HỒI GIÁO TẠI Á CHÂU
Theo lịch sử Hồi Giáo thì
đạo này đã được truyền bá vào Ấn
Độ và Trung Quốc ngay từ giữa thế kỷ
7, tức trong những năm đầu mới
được thành lập. Vai trò truyền đạo
chủ yếu do những người Thổ Nhĩ Kỳ
nói tiếng Ba Tư (The Persianate Turks) vì họ là những
người theo đạo Hồi rất sớm. Họ có
biệt tài cưỡi ngựa, bắn cung, đấu
kiếm và rất hiếu chiến như quân Mông Cổ sau
này. Trong hai thế kỷ 7 và 8, những đoàn kỵ binh
Thổ Nhĩ Kỳ đã lấn chiếm toàn Bắc
Ấn và Trung Á.
Năm 751, toàn dân xứ
Turkistan theo đạo Hồi. Quân Hồi tràn qua biên
giới Turkistan tiến vào phía Tây Trung Quốc đụng
trận với quân nhà Đường trên sông Talas. Quân
Đường thua trận phải bỏ chạy. Vùng Tây
Bắc Trung Quốc trở thành lãnh thổ Hồi Giáo.
Nhiều người Trung Á Hồi Giáo như Kazakh, Uzbek,
Afgan tràn qua biên giới chiếm lãnh các thảo nguyên của
người Trung Quốc và trở thành những tín
đồ Hồi Giáo đầu tiên trên lục địa
Trung Hoa.
Các hoàng đế thuộc
triều đại nhà Nguyên (1280-1368) cho phép đạo
Hồi được truyền bá tự do, những
người Hồi gốc Trung Á được tự do
đi lại và định cư lập nghiệp khắp
nơi trên lãnh thổ Trung Quốc. Nhờ đó, những
người Hồi Giáo Trung Á đã có mặt tại
hầu hết các thành phố lớn. Những người
Hồi Giáo này chịu ảnh hưởng sâu đậm
nền văn hóa hỗn hợp Thổ Nhĩ Kỳ - Ba
Tư (Turko-Persian Culture). Nhiều người Hồi Giáo
Trung Á đã được triều đình nhà Nguyên
trọng dụng.
Như trên đã trình bày, các
nước Trung Á, Bắc Ấn và phía Tây Bắc Trung
Quốc đã bị đạo Hồi chinh phục
bằng các đoàn kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ hiếu
chiến hiếu sát. Trái lại, miền đông Trung
Quốc và các đảo Thái Bình Dương đã
được đạo Hồi chinh phục bởi các
đoàn thương gia Ả Rập giầu có, khôn ngoan và
ôn hòa.
Từ cuối thế
kỷ 7, nhiều thương gia Ả Rập đã
đặt chân lên bờ biển Trung Quốc, mở
nhiều thương điếm tại các tỉnh ven biển.
Hơn hai trăm năm sau, tức vào năm 878, tại
Trung Quốc bỗng nổi lên phong trào bài ngoại của
đảng Huang Chao. Bọn này thực hiện chính sách
khủng bố sát hại 1200 người ngoại quốc
trên đất Trung Hoa. Những người Hồi Giáo
Ả Rập và Ba Tư phải bỏ Trung Quốc, dời
việc buôn bán và giảng đạo đến các
nước phía Nam Trung Quốc là xứ Champa (Chàm) Mã Lai và
quần đảo Nam Dương.
Lịch sử Hồi Giáo
Ả Rập có ghi: Năm 1039, một đoàn thương
gia Ả Rập đã đến buôn bán tại Champa và
tăng cường công cuộc truyền bá đạo
Hồi tại xứ này. Họ đã lập nên tại
Champa những cộng đồng Hồi Giáo đông
đảo. Trong khi đó, những hạm đội
hải quân của Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm
giữ Malacca để bảo vệ quyền giao
thương trên trục lộ giao thông với Trung Quốc
và Nhật Bản. Hồi Giáo làm chủ toàn vùng bán đảo
Mã Lai và quần đảo Nam Dương trong 3 thế
kỷ (11-15) và đã biến hai nước này thành hai
nước Hồi Giáo.
Năm 1511, một hạm
đội hùng mạnh của Bồ Đào Nha đã
đánh thắng quân Hồi Giáo Ả Rập và chiếm lãnh
Malacca để thực hiện hai mục tiêu: một là
để nắm con đường huyết mạch
về hàng hải hầu chiếm độc quyền buôn
bán gia vị Á Châu (Asian spice trade), hai là thực hiện tham
vọng truyền bá đạo Công Giáo ra khắp lục
địa Á Châu và các đảo Thái Bình Dương. Malacca
là địa điểm chiến lược quan trọng
vì từ hải cảng Malacca, hải quân Bồ Đào Nha
có thể kiểm soát mọi tàu bè từ Âu Châu và
Địa Trung Hải
đến Đông Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản.
Kể từ 1511, Bồ
Đào Nha dùng sức mạnh quân sự chận đứng
sự giao thương và công cuộc truyền đạo
Hồi của người Ả Rập tại vùng
đất này. Đồng thời mở ra một kỷ
nguyên mới cho công cuộc truyền đạo Công Giáo
tại Á Châu:
- Giáo sĩ Công Giáo
đầu tiên đến Việt Nam là Linh Mục Ignatius
(I-nhê-khu) người Tây Ban Nha đến giảng
đạo tại làng Ninh Cường, Bùi Chu năm 1533.
-
Phan xi cô Xavie đến giảng đạo cho dân chài
tại tỉnh Goa Ấn Độ năm 1542.
Tiếp theo đó là
nhiều đợt xâm nhập của các giáo sĩ Tây
Phương đến giảng đạo tại Á Châu
trong nhiều thế kỷ, họ đã tạo nên nhiều
cộng đồng tín đồ Công Giáo tại Ấn
Độ, Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản.
Nếu so sánh với
đạo Hồi, đạo Công Giáo đã được
du nhập vào giải đất mang hình chữ S sau
đạo Hồi trên 500 năm. Ngay từ năm 1039
tại xứ Chiêm Thành đã có nhiều cộng
đồng tín đồ Hồi Giáo vì nhiều đoàn
thương gia Ả Rập đã đến đây
truyền đạo sau khi họ chạy trốn loạn
Huang Chao tại Trung Quốc năm 878.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông
cất quân đánh phá Chiêm Thành bắt vua Chiêm là Chế
Củ. Vua Chiêm sợ chết nên phải chuộc mạng
bằng cách dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính cho
vua Lý. Nhà vua sáp nhập 3 châu này vào lãnh thổ Việt Nam và
đổi tên thành Quảng Trị, Thừa Thiên. Năm
1402, vua Chiêm Thành dâng thêm hai châu nữa là Chiêm Động và
Cổ Lũy cho Hồ Quí Ly. Hai châu này trở thành hai
tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi của Việt Nam ngày
nay.
Như vậy, thực
tế lịch sử đã chứng minh: Hồi Giáo là
đạo Thiên Chúa đầu tiên đã xâm nhập giải
đất mang hình chữ S (từ
Quảng Trị, Thừa Thiên đến Quảng Ngãi
thuộc lãnh thổ Chàm trước năm 1069) chứ không
phải là đạo Công Giáo. Tuy nhiên, đạo Hồi
đã không có cơ duyên xâm nhập vào xã hội người
Việt (dân tộc Kinh) và đã trở nên một thứ
tôn giáo hoàn toàn xa lạ và bị hiểu lầm nhiều
nhất.
Chúng ta đã biết
Hồi Giáo là đạo Thiên Chúa xuất phát từ bán
đảo Ả Rập vào đầu thế kỷ 7,
nhưng đến nay các quốc gia có số tín đồ Hồi
Giáo đông nhất thế giới lại là những
nước Á Châu. Đó là Nam Dương, Ấn Độ,
Pakistan, Bangladesh... Chúng ta sẽ lần lượt tìm
hiểu về tình hình Hồi Giáo tại các nước này:
NAM DƯƠNG (Indonesia). Nam Dương là một quần
đảo rộng lớn, gần 2 triệu cây số
vuông, lớn gấp 6 lần diện tích Việt Nam,
gồm có 13.000 đảo lớn nhỏ. Java là đảo
lớn nhất qui tụ 60% dân số cả nước.
Thủ đô Jakarta nằm trên đảo này. Dân số Nam
Dương là 230 triệu người, gồm có 40% là
người Javanese (người Chà Và) 14% Sudanese, số còn
lại là người Hoa và các dân tộc khác. Về tôn giáo:
Hồi Giáo (phái Sunni) 87%. Công Giáo La Mã 9% (20 triệu) và
Ấn Giáo 4% (9 triệu). Ngôn ngữ của Nam Dương
là tiếng Mã Lai nhưng chữ viết của họ
được mô phỏng theo chữ Ả Rập.
Những thương gia
Hồi Giáo Ả Rập đã đến giảng
đạo tại Nam Dương từ thế kỷ 8
nhưng không có kết quả trước các ảnh
hưởng sâu đậm của Ấn Giáo tại vùng
đất này. Phải đợi đến thế kỷ
15, một biến cố lớn lao đã xảy
đến làm thay đổi tình hình đất nước
này. Đó là sự kiện vua Raden Patah theo đạo
Hồi đã ra lệnh cho toàn đảo Java phải
bỏ đạo Hindu để theo đạo Hồi
tập thể. Chỉ trong một thời gian ngắn, vua
Patah đã biến đại đảo Java thành một
vương quốc Hồi Giáo (Islamic Kingdom) đầu tiên
tại Á Châu. Năm 1568, vua đảo Sumatra (đảo
lớn thứ hai trong quần đảo Nam Dương) là
Al-Quahhar ra lệnh cho toàn dân trên đảo phải theo
đạo Hồi. Sau đó hai đảo lớn này và các
đảo khác thống nhất lại tạo thành một
nước Indonesia có số tín đồ Hồi Giáo
lớn nhất thế giới.
Vào cuối thế kỷ
16, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã đến giảng
đạo Công Giáo tại miền đông đảo Timor và
đảo Molucca. Họ đã thành lập tại hai
đảo này nhiều cộng đoàn Công Giáo đông
đảo. Năm 1945, Nam Dương dành lại
độc lập từ tay thực dân Hòa Lan. Hai chính
quyền của Sukarno và Suharto đều muốn tách
rời chính trị ra khỏi các ảnh hưởng tôn giáo
để biến Nam Dương thành một quốc gia
thế tục (a Secular State). Tuy nhiên, các thế lực
cuồng tín Hồi Giáo và Công Giáo đã tự võ trang và gây ra
cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài 40 năm
khiến cho trên một triệu người chết và 2
triệu phải tản cư. Cuối cùng, Liên Hiệp Quốc
phải can thiệp để chấm dứt nội
chiến bằng cách công nhận một nước Đông
Timor (Công Giáo) độc lập kể từ tháng 8-1999.
MÃ LAI -
Đạo Hồi xâm nhập Mã Lai từ cuối
thế kỷ 7, tuy nhiên chỉ có một số ít dân theo
đạo này mà thôi. Mã Lai bắt đầu được
cả thế giới chú ý khi hải cảng Malacca tự ý
biến thành "Hải cảng tự do" vào năm
1400. Năm 1413, ông hoàng Paramesvara cai trị Malacca theo
đạo Hồi khiến cho nhiều dân Mã Lai cũng
bắt chước theo đạo Hồi rất đông.
Năm 1511, Bồ Đào Nha dùng sức mạnh quân sự
chiếm Malacca và cai trị vùng này đến đầu
thế kỷ 17. Sau hơn một thế kỷ lệ
thuộc Bồ Đào Nha, nhiều người Mã Lai đã
theo đạo Công Giáo nhưng đại đa số
vẫn giữ đạo Hồi. Dân số Mã Lai hiện
nay là 18 triệu, 50% theo Hồi Giáo, số còn lại là
Ấn Giáo, Công Giáo và Phật Giáo. Từ lúc được
độc lập đến nay, Mã Lai luôn luôn
được lãnh đạo bởi các chính quyền
Hồi Giáo.
PHILIPPINES -
Dân số Philippines xấp xỉ với Việt Nam
tức vào khoảng gần 80 triệu người, 85% Công
Giáo. Số dân theo đạo Hồi là 7 triệu, qui tụ
tại đảo Mindanao, Sulu và Basilan với khoảng 3000
đền thờ. Hồi Giáo Philippines có 2 trường
đại học riêng với 9000 sinh viên. Dân Công Giáo Phi
xử dụng ngôn ngữ Tagalog là chính, trong khi đó 7
triệu người Hồi Giáo Phi xử dụng ngôn
ngữ Maranao.
Đạo Hồi đã
được du nhập vào Philippines do một hoàn cảnh
đặc biệt của lịch sử. Đó là biến
cố quân Mông Cổ đánh chiếm thủ đô Baghdad
của Iraq vào năm 1258. Nhiều học giả Hồi
Giáo Iraq đã dùng thuyền chạy trốn và cuối cùng
họ đã lưu lạc đến các đảo phía Nam
Philippines. Họ giảng đạo cho dân các đảo này
và đã được dân đảo tôn trọng như các
vị thánh. Sau khi chết, các vị thánh Hồi Giáo đã
được dân địa phương mai táng và xây
cất những ngôi mộ rất đẹp. Họ
biến những ngôi mộ này thành những địa
điểm hành hương cho khách thập phương
đến kính viếng. Một trong những ngôi mộ
nổi tiếng nhất hiện nay là mộ của Makhdum
Karim trên đảo Sulu. Ông là người Iraq đầu
tiên đến giảng đạo Hồi tại Philippines
vào giữa thế kỷ 13.
Sau 3 thế kỷ
đạo Hồi tồn tại và phát triển trên
quần đảo Philippines thì quần đảo này
bị Tây Ban Nha chiếm vào thế kỷ 16. Vua Tây Ban Nha lúc
đó là Philip rất sùng đạo Công Giáo đã ra lệnh
cho quân đội dùng bạo lực cưỡng ép dân Phi
theo đạo Công Giáo. Chính
quyền thuộc địa Tây Ban Nha đã đặt tên
cho quần đảo này là Philippines, ngụ ý quần
đảo thuộc quyền cai trị của vua Philip.
Năm 1896, hải quân
Mỹ đánh chiếm Philippines từ tay Tây Ban Nha. Tổng
Thống Mỹ lúc đó là Mc Kinley rất sùng đạo Tin
Lành đã áp dụng chính sách vừa dụ dỗ vừa
cưỡng ép người Hồi Giáo Phi cải
đạo sang Tin Lành. Người Hồi Giáo ở Sulu phát
động cuộc chiến tranh chống Mỹ kéo dài 18
năm (1896-1914) gây nhiều tổn thất cho Mỹ. Chính
quyền Mỹ thay đổi chính sách bằng cách di dân Công
Giáo từ khắp nơi trong nước đến
định cư tại các đảo miền Nam từ
năm 1915 đến 1939 (24 năm liền) nhằm tạo
các vùng xôi đậu để phá vỡ tính đồng
nhất của các cộng đồng Hồi Giáo.
Bắt đầu từ
1968, người Hồi Giáo tại miền Nam Philippines
tổ chức các cuộc khủng bố dân Công Giáo. Năm
1973, dân tộc lớn nhất ở miền Nam là Moro thành
lập "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Moro"
(The Moro Liberation National Front). Nhiều nước Hồi
Giáo trên khắp thế giới tích cực ủng hộ và
tài trợ cho Mặt Trận này. Ngoài ra,một số các
tổ chức khủng bố Hồi Giáo khác cũng
được thành lập như tổ chức Abu Sayyab
từ 1990. (Tổ chức này thực hiện một
cuộc bắt cóc 19 người ngoại quốc rất
táo bạo tại đảo Jolo ngày 23-4-2000 làm chấn
động dư luận thế giới).
Dưới chính quyền
của Tổng Thống Marcos trong thập niên 1970, cuộc
nội chiến giữa dân Công Giáo và Hồi Giáo tại
đảo Mindanao đã làm thiệt mạng 120.000
người. Sau đó, chính quyền Aquino đã phải ký
kết với người Hồi Giáo Mindanao một
hiệp định công nhận "qui chế tự trị".
Từ 1986, những người Hồi Giáo cực đoan
không hài lòng với qui chế tự trị này đã tự
động thành lập một lực lượng võ trang
chống chính phủ với 40.000 tay súng. Bọn
người này hiện đang tiếp tục chống
chính phủ và gây kinh hoàng cho dân chúng tại Mindanao. Các ký
giả Tây phương gọi vùng này là "Bosnia của Á
Châu"!
ẤN ĐỘ - Trước
năm 1947, Ấn Độ là một lãnh thổ rất
rộng lớn, thường được gọi là
Tiểu Lục Địa Ấn Độ (The Subcontinent of
India) vì nó bao gồm cả nước Ấn Độ,
Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka. Tổng số tín đồ
Hồi Giáo trên tiểu lục địa này là 250 triệu
người.
Đạo Hồi đã
đến với tiểu lục địa Ấn
Độ lần đầu tiên vào năm 711, khi quân
Hồi Giáo Ả Rập đánh chiếm tỉnh Sind, nay là
Pakistan. Đến thế kỷ 11, toàn miền Bắc
Ấn theo đạo Hồi, trong đó có tỉnh Ghaznawid,
nay là nước Afganistan. Vào năm 1206, Thổ Nhĩ
Kỳ cai trị Ấn Độ đã biến
nước này thành "Quốc Gia Hồi Giáo Ấn
Độ" (Muslim State of India) đặt thủ đô
tại La Hore.
Năm 1555, Hoàng Đế
Humayun của đế quốc Mông Cổ Hồi Giáo
(Mughuls) chiếm toàn thể lãnh thổ Ấn Độ và
cai trị xứ này từ đó đến năm 1858 thì
bị đế quốc Anh thay thế (303 năm). Trong 3
thế kỷ dưới sự thống trị của đế
quốc Mughuls, nhiều người Ấn Độ đã
bỏ đạo Hindu theo Hồi Giáo.
Từ đầu năm
1946, tại khắp nước Ấn Độ bỗng
nhiên xảy ra nhiều vụ xung đột đẫm máu
giữa Hồi Giáo và Ấn Giáo. Ngày 14-8-1947, người
Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ
nhưng tách tỉnh Sind có đại đa số dân theo
Hồi Giáo thành một nước riêng gọi là Pakistan.
Theo tiếng địa phương, Pakistan có nghĩa là
"Đất của người Hồi" (Land of
Muslims). Người Hoa gọi Pakistan là Hồi Quốc.
Hồi Quốc có hai phần là Đông Hồi và Tây Hồi.
Sau khi tiểu lục
địa Ấn Độ chia ra thành hai nước theo
tôn giáo, những cuộc di cư vĩ đại đã
xảy ra: Những người Hồi Giáo từ các vùng
thuộc Ấn Giáo di cư đến Pakistan. Ngược
lại, những người Ấn Giáo tại Pakistan di
cư về Ấn Độ. Tuy nhiên, có nhiều
người đã không di cư và đành phải ở
lại với những người khác tôn giáo. Riêng tại
vùng thung lũng sông Hằng (The Ganges Valley) còn ở lại
40 triệu người Hồi Giáo. Những tỉnh có
đông dân theo đạo Hồi như Kashmire, Jammu, Punjale
và Bengal lại được người Anh chia cho Ấn
Độ kiểm soát. Tổng số người Hồi
tại các tỉnh này lên tới 20 triệu. Từ 1948
đến nay, tại những vùng xôi đậu này
thường xuyên xảy ra những vụ xung đột
đẫm máu giữa những người anh em cùng
một chủng tộc nhưng khác tôn giáo. Trên toàn lãnh
thổ Ấn Độ có 12% dân số theo đạo
Hồi.
Nói chung, Hồi Giáo đã
đến với Nam Dương, Mã Lai và Philippines qua
sự truyền giáo của các đoàn thương gia Ả
Rập, tương đối có truyền thống ôn hòa.
Ngược lại, Hồi Giáo đã đến với
tiểu lục địa Ấn Độ "bằng các
dấu chân của những đoàn quân xâm lược"
(by the stamps of the invaders): Đoàn kỵ binh Ả Rập
từ phía Tây đánh qua quân Thổ Nhĩ Kỳ từ các
nước Trung Á kéo tới và quân Ba Tư từ phía Tây
Bắc kéo sang. Đặc tính hiếu chiến hiếu sát
của những đoàn quân xâm lược Hồi Giáo đã
một phần nào tạo nên xu hướng bạo
động của các tín đồ Hồi Giáo tại vùng
Bắc Ấn. Đại đa số giai cấp tiện
dân Ấn Độ bất mãn với chế độ phân
chia giai cấp rất dã man của Ấn Giáo nên đã
đi theo đạo Hồi. Trong khi đa số dân Ấn
Độ suy dinh dưỡng nhưng vì mê tín nên đã
thờ bò và không dám ăn thịt bò. Ngược lại,
những người Hồi Giáo kiêng ăn thịt heo
nhưng lại thích giết bò để ăn thịt!
Tất cả những mâu thuẫn trên đã gây ra, những
cảnh nồi da xáo thịt thê thảm giữa những
người Ấn theo đạo Hindu và đạo
Hồi. Các cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra trên
nửa thế kỷ và vẫn còn tiếp diễn. Hiện
nay, Ấn Độ và Hồi Quốc đã sẵn sàng tiêu
diệt lẫn nhau bằng vũ khí nguyên tử vào bất
cứ lúc nào!
PAKISTAN (Hồi Quốc) - Như ta
đã biết, Pakistan đã tách ra từ Ấn Độ
năm 1947. Ngay từ khi mới tách rời đến nay,
hai nước Ấn và Hồi luôn luôn có chiến tranh
với nhau về tôn giáo và tranh chấp biên giới. Năm
1971, Đông Hồi tách ra khỏi Tây Hồi để thành
lập nước riêng là Bangladesh, thủ đô đặt
tại Dacca, dân số khoảng 100 triệu.
Hiện ở Pakistan có 14%
dân số theo đạo Hindu. Trên phương diện chính
trị, Pakistan không phải là một "quốc gia
Hồi Giáo" (A Muslim State) nhưng Hiến Pháp năm 1973
của Pakistan có điều khoản qui định:
"Không một điều luật nào của Pakistan trái
ngược với kinh Koran và Luật Hồi Giáo
Shariah".
Năm 1974, thủ
tướng Bhutto muốn đưa Pakistan ra khỏi
ảnh hưởng đạo Hồi đã tuyên bố:
"Pakistan là một thực thể Phi-Hồi-Giáo"
(Pakistan is a Non-Muslim entity). Tuy nhiên, quốc hội Pakistan
bị ảnh hưởng Hồi Giáo nặng nề
vẫn duy trì việc áp dụng luật Shariah trên toàn
quốc.
Từ 1980 đến nay,
những người Hồi Giáo cực đoan đã
tự ý vượt biên giới sang Ấn Độ
hoạt động khủng bố. Chính phủ Ấn
đã phải đối phó lại bằng cách ra lệnh
cho binh sĩ và cảnh sát Ấn có quyền bắn chết
quân khủng bố tại chỗ mà không cần phải
đưa ra tòa xét xử. Theo thông cáo chính thức của
chính phủ Ấn thì từ 1990 đến 2000 (10 năm)
chính quyền Ấn đã bắn chết tại chỗ
28.000 quân khủng bố Hồi Giáo Pakistan. Giới báo chí
Tây Phương cho rằng con số thực tế phải
cao hơn gấp nhiều lần!
TRUNG QUỐC - Chính phủ Bắc Kinh
chính thức công bố con số tín đồ Hồi Giáo
trên toàn lãnh thổ Trung Quốc hiện nay là 60 triệu. Con
số đưa ra có vẻ lớn lao nhưng thực
sự chỉ là một tỷ lệ nhỏ nhoi (0,5%) so với dân số toàn
quốc (Theo Ceasar Ferrah trong tác phẩm Islam, 6th edition 2000,
trang 283).
Sử sách Trung Quốc có
ghi: Vào năm 651, vua Hồi Giáo Uthman đã cử
đặc sứ đến yết kiến hoàng đế
Trung Hoa đời nhà Đường, dâng lên hoàng đế
nhiều cống vật quí hiếm của xứ Ả
Rập để thiết lập mối giao hữu
giữa hai nước. Ít lâu sau, nhiều thương gia Hồi
Giáo Ả Rập và Ba Tư đã đến buôn bán và
định cư tại Trường An (Changan) Quảng
Châu (Guangzhou) và Hàng Châu (Hangchow). Từ cuối thế
kỷ 8, người Trung Quốc đã đọc sách
chữ Hán viết về Hồi Giáo. Đó là sách của
Du-Huan, một người Trung Quốc đã sống 12
năm tại các nước Ả Rập Hồi Giáo
(751-762). Sau khi trở về Trung Quốc, ông đã viết
sách giới thiệu Hồi Giáo và đời sống các
nước Ả Rập. Trong thế kỷ 9, các sách niên
giám ghi nhận sự kiện tại triều đình Trung
Quốc có tới 37 phái đoàn các nước Hồi Giáo
đến triều yết hoàng đế Trung Quốc.
Học giả Chan Yuan
viết sách Tạp Ghi về Hồi Giáo Trung Quốc (Records
of Chinese Islam) cho biết: Thành phần Hồi Giáo quan
trọng nhất tại Trung Quốc là những người
Trung Á. Dưới đời nhà Nguyên (1271-1368) nhiều
người trí thức Hồi Giáo Trung Á đã
được triều đình nhà Minh trao cho nhiều
chức vụ quan trọng đặc trách về y khoa,
thiên văn, văn chương và nhất là về kỹ
thuật quân sự. Đến đời nhà Minh (1368-1644)
nhiều nhân tài Hồi Giáo vẫn tiếp tục
được trọng dụng. Nhiều học giả
Hồi Giáo viết sách chữ Hán quảng bá đạo
Hồi như Wang Dai Yu
viết sách "Đại
Học Hồi Giáo" (The Islamic Great Learning) phỏng theo
sách Đại Học của Khổng Giáo. Cuối
đời Tống, học giả Lin Zhi viết sách
"Triết Học Hồi Giáo về bản chất con
người và lý trí" (The Islamic Philosophy of Human Nature and
Reason).
Các người Hồi Giáo
tại Trung Quốc đều tự xưng là HUI nên
người Trung Quốc gọi họ là "Người
Hồi" (HUI people) và gọi đạo Hồi là HUI-JAO
(Hồi Giáo).
Vào năm 1862, lần
đầu tiên kinh Koran được dịch sang chữ
Hán. Năm 1927, trọn bộ kinh Koran bằng tiếng
Nhật được dịch sang chữ Hán và in tại
Bắc Kinh với phần phụ đề bằng
tiếng Anh là The Kelan (The Koran).
Hiện nay, tại các thành
phố lớn của Trung Hoa lục địa đều
có nhiều người Hồi gốc Trung Á sinh sống
bằng các nghề chuyên môn với trình độ kỹ
thuật cao. Bắc Kinh có 200.000, Thiên Tân 150.000,
Thượng Hải 50.000... Họ chuyên làm các đồ
bằng da, len sợi, nữ trang, đóng hộp thịt
bò, sản xuất mì sợi và nhất là kỹ nghệ nhà
hàng (restaurant).
Về phương diện
chính trị, từ thế kỷ 19 đến nay, những
người Hồi Giáo tại Tân Cương và Vân Nam
đã nhiều lần nổi lên chống chính quyền Trung
Quốc để đòi thành lập quốc gia tự
trị. Đối với họ, vùng đất họ
cư ngụ là lãnh thổ riêng của họ chứ không
thuộc Trung Quốc vì tổ tiên của họ là những
người Trung Á (Caucasus, Tajikistan, Kazakhstan, Uzebekistan và
Afganistan) đã đến đây lập nghiệp và
định cư từ nhiều ngàn năm trước khi
bị người Trung Quốc xâm chiếm. Mới đây
các nhà khảo cổ Nga đã đào được rất
nhiều xác ướp tại sa mạc Taklimakan thuộc
tỉnh Tân Cương. Các cuộc giảo nghiệm đã
xác nhận những xác ướp này là xác những
người Caucasus đã sinh sống tại Tân Cương
từ 4000 năm trước! (tức khoảng 2000 năm
trước Công Nguyên). Như vậy, đất Tân
Cương là phần đất của giống dân Trung Á
xưa kia và đã bị Trung Quốc xâm lấn sau đó.
VIỆT NAM -
Theo giáo sư Ceasar Ferrah thuộc đại học
Minnesota, tác giả cuốn ISLAM, 6th edition 2000, Barron's (trang
275-276) thì hiện nay Việt Nam có 55.000 tín đồ
Hồi Giáo, 2/3 là người Chà Và (Javanese, gốc Nam
Dương) và gốc Chiêm Thành (Chàm/Champa), 1/3 còn lại là
người Việt gốc Miên.
Riêng tại hai tỉnh Ninh
Thuận và Bình Thuận có 70.000 người Chiêm Thành, chia ra
50.000 theo Ấn Giáo (Hindu) và 20.000 theo Hồi Giáo. Số
người Chà Và tại đồng bằng sông Cửu
Long là 25.000 người đều có tổ tiên tại Nam
Dương đã theo đạo Hồi nhiều thế
kỷ trước khi di cư qua VN. Tại Sài Gòn có 10.000
người theo Hồi Giáo thuộc nhiều chủng
tộc. Sau 1975, có 1750 người Hồi Giáo xin di cư qua
Yemen và 2000 người xin qua Mã Lai.
Các du khách Hồi Giáo
đến Việt Nam nhận thấy Hồi Giáo Việt
Nam đã mất đi tính cách chính thống vì đã bị
lai tạp với Phật Giáo và Ấn Độ Giáo
rất nhiều. Tại nhiều nhà thờ Hồi Giáo có
vẽ rồng phượng và hoa sen. Quan niệm về
Allah rất mờ nhạt, có nơi tín đồ Hồi
Giáo đọc kinh khấn vái Ali (con rễ của Muhammad)
và gọi Ali là "Con Thiên Chúa" (Son of God) là điều
đạo Hồi cấm kỵ. Người Hồi Giáo
Việt Nam thường không ăn chay trọn tháng Ramadan mà
chỉ ăn chay 3 ngày mà thôi, sau đó họ bày ra tiệc
tùng linh đình tại nhà thờ và mời bạn bè theo các
đạo khác đến ăn cho vui.
Từ trước
đến nay đạo Hồi không bị kỳ thị
tại Việt Nam nhưng đối với Hồi Giáo
thế giới thì Hồi Giáo Việt Nam giống như
một ốc đảo cô đơn. Họ cách ly với
thế giới bên ngoài do trở ngại về ngôn ngữ
và hầu như không có ai biết tiếng Ả Rập
để học hỏi trực tiếp về giáo lý
đạo Hồi.
Vả lại, tỷ
số Hồi Giáo chưa tơí 1/1000 trên tổng số
dân Việt Nam. So sánh với
các nước Á Châu khác, cộng đồng Hồi Giáo
Việt Nam rất nhỏ bé và không có một ảnh
hưởng chính trị nào.
Hồi Giáo tại các
nước Á Châu khác:
Quốc Gia Dân số Số tín đồ Hồi
Giáo
Nhật
Bản 130 triệu 100.000
Taiwan 20
triệu 80.000
Campuchia 5
triệu 350.000
Thái
Lan 55 triệu 6.000.000
Singapore 3
triệu 500.000
Riêng tại tỉnh Kampong Cham
thuộc Kampuchia có 300.000 người Hồi Giáo gốc
Chàm. Tổ tiên họ là những người Hồi Giáo
Chiêm Thành đã di cư sang Kampuchia trong thế kỷ 11 sau
cuộc chiến tranh "Bình Chiêm" của các vua
đời Lý của Việt Nam.