Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

"Truyền giáo qua hôn nhân của con cái"

Phát triển tín đồ là quyền của mọi tôn giáo, tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, phát triển tín đồ bằng hôn nhân, và ép buộc con trẻ sinh ra khi chưa có nhận thức về bản chất tôn giáo mà chúng sẽ theo đuổi?. Đó có phải là tự do tôn giáo hay cưỡng ép tôn giáo, phát triển tôn giáo qua thủ đoạn "hôn nhân" là vi phạm quyền tự do hôn nhân và tự do theo và không theo tôn giáo nào của bất kỳ công dân nào. TG & DT đăng lại bài viết trên Vietcatholic.org để bạn đọc tường minh về những "thủ đoạn" cải đạo kém văn minh của một tổ chức tôn giáo lớn nhất hành tinh.
Sáng chúa nhật 24.10, ngày Khánh nhật Truyền giáo. Tổng giáo phận Huế tổ chức gặp mặt các thành phần HĐGX theo từng Hạt. Riêng hạt Thành phố Huế được tổ chức tại giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp ( Dòng Chúa Cứu thế Huế ).


Khai mạc với thánh lễ đồng tế sốt sắng và trang trọng, sau là chương trình gặp gỡ và thảo luận tại Nhà Mục vụ giáo xứ với sự tham dự của cha Chưởng ấn Antôn Dương Quỳnh cũng là quản xứ chính tòa Phủ Cam kiêm quản hạt thành phố Huế, cha G.B Lê Thanh Hoàng đặc trách Ban Truyền giáo, cha G.B. Nguyễn Minh Sang bề trên DCCT Huế, cha Emilianô Đổ Minh Liên dòng Thánh Tâm Huế và quý cha đặc trách giáo lý hạt thành phố Huế, với sự tham dự của gần 200 thành viên các HĐGX thuộc hạt thành phố.


Buổi gặp gở đồng thời thảo luận đề tài “Truyền giáo qua hôn nhân của con cái”. Đây là một đề tài nóng hổi mà đã xảy ra gây nhiều trăn trở trong các gia đình tại rất nhiều giáo xứ.


Mở đầu chương trình, cha Antôn Dương Quỳnh chia sẽ: “ Sau 3 năm cần mẫn rao giảng tin mừng nước trời cho lương dân. Trước khi về trời, Chúa Giêsu quy tụ các môn đệ và nói: “Các con hãy đi khắp nơi, loan truyền lời Chúa cho mọi loài thụ tạo. Này Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tân thế”. 


1/ Khi chọn các tông đồ,


Chúa Giếu nói: “Hãy đi theo Ta, Ta sẽ biến các con trở nên những kẻ chài lưới linh hồn người ta”. Khi dạy các tông đồ, Ngài nói: “Lúa chin đầy đồng, các con hãy xin chủ sai thợ đến gặt lúa”. Khi dạy về đàn chiên, Ngài nói: “Còn có những con chiên khác không thuộc đàn chiên này, ta cũng phải đưa chúng về, để chỉ có một đàn chiên và một chủ chăn”.


Giáo hội nhận ra rằng, mục đích của Chúa Giêsu thành lập Giáo hội là để giáo hội tiếp tục rao giảng Tin mừng của Ngài.


2/Bản chất của giáo hội là Truyền giáo: 


Nếu không truyền giáo, giáo hội sẽ mất lý do tồn tại trên thế gian này. Một giáo hội không phát triển có nghĩa là giáo hội ấy đang chết.

Ý thức được mệnh lệnh quan trọng ấy của Chúa Giêsu, giáo hội đã nhiệt tâm truyền giáo bằng nhiều hình thức khác nhau:

- Hình thức Thừa sai: gởi tín hữu đến một vùng, chung sống và hòa nhập với người bản địa. Sử dụng tiếng nói của họ để loan báo Tin mừng.

- Hình thức truyền giáo bằng việc rao giảng tin mừng cho một khu dân cư, thành lập giáo đoàn. Sau đó tiếp tục đi nơi khác.

- Hình thức mở trường học, trạm y tế, bệnh việnđể giới thiệu lòng nhân ái của Chúa đối với lương dân.

- Hình thức truyền giáo qua văn chương, báo chí, truyền hình.

- Truyền giáo bằng cách vào nhà lương dân thăm hỏi người già, người ốm đau già cả cô đơn. Chia sẽ cảnh tang sầu, chia vui với những thành đạt.



3/Triển khai việc truyền giáo qua hôn nhân của con cái:


Tổ chức hôn phối cho con cái, dự hôn phối của con cháu hoặc đi ăn cưới của bạn bè lương dân là một cơ hội để truyền giáo.

Khi có những người lương xin phép chuẩn hôn phối ai giữ đạo nấy. Phải có những lời hứa từ cả hai bên:

Bên không công giáo phải tuyên hứa:

- Tôi tự do ưng thuận kết hôn với …

- Tôi chấp nhận hôn nhân một vợ một chồng.

- Tôi chấp nhận hôn nhân không thể phân ly.

- Tôi sẽ tôn trọng tín ngưỡng bên công giáo.

- Tôi chấp nhận sinh sản con cái và dạy dổ con cái nên người.

- Tôi biết rõ bên công giáo hứa sẽ cố gắng hết sức để con cái tôi được rửa tội và được giáo dục trong giáo hội công giáo.

Bên công giáo tuyên hứa:

- Tôi tự do ưng thuận kết hôn với…

- Tôi chấp nhận hôn nhân một vợ một chồng.

- Tôi chấp nhận hôn nhân không thể phân ly.

- Tôi sẽ trung thành với đức tin công giáo toàn vẹn như Hội Thánh công giáo dạy.

- Tôi sẽ tôn trọng tín ngưỡng của bên không công giáo.

- Tôi chấp nhận sinh sản con cái và giáo dục con cái nên người.

- Tôi sẽ cố gắng hết sức để con cái tôi được rửa tội và được giáo dục trong giáo hội công giáo.

Linh mục có thẩm quyền phải giải thích lời tuyên bố này và phải nghe đương sự tuyên bố.


Chính vì điều này mà bên công giáo kể cả cha mẹ, bà con và chính bản thân người sắp thành hôn, và cả linh mục chính xứ phải rao giảng Tin mừng cho bên lương.


Cha Bênêđictô Ngô Văn Hài đặc trách giáo lý dự tòng hạt thành phố Huế giới thiệu về bốn đề tài thảo luận:

1/ Khi đi ăn đám cưới bên lương, ta nên làm gì ( tác phong, nói năng…)để giới thiệu đạo công giáo cho người lương?

2/ Khi người lương đến nhà thờ dự lễ hôn phối ( của bạn bè, bà con công giáo) ta nên làm gì để giới thiệu đạo công giáo cho họ?


3/ Nếu thấy con cháu mình quen thân với người lương, ta phải nói gì cho con cháu ta và phải tiếp xúc với người bạn lương của con cháu như thế nào để giới thiệu đạo công giáo cho người lương đó?


4/ Đối với một giáo dân được phép chuẩn để lấy người lương, ta phải làm gì đối với đôi vợ chồng này để truyền giáo cho họ?



Toàn thể mọi thành viên tham dự được chia thành 7 nhóm để trao đổi và thảo luận theo từng đề tài, bầu khí thật sôi nổi và nghiêm túc. Sau đó sẽ cử đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình trước cộng đoàn. Hầu hết các nhóm đều có chung những quan điểm như:


- Phải đối xử chan hòa với con cái của những người được phép chuẩn hôn phối, phải sống gương mẫu và siêng năng cầu nguyện cho họ. Phải chứng tỏ cho họ biết không phải theo đạo là bỏ ông bà tổ tiên như họ từng nghĩ.


- Khi đi dự đám cưới bên lương, trước khi ăn ta nên làm dấu thánh giá.

- Cha đặc trách Ban Truyền giáo G.B. Lê Thanh Hoàng nêu ý kiến: nên có những buổi gặp gở với những gia đình trở lại trong hôn nhân hoặc những gia đình chuẩn hôn phối. Khi có những trường hợp con cái chuẩn bị cưới người lương nên báo cho cha sở biết ít nhất là 4 tháng trước khi tổ chức.


- Cha Emilianô Đổ Minh Liên cho rằng các hội đoàn nên có những buổi thăm nom và động viên chân tình.


Trước khi kết thúc buổi gặp mặt và thảo luận, ông Matthêô Nguyễn Đình Lục chủ tịch HĐGX chính tòa Phủ Cam, thay mặt toàn thể thành viên các HĐGX hạt thành phố Huế nói lời cảm ơn Tòa Tổng Giám mục, cha hạt trưởng, cha đặc trách Ban Truyền giáo và quý cha đã quan tâm đến những ưu tư và băn khoăn của giáo dân, tằ dó tổ chức buổi gặp mặt và trao đổi, thảo những đề tài đang được nhiều người quan tâm.


Bế mạc ngày Khánh nhật truyền giáo, cũng là ngày thảo luận những đề tài sốt dẻo nêu trên, vì thời gian có hạn nên cha quản hạt mời gọi những ý kiến của thành viên sẽ gởi về cho ngài. Tất cả mọi ý kiến đều sẽ được nghiên cứu và in thành tập để gởi đến mọi thành viên tham dự hôm nay. Ngài đã ban phép lành trước khi ra về. Mọi người đều cảm thấy phần nào giải tỏa được một số ưu tư từ lâu nay.

Trương Trí10/24/2010/vietcatholic.org


TG & DT: Phát triển tín đồ là quyền của mọi tôn giáo, tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, phát triển tín đồ bằng hôn nhân, và ép buộc con trẻ sinh ra khi chưa có nhận thức về bản chất tôn giáo mà chúng sẽ theo đuổi?. Đó có phải là tự do tôn giáo hay cưỡng ép tôn giáo, phát triển tôn giáo qua thủ đoạn "hôn nhân" là vi phạm quyền tự do hôn nhân và tự do theo và không theo tôn giáo nào của bất kỳ công dân nào. 

CẢI ĐẠO, MỘT BIẾN TƯỚNG CỦA SỰ CUỒNG TÍN TÔN GIÁO

Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả.
Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.

Trong kinh Trường Bộ thuộc tạng Pali cũng ghi lại câu chuyện giữa Đức Phật và hiền giả Pàtikaputta về đề tài thú vị này. Đức Phật nói: “Này Hiền giả Pàtikaputta, có con chó rừng già kiêu ngạo và mạnh mẽ, thường sống bằng đồ ăn thừa của con sư tử, vua các loài thú. Con chó rừng ấy suy nghĩ: “Ta là ai, và con sư tử - vua các loài thú là ai? Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt. Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại, tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại, rồi lại trở về sào huyệt”.
“Này Hiền giả, con chó rừng kia y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và định ba lần rống tiếng rống con sư tử. Nhưng nó chỉ kêu lên tiếng loại chó rừng, tiếng sủa loại chó rừng. Ai có thể so sánh tiếng sủa con chó rừng ấy với tiếng rống của con sư tử?”.
Cả hai câu chuyện trên đều nhắm đến chuyện ảo tưởng mình là chủ sở hữu, mượn uy danh người khác để “làm giả ăn thật”. Người viết tạm dẫn ra hai câu chuyện trên để đi thẳng vào vấn đề có thực, đang diễn ra trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam.
Trong những ngày gần đây, một số diễn đàn sinh hoạt Phật giáo bỗng “nóng” lên bởi “Tuyên ngôn thuộc linh” của một nhóm Tin lành. Tuyên ngôn này xuất hiện vào mùa Giáng sinh năm 2009 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, thủ đô Hà Nội, với sự chứng kiến của hàng chục ngàn người. Một phần nội dung của “tuyên ngôn” đó như sau:“Dân tộc Việt Nam chắc chắn thuộc về Đức Chúa Trời. Mọi xiềng xích tội lỗi và rủa sả của các thế hệ trước đã bị tuyên bố cắt đứt, hình ảnh con rồng, tức con rắn xưa là ma quỷ kể từ nay không còn tiếp tục được ảnh hưởng trên dân tộc Việt Nam. Việt Nam thuộc về Đức Chúa Trời, từ nay dân tộc Việt Nam sẽ được phước, Hội thánh Việt Nam sẽ bước vào một cơn phấn hưng chưa từng có và trong một tinh thần hiệp một khắn khít trước mặt Đức Chúa Trời...”. Điều đáng nói, tuyên ngôn trên được viết bởi cơn phấn hưng “Nếu Phải Chết Thì Sẽ Chết!”.
caidao-02-content
Ảnh: Hoithanh.com
Ai cũng rõ một điều, đất nước nào cũng có người quản trị, có luật pháp để duy trì sự công bằng. Văn hóa là phần hồn, là tinh anh, là nền tảng cho mọi phát triển khác. Mọi giá trị tạo nên hình ảnh của một dân tộc đều thấm đẫm mồ hôi, công sức, máu và nước mắt của biết bao thế hệ. Văn minh đến từ khối óc sáng tạo và bàn tay lao động. Giá trị của lao động chính là việc khẳng định lao động tạo ra giá trị, phẩm tính cho con người của dân tộc ấy. Chẳng có kẻ nào ngồi không ăn sẵn mà được tôn vinh, và không ai có thể dâng những thứ không thuộc, hay chưa thuộc về mình cho người khác, trừ phi những người sống bằng thói quen của loài cáo như câu chuyện kể trên.
Tôn giáo luôn khích lệ con người sống để hoàn thiện ứng xử cho bản thân mình với cộng đồng và không hề chủ trương sự chia rẽ bạo tàn. Một đất nước từng chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược như Việt Nam luôn luôn nhạy cảm với danh xưng phản bội Tổ quốc, triệt tiêu và hủy diệt văn hóa, dù là vì ai và vì mục đích gì, dù có văn tự hay không có văn tự. Bởi cái gì nô lệ thì thường hướng đến sự ngoại thuộc, và ngược lại cái gì ngoại thuộc thì đem đến thái độ nô lệ, dù đó là nô lệ thế quyền hay thần quyền. Cái đầu nô lệ trước rồi đến cánh tay, con mắt và cái chân, vì vậy họ “muốn chết”, “quyết chết” cũng chỉ vì cái đầu đã đánh mất tự chủ. Một người đánh mất tự chủ thì vong thân, nô lệ cho niềm tin mù quáng. Một người đã trở thành nô lệ thì chẳng có tài sản gì khác để bán, ngoài việc ‘bán mạng” hay phải bám vào một cơ thể khác để sống. Vậy nên, giá trị mà họ tạo ra cho cộng đồng thấp hơn nhiều những ảo tưởng đang ngự trong đầu óc của họ. Kiếm lời bằng vật chất thì họ không đủ dũng mãnh như loài sư tử, nhưng dọn dẹp những thức ăn dư thừa mà loài sư tử để lại thì họ có thế mạnh.
Quyết tâm cho một “mùa gặt” năng suất là việc làm chính đáng. Nhưng “mùa gặt” chỉ tới khi trước đó người ta biết chăm chỉ gieo trồng và lao động một cách chân chính. Đất chẳng bao giờ phụ người có công, nhưng người lương thiện thì không bao giờ gặt trên cánh đồng mà mình không bỏ sức ra gieo trồng hay bảo vệ. Thái độ ăn mót nhưng ngạo mạn như loài cáo trong câu chuyện kia, nếu chẳng phải là sang chấn tâm lý của bản chất yếu đuối nhưng ảo tưởng vĩ cuồng thì cũng là biểu hiện sự phi nghĩa núp dưới đức tin tôn giáo.
Sự đổi thay trong nhận thức, tư tưởng của con người khi thì bình lặng, khi thì ồn ào, đó là điều tự nhiên giữa những người theo đuổi niềm tin tôn giáo, tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình cải đạo, rất nhiều máu và nước mắt của con người đã đổ xuống mà vẫn chưa có bài học nhân văn nào được rút ra. Hiện nay, thế giới vẫn xếp xung đột tôn giáo, sắc tộc vào những xung đột hàng đầu, gây bất ổn lớn đối với loài người. Thực tế hiển nhiên này khác xa với quan niệm tôn giáo là thánh thiện, phần còn lại của thế giới thuộc về tội lỗi.
caidao-03Ảnh: Hoithanh.com
Một mặt họ cho rằng mỗi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, mặt khác họ lại tìm đủ mọi cách như dụ dỗ tiền bạc, hay dùng hôn nhân để cưỡng bức, ép buộc để “cải đạo” người khác, thậm chí cuồng tín như “tuyên ngôn” trên dù phải chết. Do đó, việc cải đạo thường gây nên những diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội.
Một niềm tin tôn giáo thuần khiết thì chẳng bao giờ ồn ào với những ngôn ngữ đầy tính kích động, gây hấn thù hằn dân tộc như vậy cả. Truyền thống Ki-tô giáo là sự khiêm cung và tìm đạo là một quá trình khổ luyện để đạt đến tình thương vô bờ bến đối với tha nhân. Với “tuyên ngôn” kia, người viết chỉ xem nó nhuốm màu sắc chính trị mà còn thể hiện một sự lạc đường trong nhận thức, khi cả thế giới đang cổ vũ cho những giá trị hòa hợp và hòa giải.
Mỗi người đều có quyền cổ xúy cho tư tưởng, niềm tin tôn giáo mà mình đang theo, và việc mỗi người tự nguyện hướng đến một niềm tin chân chính để tìm an vui thực sự cho chính mình và tha nhân cũng là điều đáng tôn trọng, khuyến khích, giống như mỗi người thích ăn một vị khác nhau. Nhưng mỗi khi đứng trước một lựa chọn và quyết tâm theo đuổi con đường ấy, thật không dễ dàng gì để họ có ngay được sự bình an, vững chãi. Vì thế, các cuộc cách mạng tư tưởng của nhân loại đều không gì khác hơn là phô bày sự ưu việt trong cách lý giải, tiếp cận cuộc sống của mình, từ đó xây dựng những nhân cách tôn giáo mà giá trị yêu thương, hòa giải luôn đứng ở vị trí hàng đầu. Nói đến đạo đức Ki-tô là lòng bác ái, nói đến đạo đức Phật giáo là tâm từ - bi - hỷ - xả. Nội chỉ theo đuổi với những suy nghĩ, lời nói và hành động như vậy đối với một người theo tôn giáo đã là điều không phải một sớm một chiều có thể thực hiện được.
“Tuyên ngôn thuộc linh” với nội dung trích dẫn trên, theo người viết, đã vượt tầm so với nhận thức của một tín đồ bình thường, chỉ ra sự vọng động cuồng si hơn là đạo đức của đức tin (theo nghĩa bình thường nhất là tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác). Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả.
Người viết xin dừng lời bằng câu trả lời trên Tuần báo Le Point (Pháp) của Đức Đạt lai Lạt ma về vấn đề cải đạo, hiện tượng không chỉ có ở Việt Nam: “Như thế thật không hợp lý: thế giới phải ngày càng cởi mở hơn. Quý vị thi hành việc cải đạo, đấy là một hình thức chiến tranh chống lại các dân tộc khác và các nền văn hóa khác không giống với dân tộc và văn hóa của quý vị. Như thế không đúng với thông điệp của Đức Chúa Trời!”.
------------------
(*) Trang bìa của cuốn “Peoples of the Buddhist World: A Christian Prayer Guide" [Các dân tộc của thế giới Phật giáo: Một cẩm nang cho Người cầu kinh Thiên Chúa giáo] do Paul Hattaway viết. Cuốn sách dày 416 trang ruột với trên 150 hình màu tuyệt đẹp nầy là một công cụ truyền đạo của các nhóm Tin Lành trong nỗ lực cải đạo người Á châu, đặc biệt người Á châu theo đạo Phật.

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Xin vui lòng tôn trọng tôn giáo

Xin vui lòng tôn trọng tôn giáo. 

Tôi nghĩ CHÚA không có sai , mặc dù trong KINH THÁNH đầy dẫy sai lầm .
Qúy vị biết trong CỰU ƯỚC , lời CHÚA vọng xuống trần gian có lẽ vào lúc mưa to gió lớn , nên bị át đi làm các ngôn sứ chép lại bị lộn . Còn TÂN ƯỚC thì CHÚA JESUS và các THÁNH chỉ biết có tiếng DO THÁI , nhưng toàn bộ sách này lại viết bằng tiếng HY LẠP . 

Người ta thường nói : THÁNH NHÂN DỊ CHÚNG NHÂN 
nghĩa là các THÁNH làm gì cũng khác với người thường . 
Cho nên khi CHÚA JESUS nói một đường bằng tiếng DO THÁI, các THÁNH ghi lại một nẻo bằng tiếng ngoại quốc cho có vẻ khác người. Nói tiếng này mà ghi lại bằng tiếng kia trong khi mình không biết thì làm sao không tránh khỏi sai lầm . 

Cho nên muốn đọc và hiểu KINH THÁNH thì những gì CHÚA nói sai phải hiểu theo nghĩa bóng, còn những gì CHÚA nói đúng phải hiểu theo nghĩa đen . Chớ THIÊN CHÚA đâu có ngu mà nói bậy.

Tôi mong từ nay về sau các mục sư , linh mục nên theo điều này để giảng giải cho tín đồ , chớ đừng cho rằng những gì CHÚA nói sai là thuộc về huyền nhiệm . 
Đã tu hành thì đừng có XẠO . Sai thì nói sai nếu không chấp nhận thì dẹp cha đi lường gạt thiên hạ hơn 2000 năm nay đủ rồi 

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

ĐỂ ÁP CHẾ NGƯỜI DA ĐEN, TÍN ĐỒ CƠ ĐỐC GIÁO DA TRẮNG ĐÃ SỬ DỤNG KINH THÁNH VÀ LÁ CỜ LIÊN MINH RA SAO?

ĐỂ ÁP CHẾ NGƯỜI DA ĐEN,
TÍN ĐỒ CƠ  ĐỐC GIÁO DA TRẮNG ĐÃ S DỤNG
KINH THÁNH VÀ LÁ CỜ LIÊN MINH RA SAO?

Carol Kuruvilla / The Huffington Post


Vào ngày 4 tháng giêng, năm 1861, Giám Mục Công giáo A.Verot bước lên tòa giảng trong nhà thờ Thánh Augustine, thuộc bang Florida, để bênh vực người da trắng đượcquyền có nô lệ.
Trong bài giảng, Giám Mục Verot nóí rằng thánh Tông đồ Phao Lồ đã dạy dân nô lệ phải tuân phục chủ nhân ông “như một phương cách cần thiết” để được cứu rỗi. Ngài đã dẫn chứng thánh thư đoạn Colossians 3:22. Ngài nói, Hỡi các tên nô lệ, phải tuân phục ông chủ các ngươi bằng chính xương thịt, chứ không chỉ qua loa để làm vửa lòng, phải [phục vụ] với tất cả tấm lòng, và phải biết kính sợ Thượng Đế.”  

Không còn phải che đậy nữa, hàng trăm vị Mục sư Cơ đốc giáo cũng đã dùng cùng một luận cứ như Giám Mục Vernot, đã áp dụng Kinh Thánh nhằm biện minh cho chế độ nô lệ trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc tại Mỹ. Nhưng cuộc thảm sát 9 đồng bào da đentrong tuần qua tại nhà thờ Emanuel Atrican Methodist Episcopal thuộc thị xã Cherleston, bang South Carolina [Hoa Kỳ], lại một lần nữa, buộc người da trắng Mỹ phải xét lại mối liên hệ lịch sử giữa Hội thánh da trắng với chủ nghĩa kỹ thị chủng tộc - và vì sao luận điệu hùng hồn đầy hận thù như lời giảng của Vernot nhờ phát ra từ toà giảng lại có sức lôi cuốn như vậy.  

Theo giáo sư Stout, vốn đang dạy Lịch sử Tôn giáo Mỹ tại đại học Yale, thì những ngườiCơ đốc giáo miền Nam không những chỉ ủng hộ chế độ nô lệ mà chính Giáo hội Cơ đốc giáo Miền Nam là trụ cột của Liên Minh và họ cố kìm những người Mỹ gốc Phi châu trong vòng nô lệ. Vị giáo sư này đã tuyên bố với báo Huffington rằng Nếu tách Hội thánh ra khỏi bài toán [lịch sử lúc đó] ắt chúng ta đã không có nội chiến. Các giáo sĩ Miền Nam đã tin chắc rằng chế độ nô lệ không phải là tội lỗi.

Sau khi thua trận, những người da trắng Miền Nam và các vị lãnh đạo tôn giáo đã cố làm mới bộ mặt Hội thánh bằng cách níu kéo một mối đạo không còn chính nghiã - lập luận rằng Miền Nam đã chiến đấu có chính nghĩa vì họ không nhằm kìm kẹp dân nô lệ,  vì quyền lợi của Liên Minh, hay  tự vệ chống trả bọn xâm lược Phương Bắc. Họ bắt đầu tôn sùng các anh hùng liệt sĩ Liên Minh và trân qúi lá cờ của mình.

Tuy nhiên, khi mà lá cờ Liên Minh vẫn phấp phới trong khu hành chánh thủ đô bang South Carolina, thì nó vẫn còn là biểu tướng phân biệt chủng tộc đáng lên án 

Các nhà vận động da đen cùng nhiều người khác coi đó như biểu tượng của áp chế và là một nhắc nhở về một chính quyền chỉ muốn kìm hãm mãi mãi dân da đen trong vòng nô lệ. Trong bài viết đăng trên báo Atlantic, tác giả T-Nehisi Coates gọi lá cờ của Liên Minh là  “biểu tượng sự thống tri của dân da trắng

Những người bênh vực lá cờ Liên Minh thường viện lý rằng nó tượng trưng cho ‘một di sản chứ đâu phải là sự thù hận.’ Tôi đồng ý như vậy  đó là di sản lấn át của người da trắng không phải bắt đầu bởi sự thù hận mà là động cơ dẫn tới cướp bóc.
Lập luận hùng hồn về quyền-uy-da-trắng-được-Chúa-tán-đồng nầy lại được lập đi lập lại tại các thánh đường ở khắp Miền Nam.

Trong khi Thiên Chúa bị loại ra khỏi đoạn mở đầu của hiến pháp Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, thì  các nhà lãnh đạo của Liên Minh Miền Nam lại cố tình gợi lại quyền uy củaThiên Chúa này trong hiến pháp của họ. Thật rõ ràng là ngay từ khởi thủy họ đã coi Cơ đốc giáo là một thành tố của liên minh nhằm duy tri chế độ nô lệ.

Các vị lãnh đạo Cơ đốc giáo miền Nam muốn nhắc lại sự hiện hữu của chế độ nô lệ trong kinh Cựu Ước cùng các thánh ngôn của thánh Tông Đồ Phao Lồ nhầm dạy dỗ những kẻ nô lệ phải biết vâng lời các chủ nhân ông. Giáo sư Sout cho biết trong khi một số mục sư cho rằng chế độ nô lệ là một tội lỗi cần thiết thì nhiều vị khác còn đi xa hơn khi nói rằng dân da đen sẽ còn tiếp tục làm nô lệ trên thiên đường. Họ đã truy cứu ngược lại cơ sở thần học về sự tích ông Nôê (Noah) và người con tên Ham vì cho rằng đã chế diễu cha hắn mà bị đày xuống trần gian làm nô lệ.

Sau cuộc nội chiến, Hội thánh đã lên tiếng quá chậm chạp chống lại tệ phân biệt chủng tộc, và phải cho tới sau khi có phòng trào vận động nhân quyền, tệ nạn kỳ thi chủng tộc mới từ từ biến khỏi các tòa giảng tại Miền Nam.

Năm 1845, Hội Nghị Bắp-Tít miền Nam đã tách ra vì hội thánh Bắp-Tít miền Bắc từ chối không cho các chủ nô lệ đượtrở thành các nhà truyền giáo. Ngày nay, chi phái Tin Lành lớn nhất Hoa Kỳ là Hội thánh SBC (Hội thánh Bắp-Tít Miền Namđã dành nhiều thời gian để xét lại quá khứ của mình. Năm 1995, Hội thánh đã thông qua một nghị quyết chính thức xin lỗi vì đã ủng h cũng như đã vinh danh cá nhân và cơ chế kỳ thị chủng tộc trong cuộc đời chúng ta.

Qua những cuộc thảm sát tai Charleston, ông Russel Moore, chủ tịch Ủy Ban Đạo Đức và Tự do Tôn giáo của Hội Thánh Cơ đốc Miền Nam, đã kêu gọi tín hữu Cơ đốc giáomiền Nam hãy từ bỏ mối quan hệ văn hóa với lá cờ Liên Minh.

Tuần qua, ông Moore viết trong một bài bình luận rằng “Lá cờ chiến đấu của Liên Minh là tượng trưng cho Jim Crow, người giám thách thức phong trào nhân quyền, cũng nhưcủa Dixiecrat, người chống lại sự hoà hợp các sắc dân, và của sự khủng bố trong nước thuộc nhóm Ku Klux Klan và Hội Đồng Công Dân Da Trắng trong lich sử cận đại quá khủng khiếp của chúng ta. Những người Cơ đốc giáo da trắng phải suy xét là lá cờ kia đã nói gì với anh chị em da đen trước Thiên Chúa, nhất là sau hành động của bọn khủng bố da trắng chống lại những anh chị em da đen” .

GIÊ-SU CÓ THỰC HAY KHÔNG ? Mark W. Thomas (Trần Thanh-Lưu dịch)

Như phần lớn mọi người (đặc biệt là những kẻ Ki-tô từ bé, như tôi), tôi đã luôn luôn giả định rằng Chúa Giê-su Ki-tô có thực, tuy ngài có thể không phải là thần thánh gì. Sau khi xem xét các bằng chứng trong và ngoài cuốn Bible và Ki-tô giáo thời kỳ ban sơ, cùng với những huyền thoại thời bấy giờ, tôi đã phải kết luận rằng không có bằng chứng xác đáng nào cho thấy Giê-su đã thực sự tồn tại - và bằng chứng quan trọng lại cho thấy ông tá chỉ là huyền thoại hoàn toàn.

Bằng chứng Kinh Thánh

Câu chuyện thường được chấp nhận về Giê-su là một mớ hổ lốn các câu chuyện chủ yếu từ các sách Phúc Âm, từ Paul và các tác giả tông đồ khác, và từ sách Khải Huyền (the book of Revelation). Trước hết, hãy tách rời các nguồn tin để xem các tác giả đã viết những gì. Làm việc này thực khó khăn bởi thực tế rằng đã có khá nhiều chỉnh sửa đáng kể, sao chép, và thậm chí giả mạo. Các tác giả, nhà biên tập và biện ký đã không đối xử với những tác phẩm ấy như là thiêng liêng bất khả xâm phạm và không thể đổi thay. Trái lại, họ thường xem những câu chuyện về Giê-su như những truyện kể có thể sửa đổi được để thúc đẩy ý đồ riêng của mình, hoặc để làm cho câu chuyện tốt hơn. [1]

Sách Khải Huyền không đưa ra hỗ trợ nào cho tính lịch sử của Giê-su và có thể bị loại bỏ dễ dàng như một nguồn đáng tin cậy, vì các cảnh giới khác thế gian đầy ảo giác của nó.
Các tài liệu tham khảo được biết đến sớm nhất về Giê-su là trong các tác phẩm của Paul (Phao-lồ, còn gọi là Saul ở Tarsus), người đã "ảo tưởng thấy" Giêsu khi ông trên đường đến Damascus. Bản ghi chép của Paul là một phần của các bức thư tông đồ, được viết sau năm 48 AD. Nếu đã có một Giê-su thực, thì Paul đã phải viết về cuộc sống và giáo lý của ngài. Ông đã làm không làm vậy (ngoại trừ một vài đoạn thêm vào mà ai cũng biết). [1] Paul và các tác giả các bức thư khác - bao gồm Peter - dường như không biết bất kỳ chi tiết tiểu sử của cuộc đời Giê-su, hoặc thậm chí thời gian của cuộc sống trần gian của ngài. Họ không đề cập đến Bethlehem, Nazareth, Galilee, Calvary hoặc Golgotha ​​- hoặc bất kỳ cuộc hành hương nào đến những nơi đáng ra thiêng liêng của cuộc đời Giê-su. Họ cũng không đề cập đến bất kỳ phép lạ mà Giê-su được cho là đã làm, lời dạy của ngài về đạo đức, việc Chúa được trinh nữ sinh ra, việc xét xử ngài, ngôi mộ trống, hoặc thậm chí đến các môn đệ của Chúa. [1]

Tôi thấy điều này đáng kinh ngạc! Các chi tiết cơ bản nhất mà chúng ta được nghe nói về cuộc đời Chúa Giê-su đã không được các tác giả Ki-tô giáo sớm nhất biết đến. Không phải chỉ đơn giản là họ bỏ sót những chi tiết này. Có rất nhiều chỗ Paul và những người khác có thể đã nhắc nhở đến các môn đệ hay dùng thẩm quyền đạo đức của Chúa Giê-su để tô đậm quan điểm riêng của họ, nhưng họ đã không làm vậy. [1] Lời giải thích đơn giản là những chi tiết này đã chưa xuất hiện, và sẽ không tồn tại cho đến khi các sách Phúc Âm được viết khoảng hai mươi năm hoặc hơn sau đó.

Đối với các tông đồ viết thư, thì Giê-su dường như đã có ít hoặc không tồn tại trên trần thế. [2] Paul là một nhân chứng cho sự tồn tại thực của Giê-su, lại nói một cách rõ ràng rằng ông chưa bao giờ gặp Chúa Giê-su, nhưng chỉ thấy ngài trong "ảo ảnh". Paul và Peter ám chỉ mình là tông đồ (sứ giả - apostles), chứ không phải là môn đệ (kẻ đi theo bên thầy - disciples). Paul cho biết ông không thua kém các "siêu tông đồ" vốn rao giảng về một Chúa Giê-su khác (2 Corinthians 11:05 và 12:11), và rõ ràng ông đã chống đối với Peter (Galatians 2:11) – điều này không có nghĩa là Peter đã thực sự kề cận Chúa Giê-su. Paul cũng mô tả "ảo ảnh" của cả hai, mình và Peter, về Chúa Giê-su bằng cách sử dụng cùng một từ. [1] Điều này có nghĩa rằng Paul không nghĩ rằng Peter đã đi theo một Chúa Giê-su trần thế, nhưng (cũng như ông) một ông thần linh cứu thế trên trời, mà chỉ có thể biết được qua sự mặc khải. Vị cứu thế này là một người trung gian tinh thần giữa Thiên Chúa trên trời và con người dưới đất. Paul thậm chí thừa nhận rằng tất cả các ý tưởng của mình đến từ mặc khải và không từ bất kỳ người nào. [3] Nói cách khác, ông đã sáng tác ra hoặc lấy cảm hứng từ Thánh Kinh của người Do Thái (Jewish Scripture) và các tôn giáo khác. Hai đại biểu chính là Zoroastrianism và Mithraism, vốn có một trung tâm tại quê của Paul ở Tarsus.

Thánh Kinh Do Thái là nguồn chính cho Paul [1], có lẽ qua bản dịch tiếng Hy Lạp (gọi là Septuagint) [4]. Ông cho rằng sự hiện hữu trên trời của một kẻ tiên tri đã được tiết lộ cho ông bởi Thiên Chúa (Galatians 1:16) và trong Kinh Thánh, với Giê-su như là người trung gian tinh thần giữa Thiên Chúa trên trời và con người trần thế - không phải là một người sống ở thời gian vừa qua, nhưng như là một bí ẩn được che giấu trong nhiều thời đại đã qua [5], hoặc sẽ được tiết lộ. [6] Phao-lô thường ám chỉ Giê-su là "Đức Cứu thế - Ki-tô" (một thuật ngữ tâm linh). Ngay cả tên "Giê-su" xuất hiện đến 218 lần trong bản dịch Septuagint, vì vậy nó không phải là một tên mới cho những người quen thuộc với bản dịch [4]. Paul cũng không hề chỉ rõ ngay cả cuộc đời của Giê-su, cái chết hy sinh và sự sống lại xảy ra lúc nào, nhưng toàn ngụ ý rằng các sự kiện ấy đã từng xảy ra trong quá khứ tâm linh. Ông cũng đổ lỗi cho cái chết của Chúa Giê-su là do ác quỷ, không phải là do người Do Thái hay người La Mã như trong các sách Phúc Âm. Khái niệm về một vị cứu thế tòan vẹn, chịu hy sinh, bị làm nhục của Paul rút ra từ Isaiah 52-53 và Daniel 9. [1] Ý tưởng này đã giúp làm cho Ki-tô giáo phổ biến hơn trong các tầng lớp thấp kém trong hai thế kỷ đầu. Họ có thể đồng hóa với một người chân chính bị đóng đinh một cách bất công bởi giai cấp cầm quyền đáng khinh, nhưng người này cuối cùng đã chiến thắng. [7]

Một vấn đề khác với Paul là "ảo ảnh" nổi tiếng của ông về Giê-su có tất cả các dấu hiệu của một cơn động kinh não. Chúng ta biết rằng bệnh động kinh có thể gây ra ảo ​​tưởng tôn giáo, hyperreligiosity (mối quan tâm quá mức với tín ngưỡng), hypersexuality (quan tâm thái quá với vấn đề tình dục), và hypergraphia (một sự thôi thúc áp đảo để viết). Đây là tất cả các đặc tính có thể được dùng để mô tả Paul, như được tiết lộ trong các bức thư của mình. Có lẽ động kinh là "cái gai - thorn" đã dày vò ông, mà ông đề cập đến trong 2 Corinthians 12:7. Chúng tôi cũng có thể nói rằng người ta đã buộc tội Paul nói dối, bởi vì ông đã cố gắng bảo vệ mình trong Rô-ma 3:5-8.

Những tham khảo Kinh Thánh chính về Giê-su là từ các sách Phúc Âm, được viết bởi cá tác giả vô danh sau năm 70 CE (và rất có thể nhiều thập kỷ sau). Trong một xã hội bán khai và mê tín dị đoan, đó là một thời gian dài sau khi cuộc sống giả định của Giê-su - một thời gian dài cho huyền thoại phát triển. Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng đề cập đến đầu tiên của những gì chúng ta gọi là các sách Phúc Âm là do Papias trong khoảng năm 140 CE [8], tuy ông ta chỉ ám chỉ các cuốn Mark và Matthew. Tất cả bốn sách Phúc Âm lần đầu tiên được nêu tên vào năm 180 CE, bởi Irenaeus của thành Lyons. [8]
Mark là cuốn Phúc Âm sớm nhất. Nó sai ngữ pháp [9] và phản bội tác giả của nó về sự thiếu kiến thức về địa lý và tình hình xã hội của Palestine - cho thấy rằng tác giả không phải là người địa phương. [8], [10] Luke sao chép các lỗi về địa lý (Luke 8), trong khi Matthew thay đổi vị trí và số lượng những người đàn ông (Matthew 8). [8] Tác giả của cuốn Mark cũng đã sai lầm khi cho Giê-su trích lời từ bản dịch tiếng Hy Lạp của Thánh Kinh Do Thái (the Septuagint), thay vì từ bản tiếng Do Thái gốc. [8] Cả Mark và John bắt đầu với chuyện Giê-su đã là một người đàn ông trưởng thành - không có chuyện sinh ra từ đồng trinh, ngôi sao kỳ diệu, hay những câu chuyện thời thơ ấu khác. Một trường hợp mạnh mẽ có thể được nêu ra là phúc âm của Mark đã được viết như một lối kể lại của sử thi Homer. [11]

Các sách Phúc Âm của Matthew và Luke không đồng ý với năm và các chi tiết khác của Chúa Giê-su giáng sinh, bao gồm cả dòng dõi của ngài. Matthew cho ngài đã sinh ra tại nhà Joseph ở Bethlehem, dưới triều đại của Herod the Great (vốn đã chết trong năm 5 hoặc 4 trước Công nguyên, BC). Luke cho rằng ngài đã sinh ra tại một chuồng bò trong thời kỳ điều tra dân số tiến hành bởi Quirinius trong năm 6 CE - một sự khác biệt của ít nhất 9 năm! Matthew đã không viết về điều tra dân số, và Luke đã không viết về những nhà thông thái hay Herod "tàn sát những kẻ vô tội.” Matthew và Luke không đồng ý dữ dội trên gia phả của Giê-su, thậm chí cả ông nội của ngài. (Matthew 1:16, Luke 3:23).  Thêm vào đó, các danh sách trong Matthew và Luke khác nhau từ 1 Chronicles 3. Lưu ý rằng ngay cả bản liệt kê tổ tiên nam của Chúa Giê-su không phù hợp với học thuyết của một trinh nữ sinh ra (điều đã được thêm vào sau đó trong quá trình huyền thoại hóa). Một số nhà biện giải cho rằng Luke liệt kê gia phả của Bà Maria, nhưng đó là điều không thể được bởi vì Bà Maria không được đề cập đến và vì vào thời điểm đó người ta nghĩ phụ nữ không đóng góp bất kỳ vết di truyền nào cho một em bé, nhưng được coi như là một cánh đồng màu mỡ cho hạt giống (tiếng Hy Lạp: "tinh trùng”) được gieo trồng.

Nếu các sách Phúc Âm được viết bởi những chứng nhân​​, tại sao họ chờ đợi quá lâu và tại sao họ không mô tả về Chúa Giê-su? Tại sao các sách Phúc Âm được viết chủ yếu dưới dạng người thứ ba (như một câu chuyện), thay vì dưới dạng người đầu tiên? Các sách Phúc Âm thường trích dẫn tư tưởng hay lời nói của Chúa Giê-su khi ông ở một mình hoặc với người khác. Đây là những ví dụ về những câu chuyện hư cấu, không lịch sử. Tại sao các sách Phúc Âm của Matthew và Luke lại đạo văn của Mark (và thêm những câu chuyện thời thơ ấu)?  Trong 666 câu gốc của Mark, thì 600 xuất hiện trong Matthew (với ngữ pháp cải thiện), khoảng 300 trong Luca. [9] Phúc âm của Matthew lại kỳ quặc đề cập đến Matthew ở ngôi thứ ba. Phúc âm của Luke nói rằng nó đã được viết như sự kể lại những câu chuyện trước. Phúc âm của John cũng kỳ quặc ám chỉ đến tác giả của nó lại ở ngôi thứ ba, và hầu như không đề cập gì đến Chúa Giê-su như là một người thực có một cuộc sống thực. Cũng như Paul, tác giả đã xem Chúa Giê-su phần lớn là một ông thần trời.
Chúng ta biết rằng các sách Phúc Âm đã được thay đổi theo thời gian, với các chỉnh sửa và lỗi của các biện ký (transcribers), và thậm chí sai biệt trọng yếu giữa các bản dịch khác nhau. [8] Các học giả Kinh Thánh đã chỉ ra rằng mười hai câu thơ cuối của Mark (16:9-20) đã được thêm vào trong thế kỷ thứ hai, hình như cung cấp thêm các hoạt động của Chúa Giê-su sau khi sống lại. Những câu chuyện về Chúa Giê-su và phụ nữ ngoại tình (một chuyện tôi yêu thích bởi vì nó dạy bảo trách nhiệm cá nhân) không có trong phúc âm ban đầu của John. Bằng chứng cho thấy rằng nó có thể đã được thêm vào trong thời Trung Cổ. [12]

Tại sao chúng ta phải tin vào các tác giả và biên tập viên vô danh của các sách Phúc Âm? Làm thế nào để chúng ta biết rằng họ không phải là lập dị hoặc cố ý viết tiểu thuyết? Thậm chí chúng tôi có thể nói rằng các tác giả đã cố gắng làm trọn cho hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh (Do Thái), bởi vì họ đã nhận thấy nó sai ở nhiều nơi: [13]
-        - Giê-su sinh ra tại Bethlehem (không đúng) cho hợp với Micah 5:2.
-        -  Matthew và Luke không đồng ý về gia phả của Giê-su, và tương tự với sự ra đời đồng trinh. Mẹ Maria là một trinh nữ (không đúng) cho hợp với Isaiah 07:14.
-        -  Gia đình của Giê-su đã đi đến Ai Cập (không đúng) cho hợp với Hosea 11:1.
-        -  Herod đã “giết hại những người vô tội" (không đúng) cho hợp với Jeremiah 31:15.
-       -   Giê-su từ Nazareth tới (không đúng) cho hợp với Judges 13:05.
-       -   Trong ngày lễ lá (Palm Sunday) Giê-su không thể nào cưỡi hai con vật cùng một lúc (không đúng) cho hợp với Zechariah 09:09.
-        -   Bàn tay và bàn chân của Giê-su đã bị đóng đinh trên thập tự giá (không đúng) cho hợp với bài Thánh Vịnh Psalm 22:16.
-         -  Judas đã được trả 30 đồng bạc (không đúng) cho hợp với Zechariah 11:12.
-          Thậm chí có bằng chứng đáng tin cậy rằng tại thời điểm của Giê-su Nazareth đã không có người ở. [8], [14], [15] Trong một nỗ lực để chứng minh rằng Chúa Giê-su hoàn thành lời tiên tri Kinh Thánh (Do Thái), tác giả vô danh của Matthew dường như nhầm lẫn "Nazareth" và "Nazarene" (một người từ Nazareth) với "Nazirite" (một người đàn ông sống riêng và đã thực hiện một lời thề kiêng khem). [13]
Những sai sót này không quá ngạc nhiên nếu bạn nhận ra rằng tiếng mẹ đẻ của các tác giả có lẽ là tiếng Aram, còn (Cựu Ước) Kinh Thánh có gốc gác bằng tiếng Hebrew (Do Thái), và họ đã viết các sách Phúc Âm bằng tiếng Hy Lạp.

Tất cả điều này loại bỏ các sách Phúc Âm như bất kỳ chuyện kể của nhân chứng đáng tin cậy. Để hiểu rõ thêm về độ tin cậy của phép lạ hoặc những nhân chứng​​, đây là các lời trích hữu ích:

 “Không có đủ bằng chứng để thiết lập một phép lạ trừ phi sự dối trá của lời chứng rằng có như vậy còn mang nhiều phép lạ hơn so với nỗ lực để thiết lập thực chứng.” [David Hume , Trong Miracles (1748)]

Có nhiều khả năng rằng sự tự nhiên đã đi lạc ra ngoài các quá trình diễn tiến, hoặc con người nói dối? Chúng tôi chưa bao giờ thấy, trong thời đại chúng ta, tự nhiên đã đi lạc ra ngoài các quá trình diễn tiến, nhưng chúng tôi có lý do vững chắc để tin rằng hàng triệu lời nói dối đã được kể lại trong cùng thời, do đó, đã có ít nhất là hàng triệu đối một, là kẻ kể lại một phép lạ nói dối." [Thomas Paine , The Age of Reason (1794)]

"Đó là một thực tế lịch sử và các sự kiện đồng thời rằng con người phóng đại, hiểu sai, hoặc nhớ sai sự kiện. Họ cũng đã giả mạo gian lận đạo đức. Hầu hết các tín đồ trong một tôn giáo hiểu rõ điều này khi kiểm tra những xác quyết của các tôn giáo khác." [Dan Barker [16]]

Nhà nghiên cứu lịch sử Ki-tô giáo David Fitzgerald đã viết, "Trong các tác phẩm Ki-tô giáo ban sơ, như bảy bức thư chân thật của Paul, Đức Ki-tô là một nhân vật tâm linh tiết lộ trong Kinh Thánh Do Thái, chứ không phải là một nhân vật lịch sử gần đây. Nhiều thập kỷ sau đó, tác giả vô danh của những gì chúng ta gọi là "Phúc Âm theo Mark” đã viết một câu chuyện ẩn dụ về Chúa Ki-tô thần thoại này trong xứ Judea trước chiến tranh, vay mượn từ nhiều họa tiết tôn giáo và văn học cổ đại. Ý tưởng về một Chúa Cứu thế đến trần gian không thể cưỡng lại được, về sau tín đồ Ki-tô thích câu chuyện và không thể không tự ý sửa chữa, bổ sung văn bản của 'Mark', biến một sáng tạo hoàn toàn văn học thành cơ sở tiểu sử tưởng tượng của riêng họ. Hàng chục các sách Phúc Âm được viết, và vài thế kỷ sau đó bốn cuốn được lựa chọn cuối cùng để tạo thành cuộc mở đầu cho bộ Tân Ước quen thuộc của chúng ta." [17]

Một số tín đồ Ki-tô tiên khởi thậm chí thừa nhận nguồn gốc thần thoại của Ki-tô giáo. Tranh cãi với những người tà đạo đa thần (pagans) khoảng năm 150 CE, Justin Martyr nói: "Khi chúng tôi nói rằng Lời Chúa (Ngôi Lời), là đứa con đầu của Thiên Chúa, được sinh ra mà không cần giao hợp tính dục, và rằng chính ngài, Chúa Giê-su Ki-tô, người thầy của chúng tôi, đã bị đóng đinh và chết, và sống lại, và lên trời; chúng tôi đề xuất không có gì khác với những gì quí vị tin liên quan đến những người mà quí vị coi trọng, các con trai của thần Jupiter  (Zeus)." [16]
Những câu chuyện về Giê-su sặc mùi thần thoại, với phép thuật được thêm vào như là những câu chuyện được lập lại theo thời gian. [16] Nếu các Ki-tô hữu đầu tiên nghĩ về Chúa Giê-su như một thần linh trên trời, sự xuất hiện của ngài trong các sách Phúc Âm sau đó như là một người sống thì phải là một sáng tạo hư cấu.
Một số người cho rằng nhiều người trong số các môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu đã chết cho niềm tin của họ, và điều này chứng tõ rằng Chúa Giê-su đã phải tồn tại và thần thánh. Tuy nhiên, chúng tôi thậm chí không biết nếu các môn đồ (của Giê-su) đã tồn tại, và càng mù mờ việc họ đã qua đời như thế nào. Tất cả các thông tin về họ xuất phát từ các câu chuyện về sau và Kinh Thánh, mà chúng tôi đã nhìn thấy có rất nhiều vấn đề. Ngay cả khi những câu chuyện về các tông đồ là đúng sự thật, họ đã có thể dễ dàng bị hoang tưởng hoặc điên cuồng.

Các Tôn Giáo và Thần Thoại Khác Cùng Thời

Nghiên cứu các tôn giáo khác và những huyền thoại cùng thời, và các phiên bản cạnh tranh nhau (không chính thống) của Ki-tô giáo, thực là rối rắm bởi thực tế là nhiều văn bản và tài liệu tham khảo không được sao chép hoặc đã bị phá hủy bởi các tín đồ Ki-tô cuồng tín (đặc biệt là trong thờ kỳ đốt sách ở thế kỷ thứ tư và thứ năm). Một khi một giáo phái Ki-tô giáo đã đạt được quyền lực chính trị tuyệt đối dưới thời Hoàng đế Constantine trong thế kỷ thứ tư, đối thủ được buộc phải khuất phục bởi mối đe dọa của cái chết, nhà tù, hoặc tịch thu tài sản. [7]

Ki-tô giáo có nhiều điểm tương đồng với những gì chúng ta biết về các tôn giáo trước đó từ Hy Lạp, Ba Tư, Ai Cập và vẫn còn những nơi khác - và như thế không có nghĩa là độc nhất. Có hơn một chục vị thần và vị cứu thế khác (Mithra, Osiris / Serapis, Inanna / Ishtar, Horus, Perseus, Bacchus, Attis, Hermes, Adonis, Hercules / Heracles, Tammuz, Asclepius, và Prometheus), những vị đã sống lại sau cái chết bạo lực. Nhiều vị thần trong số này đã có ngày sinh của họ được báo trước bằng các vì sao, đã có một người mẹ đồng trinh và cha thần thánh (hoặc những lối sinh kỳ diệu khác), hoặc có bạo chúa tìm cách giết họ khi còn sơ sinh. Hai ngày lễ Ki-tô giáo chính đã được kết hợp từ các nghi lễ ngoại giáo trước đó và các lễ hội. Phục sinh (gần xuân phân, và với các biểu tượng khả năng sinh sản của thỏ và trứng) được đặt tên theo nữ thần Eostre của ngoại đạo Anglo-Saxon. Giáng sinh trước đây là lễ hội Saturnalia của La Mã (giành cho thần Saturn), và hơn một chục vị thần được sinh ra vào ngày 25 tháng 12 (đông chí cũ, khi mặt trời được "tái sinh" và bắt đầu vươn lên bầu trời) - Giê-su, Mithra, Zeus / Jupiter, Horus, Attis, Dionysus, Adonis, Tammuz, Hercules / Heracles, Perseus, Bacchus, Apollo, Helios, và Sol Invictus.

Mithra đã có hầu hết các điểm tương đồng với Giê-su. Mithra được sinh ra trong những hoàn cảnh rất khiêm tốn với các mục tử canh chừng, có mười hai môn đệ (như trong mười hai dấu hiệu của hoàng đạo), khiến người chết sống lại, thường được miêu tả với một vầng hào quang, và được gọi là "Ánh sáng của thế giới - The Light of the World" và "Đấng Chăn Chiên - The Good Shepherd." Sau khi ông qua đời, ông đã tham gia cùng Thiên Chúa để phán xét các linh hồn của người chết. Qua ngài tội nhân có thể được tái sinh vào sự sống đời đời. Vì Mithra là một vị thần mặt trời, ông được tôn thờ vào các ngày chủ nhật. Những tín đồ theo ông đã có bữa ăn nghi lễ bánh và rượu, biểu tượng cho xương và thịt của ngài. Không ngạc nhiên Mithra giáo (Mithraism) tàn lụi dần khi Ki-tô giáo lan rộng.
Cổ tục Kitô giáo về Thánh Thể - Eucharist (với bánh và rượu) có thể đã được bắt nguồn từ Mithra giáo bởi Paul, bởi vì việc uống máu trong Do Thái giáo luôn luôn là một điều ghê tởm.

Nhà thủ cựu Robert M Price trước đây đã viết, "Trong phác thảo và trong chi tiết, đời sống của Chúa Giê-su được mô tả trong các sách Phúc Âm tương đồng với Nguyên mẫu Anh hùng Huyền thoại trên toàn thế giới (worldwide Mythic Hero Archetype), qua đó sự ra đời của một anh hùng thần thánh đã được dự đoán và thụ thai một cách siêu nhiên, đứa trẻ anh hùng thoát khỏi mọi nỗ lực tìm giết ông ta, ngay khi còn là một đứa trẻ đã lộ rõ sự khôn ngoan sớm phát triển của mình, nhận được một sự ủy thác thần thánh, đánh bại ma quỷ, chiến thắng được ca ngợi, được xưng tụng là vua, sau đó bị phản bội, mất dần sự quí mến của quần chúng, bị hành xử, thường là trên một đỉnh đồi, rồi được minh oan và được đưa lên thiên đàng. " [18]

Bằng chứng ngoài Kinh Thánh

Đối với tính lịch sử ngoài Kinh Thánh của Giê-su, thì hoàn toàn không có bằng chứng đương thời đáng tin cậy rằng ngài đã từng sống bao giờ. Không có một ghi chép nào về ngài trong bất kỳ sử của thế kỷ thứ nhất. Nếu Giê-su đã tồn tại hoặc nếu những sự kiện ngoạn mục trong các sách Phúc Âm thực sự xảy ra, họ sẽ được ghi nhận bởi nhiều văn gia - trong đó có Philo của thành Alexandria (đã viết rất nhiều về xứ Judea trong thời gian cho là có Chúa Giê-su), Seneca the Elder, Pliny the Elder, Justus của Tiberius, và hơn ba mươi người khác. [8], [17] Không ai trong số những người này nhắc gợi đến Giê-su hay các sự kiện tưởng tượng trong Kinh Thánh. Các tài liệu tham khảo ngoài Kinh Thánh sớm nhất nhắc đến Giê-su hay Chúa Cứu thế Ki-tô nằm trong một đoạn và một câu trong các tác phẩm (khoảng 93 CE) cho là từ sử gia Do thái Josephus Flavius ​​(người cũng đã viết về Hercules). Dưới đây cho là những tài liệu tham khảo, trong cuốn Thời Cổ Đại Do Thái (The Jewish Antiquities) của ông:

18.3.3 - "Khoảng thời gian này có Giê-su, một người đàn ông khôn ngoan, nếu thực sự người ta phải gọi ông ta là một người đàn ông. Vì ông là một trong những người thực hiện những hành động đáng ngạc nhiên và là một thầy dạy của những người hài lòng chấp nhận sự thật như vậy. Ông đã giành được cảm tình của nhiều người Do Thái và nhiều người Hy Lạp. Ông là Đấng Cứu Thế. Và khi có những lời buộc tội của những kẻ thủ phạm chính giữa chúng ta, Pilate đã kết án Ngài trên thập tự giá, những người đến lần đầu yêu thương ngài đã không sút giảm. Ngài xuất hiện trước họ trong ngày thứ ba sống lại, vì các tiên tri của Thiên Chúa đã báo trước những điều này và hàng ngàn chuyện tuyệt vời khác về ngài. Và bộ tộc của các Kitô hữu, được gọi theo ngài như vậy, vẫn còn cho đến ngày nay không biến mất."
20.9.1 - " ... đưa ra trước họ người anh em của Giê-su, người được gọi là Chúa Cứu thế, tên là James ... "
Câu cú quả là quá ngắn để có nhiều ý nghĩa. Cụm từ "người được gọi là Chúa Cứu thế” vụng về và có thể đã được chèn vào bởi một biện ký. Thêm vào đó, một vài dòng sau Josephus đề cập đến Giê-su, con trai của Damneus. Đây có thể là ám chỉ Giê-su đề cập đến trong câu. [17] Đoạn này trông giống như nói về tất cả mọi thứ một tín đồ Ki-tô có thể trông ngóng, để chứng minh rằng Giê-su thực sự tồn tại. Thật không may, rõ ràng đó là một câu chèn nhét về sau - gần như chắc chắn được tạo ra bởi "sử gia nhà thờ" Eusebius, người đầu tiên đề cập đến nó ngay trước khi Công đồng Nicea của Hoàng đế Constantine vào năm 325 CE. Chúng tôi biết điều này vì nhiều lý do:

Mặc dù tác phẩm của Josephus đã được đọc rộng rãi, không một tín đồ Ki-tô hoặc học giả trước Eusebius đề cập đến nó, đặc biệt là không phải học giả Ki-tô giáo Origen, mà Eusebius sử dụng thư viện của ông. [8], [17]
Origen thậm chí đã viết rằng Josephus không tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. [8]
Nếu người ngoan đạo Do Thái Josephus đã thực sự nghĩ rằng Chúa Giê-su là Đấng Thiên Sai, thì ông đã trở thành một tín đồ Ki-tô.
Nó không chắc rằng Josephus gọi người Do Thái cáo buộc là "những kẻ thủ phạm chính giữa chúng ta."
Chưa bao giờ có một "bộ tộc của các Kitô hữu."
Văn bản tác phẩm của Josephus vẫn còn tồn tại, mà lại thiếu đề cập đến Giê-su. [8]
Phong cách của đoạn văn hoàn toàn khác triệt để với phần còn lại của tác phẩm của ông. Đoạn văn đã được tách ra khỏi bối cảnh với các câu đoạn xung quanh nó, và làm gián đoạn dòng câu chuyện. Đoạn tiếp theo khởi đầu, “Cùng thời cũng xảy ra một tai họa buồn thảm đưa dân Do Thái vào rối loạn..." Đoạn này ám chỉ đến đoạn trước, nơi Pilate đã cho binh lính của mình tàn sát một đám đông lớn của người Do Thái ở Jerusalem.
Josephus đã viết rộng rãi về nhiều dân thiểu số vào giai đoạn ấy. Một đoạn và câu duy nhất cho Đấng Cứu Thế là không thể xảy ra.
Nếu xóa bỏ hai tài liệu tham khảo giả này ra khỏi tác phẩm của Josephus, ông trở thành bằng chứng tiêu cực mạnh mẽ nói về Giê-su. Nếu Giê-su đã tồn tại, Josephus đã phải viết nhiều về ngài.

Có một số tài liệu được cho là tham khảo ở thế kỷ thứ hai về tín đồ Ki-tô hoặc Chúa Ki-tô – bởi một số người. Trong khoảng năm 100 CE, Pliny the Younger nói đến tín đồ Ki-tô ở Tiểu Á, nhưng ông đã không đề cập đến Giê-su. Tài liệu tham khảo sử dụng nhiều nhất về tín đồ Ki-tô từ thế kỷ đó do sử gia La-Mã Cornelius Tacitus (55-120 CE). Ông tự nhận là đã viết khoảng năm 117 CE về "Christos" bị hành quyết bởi Pontius Pilate. Tuy nhiên Tacitus đã sử dụng tên của Giê-su, mà không phải danh hiệu tôn giáo "Christos.” Đáng chú ý là tham khảo của Tacitus không được đề cập bởi Origen, Eusebius, Tertullian (những người trích dẫn rất nhiều từ Tacitus [8]) hoặc Clement của Alexandria trong thế kỷ thứ ba. Nó có thể đã được thêm vào trong năm 1468 bởi Johannes de Spire của Venice, bởi vì không có đề cập nào như thế được thực hiện trong bất kỳ văn bản được biết đến trước đó, nhưng có rất nhiều tham khảo sau đó. [8], [19] Một văn gia, Suetonius, trong khoảng 120 CE gọi một người tên là Chrestus và những đồ đệ người Do Thái của ông ta. Tuy nhiên, "Chrestus" là dạng Latin chính xác của một tên thực Hy Lạp, và không phải là một lỗi chính tả của "Christos."

Ngay cả nếu tài liệu tham khảo của Josephus, Tacitus, và những người khác trong thế kỷ thứ hai là nguyên gốc, chúng cũng chỉ là chứng cứ hạng hai hoặc tin đồn được viết 60 năm hoặc nhiều năm sau khi các sự kiện chủ định được mô tả, hoặc chỉ đơn giản đề cập đến niềm tin Ki-tô giáo của thời bấy giờ. Thực tế là các tín đồ Ki-tô hiện đại phải dựa vào các tài liệu tham khảo giả định này đã minh thị cho sự yếu ớt của luận điệu về một Chúa Giê-su Ki-tô lịch sử.

Một số người nghĩ rằng tấm vải liệm Turin là bằng chứng cụ thể cho sự tồn tại của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, phân tích khoa học cho thấy rằng tấm vải liệm là giả mạo. Nó chỉ ra một người đàn ông có hai phân (inch) cao phía trước hơn ở phía sau, "máu" của tấm vải thực sự là đất son màu đỏ sắc tố (máu thực sự sẽ là màu đen), và nó được định vị carbon khoảng từ 1260-1390 CE (phù hợp với khi nó được đầu tiên "phát hiện" vào năm 1357). Thực là lố bịch khi nghĩ rằng tấm vải liệm đã được giấu kín trong hơn 1300 năm cho đến khi quân thập tự viễn chinh đến Trung Đông, tìm kiếm đồ lưu niệm để mang về nhà (giống như hầu hết khách du lịch). Một số đầu nậu làm đồ giả đã có khả năng thực hiện cả một bó.
Nó có thể là "Câu Chuyện Vĩ Đại Nhất Được Kể Từ Trước Đến Nay - The Greatest Story Ever Told” thuần túy chỉ là một câu chuyện? Một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử chỉ là một huyền thoại? Có hàng tỷ người tin vào một Chúa Cứu Thế hư cấu? Đã có người chết cho đức tin Ki-tô giáo của họ một cách vô ích? Điều này không phải là quá xa vời, mọi người luôn tin những lời nói dối trong mọi thời kỳ, và thậm chí giết hoặc chết cho chúng hoặc cho tôn giáo của họ. Nhìn vào Jonestown, Cổng Thiên đàng (Heaven's Gate), Đền thờ Mặt trời (the Solar Temple), 11/9, các tên đánh bom tự sát, và gần như vô số các cuộc chiến tranh và tàn sát dựa hoàn toàn vào tôn giáo.

Bởi vì tâm trí của nhiều người bị nhiễm độc tôn giáo, họ không muốn đặt câu hỏi về sự tồn tại của vị cứu tinh hay tiên tri của họ. Tôn giáo khiến cho người ta chấp nhận những ý tưởng bất hợp lý với ít hoặc không có bằng chứng. Nếu tôi nói rằng que kem chuối có thể làm cho mọi người tàn hình, hầu hết mọi người có thể sẽ yêu cầu một ít bằng chứng. Nhưng, một cuốn sách rất cũ mô phỏng huyền thoại khác của thời đại và nói rằng 2000 năm trước, có một gả được sinh ra với một con ma là cha mình và một trinh nữ là mẹ mình, gả này đã làm phép lạ, đã bị giết chết, đã sống lại, và thăng lên trời - và hàng tỷ người chấp nhận câu chuyện dường như không mảy may thắc mắc.

Vì vậy, hãy nhìn vào những bằng chứng chúng ta có. Từ các tác giả bức thư tông đồ Ki-tô giáo sớm nhất như Paul, chúng ta có rất ít để cho thấy rằng Giê-su là một người thực sự. Và, chúng ta có bằng chứng mạnh mẽ rằng ông chỉ là một thần linh trên trời, được xây dựng từ những huyền thoại trước đó. Từ các văn gia sau này (và vô danh) của các sách Phúc Âm, chúng ta có một câu chuyện lớn theo thời gian, với các sự kiện không tưởng được thêm vào như câu chuyện đã được kể đi và kể lại - chỉ là một huyền thoại. Ngay cả không ai trong số các tác giả phúc âm tuyên bố đã gặp Giê-su. Từ các nhà sử học của thế kỷ thứ nhất, chúng ta không có gì. Chẳng có gì.

Để biết thêm về tính lịch sử Ki-tô giáo và chủ nghĩa vô thần, xem
 và
Bản quyền © 2009, 2010, 2011. Mark W. Thomas.

Tham Khảo:

[1] The Jesus Puzzle by Earl Doherty, www.jesuspuzzle.com

 [2] PAUL ON JESUS - Hebrews 8:4 — “If he were on earth, he would not be a priest, for there are already men who offer the gifts prescribed by the law.”

 [3] PAUL ON THE SOURCE OF THE JESUS STORY - Galatians 1:11,12 — “I want you to know, brothers, that the gospel I preached is not something that man made up. I did not receive it from any man, nor was I taught it; rather, I received it by revelation from Jesus Christ.”

 [4] "Does Paul's First Epistle to the Corinthians reveal a 'historical' Jesus?" by Acharya S, tinyurl.com/3l5g75o

 [5] PAUL ON THE SOURCE OF THE JESUS STORY - Romans 16:25-26 — “Now to him who is able to establish you by my gospel and the proclamation of Jesus Christ, according to the revelation of the mystery hidden for long ages past, but now revealed and made known through the prophetic writings ...”

 [6] PAUL ON THE SOURCE OF THE JESUS STORY - 1 Corinthians 1:7 — “Therefore you do not lack any spiritual gift as you eagerly wait for our Lord Jesus Christ to be revealed.”

 [7] Not the Impossible Faith, by Richard Carrier, secweb.infidels.org/?kiosk=books&id=1017

 [8] “Did Jesus Even Exist?” by Frank Zindler, www.atheists.org/Did_Jesus_Exist?

 [9] “Did a historical Jesus exist?” by Jim Walker, www.nobeliefs.com/exist.htm

 [10] In Mark 5 and Luke 8, Jesus went to the country of the Gerasenes, transferred demons from a man into 2000 pigs, and drowned them in the sea.  However that was about 31 miles from Galilee, the nearest sea.  The King James translators realized his, and changed the location to “the country of the Gadarenes,” which was close to the sea.  Later translators used the original.  [Check out translations of Matthew 8 for different locations.]  In Mark 10, Jesus said that a woman could divorce her husband, which was impossible in Palestine at that time.

[11] “The Homeric epics and the Gospel of Mark” by Dennis MacDonald, isbndb.com/d/book/the_homeric_epics_and_the_gospel_of_mark.html

 [12] Misquoting Jesus: The Story Behind Who Changed the Bible and Why, by Bart Ehrman

 [13] DID JESUS FULFILL PROPHESY?  [NOTE: It was easy to “fulfill prophesy” if they wrote the stories.]
THE PROPHESIED COMING OF ISRAEL'S RULER - Micah 5:2 — But you, Bethlehem Ephrathah, though you are small among the clans of Judah, out of you will come for me one who will be ruler over Israel, whose origins are from of old, from ancient times.
THE BIRTH OF JESUS FORETOLD - Luke 1:32,33 — [Jesus] will be great and will be called the Son of the Most High. The Lord God will give him the throne of his father David, and he will reign over the house of Jacob [Israel] forever; his kingdom will never end.  [NOTE: Jesus never reigned over Israel.]
FALSE PROPHESY - Isaiah 7:14 — Therefore the Lord himself will give you [King Ahaz] a sign: The virgin will be with child and will give birth to a son, and will call him Immanuel.  [NOTE: The original word (“almah”) in Hebrew meant maiden, not virgin (“betulot”).  The context also shows that this was meant for its time, not about 700 years later.  In addition, 2 Chronicles 28 shows that King Ahaz lost the battle. And, Jesus was never called Immanuel in the Bible.]
THE PROPHESIED NAZIRITE - Judges 13:5 — “ ...because you will conceive and give birth to a son. No razor may be used on his head, because the boy is to be a Nazirite, set apart to God from birth, and he will begin the deliverance of Israel from the hands of the Philistines.” [NOTE: This actually referred to Samson, not Jesus (about 1100 years later).]
NAZARETH, NAZARENE, NAZIRITE CONFUSED - Matthew 2:23 — [Joseph] went and lived in a town called Nazareth. So was fulfilled what was said through the prophets: “He will be called a Nazarene.” [NOTE: “Nazarene” and “Nazareth” are never used in the Old Testament.]
ISRAEL (JESUS?) IN EGYPT - Hosea 11:1 — “When Israel was a child, I [God] loved him, and out of Egypt I called my son.”  [NOTE: This denotes a past event, not one over 700 years later. It likely referred to the mythical exodus of the Jews from Egypt.]
JESUS IN EGYPT - Matthew 2:13-15 — When they had gone, an angel of the Lord appeared to Joseph in a dream. “Get up,” he said, “take the child and his mother and escape to Egypt. Stay there until I tell you, for Herod is going to search for the child to kill him.” So he got up, took the child and his mother during the night and left for Egypt, where he stayed until the death of Herod. And so was fulfilled what the Lord had said through the prophet: “Out of Egypt I called my son.”
PROPHESY OF THE “SLAUGHTER OF THE INNOCENTS” - Jeremiah 31:15 — This is what the LORD says: “A voice is heard in Ramah, mourning and great weeping, Rachel weeping for her children and refusing to be comforted, because her children are no more.”  [NOTE: Matthew 2:18 refers to this, but Ramah was on the other side of Jerusalem from Bethlehem.  Also, a 600 year-old tale of one woman weeping for her children hardly conveys the magnitude of the supposed slaughter.]
HEROD'S “SLAUGHTER OF THE INNOCENTS” - Matthew 2:16 — When Herod realized that he had been outwitted by the Magi, he was furious, and he gave orders to kill all the boys in Bethlehem and its vicinity who were two years old and under. [NOTE: Herod's “slaughter of the innocents” is not recorded by any historian of the time or in any other gospel. However, it fulfilled a common story line for saviors.]
THE PROPHESIED COMING OF ZION'S KING - Zechariah 9:9 — Rejoice greatly, O Daughter of Zion! Shout, Daughter of Jerusalem! See, your king comes to you, righteous and having salvation, gentle and riding on a donkey, on a colt, the foal of a donkey.
JESUS RIDES TWO ANIMALS AT ONCE! - Matthew 21:7 — They brought the donkey and the colt, placed their cloaks on them, and Jesus sat on them. [NOTE: A person can't sit on the backs of two animals. The author mistranslated Zechariah 9:9, which actually meant one animal.]
CRUCIFICTION FORETOLD? - Psalm 22:16 — Dogs have surrounded me; a band of evil men has encircled me, they have pierced my hands and my feet.
JUDAS' PAYMENT FORETOLD? - Zechariah 11:12 — I told them, “If you think it best, give me my pay; but if not, keep it.” So they paid me thirty pieces of silver.

[14] The Myth of Nazareth, by Rene Salm, www.nazarethmyth.info

[15] "Nazareth – The Town that Theology Built" by Kenneth Humphreys, www.jesusneverexisted.com/nazareth.html

 [16] “Did Jesus Really Rise From The Dead?” by Dan Barker, ffrf.org/legacy/about/bybarker/rise.php

 [17] Nailed: Ten Christian Myths that Show Jesus Never Existed At All, by David Fitzgerald, www.amazon.com/Nailed-Christian-Myths-Jesus-Existed/dp/0557709911

 [18] “Christ a Fiction” by Robert M Price, www.infidels.org/library/modern/robert_price/fiction.html

 [19] “Fictional Christ” by Dennis McKinsey, skeptically.org/newtestament/id6.html