chúng ta." [17]
Một số tín đồ Ki-tô tiên khởi thậm chí thừa nhận nguồn gốc thần thoại của Ki-tô giáo. Tranh cãi với những người tà đạo đa thần (pagans) khoảng năm 150 CE, Justin Martyr nói: "Khi chúng tôi nói rằng Lời Chúa (Ngôi Lời), là đứa con đầu của Thiên Chúa, được sinh ra mà không cần giao hợp tính dục, và rằng chính Ngài, Chúa Giê-su Ki-tô, người thầy của chúng tôi, đã bị đóng đinh và chết, và sống lại, và lên trời; chúng tôi đề xuất không có gì khác với những gì quí vị tin liên quan đến những người mà quí vị coi trọng, các con trai của thần Jupiter  (Zeus)." [16]
Những câu chuyện về Giê-su sặc mùi thần thoại, với phép thuật được thêm vào như là những câu chuyện được lập lại theo thời gian. [16] Nếu các Ki-tô hữu đầu tiên nghĩ về Chúa Giê-su như một thần linh trên trời, sự xuất hiện của Ngài trong các sách Phúc Âm sau đó như là một người sống thì phải là một sáng tạo hư cấu.
Một số người cho rằng nhiều người trong số các môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu đã chết cho niềm tin của họ, và điều này chứng tõ rằng Chúa Giê-su đã phải tồn tại và thần thánh. Tuy nhiên, chúng tôi thậm chí không biết nếu các môn đồ (của Giê-su) đã tồn tại, và càng mù mờ việc họ đã qua đời như thế nào. Tất cả các thông tin về họ xuất phát từ các câu chuyện về sau và Kinh Thánh, mà chúng tôi đã nhìn thấy có rất nhiều vấn đề. Ngay cả khi những câu chuyện về các tông đồ là đúng sự thật, họ đã có thể dễ dàng bị hoang tưởng hoặc điên cuồng.
Các Tôn Giáo và Thần Thoại Khác Cùng Thời
Nghiên cứu các tôn giáo khác và những huyền thoại cùng thời, và các phiên bản cạnh tranh nhau (không chính thống) của Ki-tô giáo, thực là rối rắm bởi thực tế là nhiều văn bản và tài liệu tham khảo không được sao chép hoặc đã bị phá hủy bởi các tín đồ Ki-tô cuồng tín (đặc biệt là trong thờ kỳ đốt sách ở thế kỷ thứ tư và thứ năm). Một khi một giáo phái Ki-tô giáo đã đạt được quyền lực chính trị tuyệt đối dưới thời Hoàng đế Constantine trong thế kỷ thứ tư, đối thủ bị buộc phải khuất phục bởi mối đe dọa của cái chết, nhà tù, hoặc tịch thu tài sản. [7]
Ki-tô giáo có nhiều điểm tương đồng với những gì chúng ta biết về các tôn giáo trước đó từ Hy Lạp, Ba Tư, Ai Cập và vẫn còn những nơi khác - và như thế không có nghĩa là duy nhất. Có hơn một chục vị thần và vị cứu thế khác (Mithra, Osiris / Serapis, Inanna / Ishtar, Horus, Perseus, Bacchus, Attis, Hermes, Adonis, Hercules / Heracles, Tammuz, Asclepius, và Prometheus), những vị đã sống lại sau cái chết bạo lực. Nhiều vị thần trong số này đã có ngày sinh của họ được báo trước bằng các vì sao, đã có một người mẹ đồng trinh và cha thần thánh (hoặc những lối sinh kỳ diệu khác), hoặc có bạo chúa tìm cách giết họ khi còn sơ sinh. Hai ngày lễ Ki-tô giáo chính đã được kết hợp từ các nghi lễ ngoại giáo trước đó và các lễ hội. Phục sinh (gần xuân phân, và với các biểu tượng khả năng sinh sản của thỏ và trứng) được đặt tên theo nữ thần Eostre của ngoại đạo Anglo-Saxon. Giáng sinh trước đây là lễ hội Saturnalia của La Mã (giành cho thần Saturn), và hơn một chục vị thần được sinh ra vào ngày 25 tháng 12 (đông chí cũ, khi mặt trời được "tái sinh" và bắt đầu vươn lên bầu trời) - Giê-su, Mithra, Zeus / Jupiter, Horus, Attis, Dionysus, Adonis, Tammuz, Hercules / Heracles, Perseus, Bacchus, Apollo, Helios, và Sol Invictus.
Mithra đã có hầu hết các điểm tương đồng với Giê-su. Mithra được sinh ra trong những hoàn cảnh rất khiêm tốn với các mục tử canh chừng, có mười hai môn đệ (như trong mười hai dấu hiệu của hoàng đạo), khiến người chết sống lại, thường được miêu tả với một vầng hào quang, và được gọi là "Ánh sáng của thế giới - The Light of the World" và "Đấng Chăn Chiên - The Good Shepherd." Sau khi ông qua đời, ông đã tham gia cùng Thiên Chúa để phán xét các linh hồn của người chết. Qua Ngài, tội nhân có thể được tái sinh vào sự sống đời đời. Vì Mithra là một vị thần mặt trời, ông được tôn thờ vào các ngày chủ nhật. Những tín đồ theo ông đã có bữa ăn nghi lễ bánh và rượu, biểu tượng cho xương và thịt của Ngài. Không ngạc nhiên Mithra giáo (Mithraism) tàn lụi dần khi Ki-tô giáo lan rộng.
Cổ tục Kitô giáo về Thánh Thể - Eucharist (với bánh và rượu) có thể đã được bắt nguồn từ Mithra giáo bởi Paul, bởi vì việc uống máu trong Do Thái giáo luôn luôn là một điều ghê tởm.
Nhà thủ cựu Robert M Price trước đây đã viết, "Trong phác thảo và trong chi tiết, đời sống của Chúa Giê-su được mô tả trong các sách Phúc Âm tương đồng với Huyền thoại Nguyên mẫu Anh hùng trên toàn thế giới (worldwide Mythic Hero Archetype), qua đó sự ra đời của một anh hùng thần thánh đã được dự đoán và thụ thai một cách siêu nhiên, đứa trẻ anh hùng thoát khỏi mọi nỗ lực tìm giết ông ta, ngay khi còn là một đứa trẻ đã lộ rõ sự khôn ngoan sớm phát triển của mình, nhận được một sự ủy thác thần thánh, đánh bại ma quỷ, chiến thắng được ca ngợi, được xưng tụng là vua, sau đó bị phản bội, mất dần sự quí mến của quần chúng, bị hành xử, thường là trên một đỉnh đồi, rồi được minh oan và được đưa lên thiên đàng. " [18]
Bằng chứng ngoài Kinh Thánh
Đối với tính lịch sử ngoài Kinh Thánh của Giê-su, thì hoàn toàn không có bằng chứng đương thời đáng tin cậy rằng Ngài đã từng sống bao giờ. Không có một ghi chép nào về Ngài trong bất kỳ sử ký của thế kỷ thứ nhất. Nếu Giê-su đã tồn tại hoặc nếu những sự kiện ngoạn mục trong các sách Phúc Âm thực sự xảy ra, họ sẽ được ghi nhận bởi nhiều văn gia - trong đó có Philo của thành Alexandria (đã viết rất nhiều về xứ Judea trong thời gian cho là có Chúa Giê-su), Seneca the Elder, Pliny the Elder, Justus của Tiberius, và hơn ba mươi người khác. [8], [17] Không ai trong số những người này nhắc gợi đến Giê-su hay các sự kiện tưởng tượng trong Kinh Thánh. Các tài liệu tham khảo ngoài Kinh Thánh sớm nhất nhắc đến Giê-su hay Chúa Cứu thế Ki-tô nằm trong một đoạn và một câu trong các tác phẩm (khoảng 93 CE) cho là từ sử gia Do thái Josephus Flavius ​​(người cũng đã viết về Hercules). Dưới đây cho là những tài liệu tham khảo, trong cuốn Thời Cổ Đại Do Thái (The Jewish Antiquities) của ông:
18.3.3 - "Khoảng thời gian này có Giê-su, một người đàn ông khôn ngoan, nếu thực sự người ta phải gọi ông ta là một người đàn ông. Vì ông là một trong những người thực hiện những hành động đáng ngạc nhiên và là một thầy dạy của những người hài lòng chấp nhận sự thật như vậy. Ông đã giành được cảm tình của nhiều người Do Thái và nhiều người Hy Lạp. Ông là Đấng Cứu Thế. Và khi có những lời buộc tội của những kẻ thủ phạm chính giữa chúng ta, Pilate đã kết án Ngài trên thập tự giá, những người đến lần đầu yêu thương Ngài đã không sút giảm. Ngài xuất hiện trước họ trong ngày thứ ba sống lại, vì các tiên tri của Thiên Chúa đã báo trước những điều này và hàng ngàn chuyện tuyệt vời khác về Ngài. Và bộ tộc của các Kitô hữu, được gọi theo Ngài như vậy, vẫn còn cho đến ngày nay không biến mất."
20.9.1 - " ... đưa ra trước họ người anh em của Giê-su, người được gọi là Chúa Cứu thế, tên là James ... "
Câu cú quả là quá ngắn để có nhiều ý nghĩa. Cụm từ "người được gọi là Chúa Cứu thế” vụng về và có thể đã được chèn vào bởi một biện ký. Thêm vào đó, một vài dòng sau Josephus đề cập đến Giê-su, con trai của Damneus. Đây có thể là ám chỉ Giê-su đề cập đến trong câu. [17] Đoạn này trông giống như nói về tất cả mọi thứ một tín đồ Ki-tô có thể trông ngóng, để chứng minh rằng Giê-su thực sự tồn tại. Thật không may, rõ ràng đó là một câu chèn nhét về sau - gần như chắc chắn được tạo ra bởi "sử gia nhà thờ" Eusebius, người đầu tiên đề cập đến nó ngay trước khi Công đồng Nicea của Hoàng đế Constantine vào năm 325 CE. Chúng tôi biết điều này vì nhiều lý do:
Mặc dù tác phẩm của Josephus đã được đọc rộng rãi, không một tín đồ Ki-tô hoặc học giả trước Eusebius đề cập đến nó, đặc biệt là không phải học giả Ki-tô giáo Origen, mà Eusebius sử dụng thư viện của ông. [8], [17]
Origen thậm chí đã viết rằng Josephus không tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. [8]
Nếu người ngoan đạo Do Thái Josephus đã thực sự nghĩ rằng Chúa Giê-su là Đấng Thiên Sai, thì ông đã trở thành một tín đồ Ki-tô.
Nó không chắc rằng Josephus gọi người Do Thái cáo buộc là "những kẻ thủ phạm chính giữa chúng ta."
Chưa bao giờ có một "bộ tộc của các Kitô hữu."
Văn bản tác phẩm của Josephus vẫn còn tồn tại, mà lại thiếu đề cập đến Giê-su. [8]
Phong cách của đoạn văn hoàn toàn khác triệt để với phần còn lại của tác phẩm của ông. Đoạn văn đã được tách ra khỏi ngữ cảnh với các câu đoạn xung quanh nó, và làm gián đoạn dòng câu chuyện. Đoạn tiếp theo khởi đầu, “Cùng thời cũng xảy ra một tai họa buồn thảm đưa dân Do Thái vào rối loạn..." Đoạn này ám chỉ đến đoạn trước, nơi Pilate đã cho binh lính của mình tàn sát một đám đông lớn của người Do Thái ở Jerusalem.
Josephus đã viết rộng rãi về nhiều dân thiểu số vào giai đoạn ấy. Một đoạn và câu duy nhất cho Đấng Cứu Thế không hề xảy ra.
Nếu xóa bỏ hai tài liệu tham chiếu giả này ra khỏi tác phẩm của Josephus, ông trở thành bằng chứng tiêu cực mạnh mẽ nói về Giê-su. Nếu Giê-su đã tồn tại, Josephus đã phải viết nhiều về Ngài.
Có một số tài liệu được cho là tham chiếu ở thế kỷ thứ hai về tín đồ Ki-tô hoặc Chúa Ki-tô – bởi một số người. Trong khoảng năm 100 CE, Pliny the Younger nói đến tín đồ Ki-tô ở Tiểu Á, nhưng ông đã không đề cập đến Giê-su. Tài liệu tham chiếu sử dụng nhiều nhất về tín đồ Ki-tô từ thế kỷ đó do sử gia La-Mã Cornelius Tacitus (55-120 CE). Ông tự nhận là đã viết khoảng năm 117 CE về "Christos" bị hành quyết bởi Pontius Pilate. Tuy nhiên Tacitus đã sử dụng tên của Giê-su, mà không phải danh hiệu tôn giáo "Christos”. Đáng chú ý là tham chiếu của Tacitus không được đề cập bởi Origen, Eusebius, Tertullian (những người trích dẫn rất nhiều từ Tacitus [8]) hoặc Clement của Alexandria trong thế kỷ thứ ba. Nó có thể đã được thêm vào trong năm 1468 bởi Johannes de Spire của Venice, bởi vì không có đề cập nào như thế được thực hiện trong bất kỳ văn bản được biết đến trước đó, nhưng có rất nhiều tham chiếu sau đó. [8], [19] Một văn gia, Suetonius, trong khoảng 120 CE gọi một người tên là Chrestus và những đồ đệ người Do Thái của ông ta. Tuy nhiên, "Chrestus" là dạng Latin chính xác của một tên thực Hy Lạp, và không phải là một lỗi chính tả của "Christos."
Ngay cả nếu tài liệu tham chiếu của Josephus, Tacitus, và những người khác trong thế kỷ thứ hai là nguyên gốc, chúng cũng chỉ là chứng cứ hạng hai hoặc tin đồn được viết 60 năm hoặc nhiều năm sau khi các sự kiện chủ định được mô tả, hoặc chỉ đơn giản đề cập đến niềm tin Ki-tô giáo của thời bấy giờ. Thực tế là các tín đồ Ki-tô hiện đại phải dựa vào các tài liệu tham chiếu giả định này đã minh thị cho sự yếu ớt của luận điệu về một Chúa Giê-su Ki-tô lịch sử.
Một số người nghĩ rằng tấm vải liệm Turin là bằng chứng cụ thể cho sự tồn tại của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, phân tích khoa học cho thấy rằng tấm vải liệm là giả mạo. Nó chỉ ra một người đàn ông có hai phân (inch) cao ở phía trước hơn ở phía sau, "máu" của tấm vải thực sự là đất son màu đỏ sắc tố (máu thực sự sẽ là màu đen), và nó được định vị carbon khoảng từ 1260-1390 CE (phù hợp với khi nó được đầu tiên "phát hiện" vào năm 1357). Thực là lố bịch khi nghĩ rằng tấm vải liệm đã được giấu kín trong hơn 1300 năm cho đến khi quân thập tự viễn chinh đến Trung Đông tìm kiếm đồ lưu niệm để mang về nhà (giống như hầu hết khách du lịch). Một số đầu nậu làm đồ giả đã có khả năng thực hiện cả một bó.
Nó có thể là "Câu Chuyện Vĩ Đại Nhất Được Kể Từ Trước Đến Nay - The Greatest Story Ever Told” thuần túy chỉ là một câu chuyện? Một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử chỉ là một huyền thoại? Có hàng tỷ người tin vào một Chúa Cứu Thế hư cấu? Đã có người chết cho đức tin Ki-tô giáo của họ một cách vô ích? Điều này không phải là quá xa vời, mọi người luôn tin những lời nói dối trong mọi thời kỳ, và thậm chí giết hoặc chết cho chúng hoặc cho tôn giáo của họ. Nhìn vào Jonestown, Cổng Thiên đàng (Heaven's Gate), Đền thờ Mặt trời (the Solar Temple), 11/9, các tên đánh bom tự sát, và gần như vô số các cuộc chiến tranh và tàn sát dựa hoàn toàn vào tôn giáo.
Bởi vì tâm trí của nhiều người bị nhiễm độc tôn giáo, họ không muốn đặt câu hỏi về sự tồn tại của vị cứu tinh hay tiên tri của họ. Tôn giáo khiến cho người ta chấp nhận những ý tưởng bất hợp lý với ít hoặc không có bằng chứng. Nếu tôi nói rằng que kem chuối có thể làm cho mọi người tàng hình, hầu hết mọi người có thể sẽ yêu cầu một ít bằng chứng. Nhưng, một cuốn sách rất cũ mô phỏng huyền thoại khác của thời đại và nói rằng 2000 năm trước, có một gã được sinh ra với một con ma là cha mình và một trinh nữ là mẹ mình, gã này đã làm phép lạ, đã bị giết chết, đã sống lại, và thăng lên trời - và hàng tỷ người chấp nhận câu chuyện dường như không mảy may thắc mắc.
Vì vậy, hãy nhìn vào những bằng chứng chúng ta có. Từ các tác giả bức thư tông đồ Ki-tô giáo sớm nhất như Paul, chúng ta có rất ít để cho thấy rằng Giê-su là một người thực sự. Và, chúng ta có bằng chứng mạnh mẽ rằng ông chỉ là một thần linh trên trời, được xây dựng từ những huyền thoại trước đó. Từ các văn gia sau này (và vô danh) của các sách Phúc Âm, chúng ta có một câu chuyện lớn theo thời gian, với các sự kiện không tưởng được thêm vào như câu chuyện đã được kể đi và kể lại - chỉ là một huyền thoại. Ngay cả không ai trong số các tác giả phúc âm tuyên bố đã gặp Giê-su. Từ các nhà sử học của thế kỷ thứ nhất, chúng ta không có gì. Chẳng có gì.
Để biết thêm về tính lịch sử Ki-tô giáo và chủ nghĩa vô thần, xem
Bản quyền © 2009, 2010, 2011.43
Mark W. Thomas.