Quan niệm “Ông Trời” của người Việt
Charlie Nguyễn (Bùi văn Chấn)
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam
đã có nhiều ý niệm về “Ông Trời”. Những ý
niệm đó đã được bộc lộ qua các câu
ca dao tục ngữ hoặc trong thi phú của giới trí
thức nho học uyên thâm mà ta thường gọi là
“văn chương bác học”. Tuy nhiên, muốn hiểu ý
nghĩa thật sự của Ông Trời Việt Nam chúng ta
cần phải khảo sát văn chương bình dân vì chỉ
trong văn chương bình dân tâm hồn chất phác
của nông dân Việt Nam mới được thể
hiện trọn vẹn và trung thực. Đối với
các nhà nho chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc
thì Ông Trời là “Ngọc Hoàng Thượng Đế” mà
người Hoa thường lập bàn thờ để
thờ, hoặc có thể là “Hoàng Thiên” như trong câu “Hoàng
thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Điểm khác biệt
giữa quan niệm của người Tàu về Ngọc
hoàng Thượng đế (hoặc Hoàng Thiên) với quan
niệm về “Ông Trời” của người Việt Nam
là người Việt không tôn trọng Ông Trời. Ngay cách
gọi Trời bằng “Ông” cũng đã là một cách
diễu cợt. Người Việt Nam
coi Trời không hơn ông hàng xóm: “Bắc thang lên hỏi ông
trời!”.
Có lẽ chỉ có người Việt nam
“dám” gọi Trời bằng Ông mà thôi vì chúng ta không hề
thấy một cách gọi tương đương trong
các ngôn ngữ khác. Chúng ta không hề thấy người
Tàu gọi “Ngọc hoàng Thượng đế” là Ngọc
hoàng tiên sinh, Thượng đế tiên sinh hoặc Hoàng
thiên tiên sinh.... Chúng ta cũng không hề thấy
người Anh hoặc người Pháp gọi Thiên Chúa là
Mr. God! Monsieur Dieu!.... Hơn thế nữa, người
Việt Nam còn tỏ thái độ xem thường ông
Trời qua cách gọi Trời là “Con Tạo” hoặc
“Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu
ông trời!
- “Con cóc là
cậu ông trời
Hễ ai đánh
nó thì trời đánh cho” (Ca
dao)
- “Trẻ tạo
hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)
- “Đố
kỵ sá chi con tạo
Nợ tang
bồng quyết trả cho xong” (Nguyễn Công Trứ)
Đối với người Việt Nam
bình dân, “Ông Trời” cũng tương tự như “Ông
Trăng” “Ông Sao” mà thôi, tuyệt nhiên không hề có ý nghĩa
là Đấng Tối Cao hoặc Đấng Toàn Năng theo
quan điểm của Kitô giáo.
Một sĩ phu nổi tiếng trong Phong trào
Cần Vương là Trần cao Vân đã lột tả quan
niệm của ông về “Ba Ngôi” trong vũ trụ là:
Trời, Đất, Người (Thiên - Địa –Nhân) có
mối tương quan đồng cảm và đồng
dẳng qua bài thơ sau đây:
Trời
đất sinh ta có ý không?
Chưa sinh
trời đất, có Ta trong
Ta cùng Trời
Đất, ba Ngôi sánh
Trời đất
sinh ta một chữ Đồng
Đất
nứt ta ra, Trời chuyển động
Ta thay trời
mở đất mênh mông
Trời che
đất chở, ta thong thả
Trời,
Đất, ta đây đủ hóa công.
Đối với Hồi giáo, Do thái giáo và Ki
tô giáo, các tín đồ đều được gọi là
“những kẻ kính sợ Chúa” (God-fearers). Trái lại,
người Việt Nam
bình dân không hề “sợ Trời”. Họ tin rằng
nếu con người cố gắng phấn đấu
cũng có thể “thắng trời” như thường:
- Xưa nay nhân
định thắng thiên cũng nhiều!
hoặc cứ liều làm theo ý mình và mặc
cho trời muốn làm gì thì làm:
- Cũng liều
nhắm mắt đưa chân
Thử xem Con
tạo xoay vần đến đâu. (Nguyễn Du)
Ý niệm thông thường nhất của
người Việt Nam
về “Ông Trời” chính là bầu trời xanh vật
chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi
trường thiên nhiên của mọi biến chuyển
về thời tiết như mưa nắng, gió bão v.v...
thể hiện nổi bật ý niệm này là bài thơ
“Vịnh Ông Trời” của Nguyễn Khuyến (1835-1909):
Cao cao muôn
trượng ấy là Tao
Dẫu pháo
thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo
dưới trần cho chúng biết
Tháng ba, tháng tám
tớ mưa rào.
Khi người Việt nam nói “trời mưa”,
“trời nắng” thì chỉ có nghĩa là thời tiết
mưa hay nắng chứ không hề có nghĩa là
“Đức Chúa Trời mưa” hay “Đức Chúa Trời
nắng”!
Nguyễn Bính có hai câu thơ rất hay:
Nắng mưa là
bệnh của trời
Tương
tư là bệnh của tôi yêu nàng
Trời của Nguyễn Bính trong câu thơ
trên cũng chỉ là thời tiết mà thôi. Trong những
trường hợp khác, Trời được hiểu là
Luật thiên nhiên trong vũ trụ như:
- Cha mẹ sinh
con, trời sinh tính
- Trời sinh,
trời dưỡng
- Trời sinh voi,
trời sinh cỏ
Người Việt nam bình dân cũng quan niệm
“Ông Trời” như số mệnh của con người
hoặc số phận được quyết định
bởi những yếu tố vuợt quá tầm kiểm
soát của con người, chẳng hạn như:
Ngẫm hay muôn
sự tại trời (số
mệnh !)
Trời kia đã
bắt làm người có thân
Bắt phong
trần phải phong tràn
Cho thanh cao
mới được phần thanh cao
Nguyễn Du
hay:
Trời sao ăn
ở chẳng cân
Kẻ ăn không
hết, người lần chẳng ra
Ông Trời cũng có thể được
hiểu là luật Nhân Quả, nếu ta cố gắng tu
thân và có lòng nhân ái, chắc chắn sẽ gặt kết
quả tốt:
Trời sinh,
trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Có trời mà
cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình
là dây oan (Nguyễn Du)
Trên đây là những ý niệm của
người Việt nam về ông Trời đã
được thể hiện qua ca dao, tục ngữ và
văn chương bác học, tuyệt nhiên không có ý
nghĩa là Đấng Tòan Năng hoặc Thiên Chúa của
đạo Kitô. Ông Trời trong tâm thức của
người Việt nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và
rất hiền hòa, hòan tòan trái ngược với Thiên Chúa
trong Kinh thánh Cựu ước là một ác thần hay
đúng hơn là một ác quỷ.
Vả lại, nước ta vốn là
một nước nông nghiệp, truyền thống dân
giả Việt nam vốn tin vào Trời như sự
tuần hoàn tự nhiên của vũ trụ thiên nhiên.
Người nông dân luôn luôn phải quan sát thiên nhiên
để đoán trước các biến chuyển về
thời tiết hầu ứng dụng vào công cuộc
trồng cấy:
Trông trời,
trông đất, trông mây
Trông mưa, trông
gió, trông ngày trông đêm
Trông cho chân
cứng đá mềm
Trời êm bể
lặng mới yên tấm lòng
Khi thấy người dân Việt nam hay nói
đến Trời, các mục sư Tin lành và các tu sĩ
Công giáo mừng khấp khởi như bắt
được vàng. Các vị này đã hết sức
trổ tài hùng biện để chứng minh rằng:
Mỗi khi người Việt nam kêu “Trời ơi!” chính
là lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang
làm chủ trên vòm trời xanh!
Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm
văn hiến của dân tộc Việt nam có một giá
trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các
mục sư Tin lành và các linh mục Công giáo truyền
đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam
vào ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. Đây là
một thủ đoạn gian trá nhằm vào mục đích
xiềng xích trì trệ chất phác của người dân
quê Việt nam vào những cái khung cứng ngắc của
niềm tin giả tạo vào Thiên Chúa của họ.
Những hành động này hoàn toàn
tương phản với tâm hồn chất phác của
người dân Việt vốn chỉ tin tưởng vào
Thiên Nhiên và Định Mệnh con người mà thôi.
Có nhiều trí thức và tu sĩ Công giáo khai
thác ý niệm Ông Trời Việt nam để truyền
đạo. Chúng ta có thể nêu lên một số
trường hợp điển hình sau đây:
1. Linh mục (Lm) Trần cao Tường: Trên
báo “Thế kỷ 21” số 125 tháng 9/99 có đăng bài
“Đạo kính tổ tiên, điểm gặp gỡ chung
cho các tín ngưỡng Việt” của Lm Trần cao
Tường. Trong bài này, Lm Tường cố ý xuyên tạc
đạo hiếu và Ông Trời để phục vụ
cho mục tiêu truyền đạo. Lm Tường viết:
“Có thể nói, niềm tin vào ông Trời đã có sẵng trong
tâm thức người Việt trước cả khi các
tôn giáo du nhập...” Cuối cùng, Lm Tường cố ý gán
ghép ý niệm Ông Trời (tức Thiên Nhiên) của dân
tộc Việt với ý niệm Thiên Chúa của đạo
Kitô (The Christian God). Khi gán ghép như vậy, Lm Tường
đã tự tố cáo sự hiểu biết nông cạn
của mình vì thực sự ông ta không hiểu gì về
sự khác biệt như nước với lửa
giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa ba ngôi của
đạo Kitô. Tôi sẽ phân tích rõ về sự khác
biệt ở phần cuối bài này.
2. Trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai: Ông lai là
một trí thức Công giáo sinh trưởng tại Hà
nội. Cuối thập niên 1920 ông du học tại Paris
và đậu tiến sĩ luật năm 1935. Trong
đầu thập niên 1930, ông viết sách “La Tradition
Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam”
(Truyền thống Tôn giáo Tâm linh Xã hội tại Việt
nam) nhưng đến năm 1981 sách này mới
được xuất bản lần đầu tại
Pháp. Ông Lai qua đời năm 1992 tại VN, thọ 84
tuổi.
Báo Đất mẹ (số 103, tháng 2/2003,
trang 23) trích dịch một phần sách của ông Lai, trong
đó có đoạn viết: “Ông Trời được
người Việt nam tôn kính không phải là một ông
thần hộ mệnh mà là một Thiên Chúa Ngôi vị (Dieu
personnel / Thiên Chúa Ba ngôi) ngự trị trên các tầng
trời”. Trường hợp của trí thức Công giáo
Nguyễn huy Lai cũng như Linh mục Trần cao
Tường nói trên, cả hai đều không nhận ra sự
khác biệt sâu xa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa
của đạo Kitô (tức Thiên Chúa Ba ngôi). Đây là
sự khác biệt như hai thái cực tương phản
khiến cho không một ai có thể đồng hóa
được.
3. Linh mục Giuse Trương đức
Kỷ tức Cao phương Kỷ, giáo sư môn thần
học tại nhiều chủng viện Việt nam và Hoa
kỳ, tác giả sách “Thiên Chúa giáo và Tam giáo”, 536 trang,
xuất bản tại Mỹ năm 2000. Đây là một
cuốn sách triệt để khai thác và xuyên tạc ý
niệm Ông Trời để phục vụ cho nhu cầu
truyền đạo Kitô.
Trong Lời giới thiệu, Lm Trần công
Nghị (thuộc Hội đồng Chỉ đạo Liên
tôn) đã viết về tác giả của cuốn sách
như sau: “Sọan giả nêu ra những chân lý chung làm nền
tảng mà bất cứ giáo phái nào cũng công nhận...
mẫu số chung cho các tín ngưỡng của
người Việt nam là niềm tin ở Ông Trời,
tức Đấng Siêu Việt”.
Rõ ràng một điều là cả Lm Trần
công Nghị lẫn Lm Cao phương Kỷ đã
cương ẩu vì trong ca dao tục ngữ cũng như
trong thi phú Việt nam chẳng có câu nào ca ngợi Ông
Trời là “Đấng Siêu Việt” cả. Ngay danh xưng
“Ông Trời” cũng đã hàm ý - phủ nhận cái ý
nghĩa “Đấng Siêu Việt” rồi, vì liệu Lm Cao
phương Kỷ có thể gọi Đấng Siêu
Việt là “Ông Siêu Việt” được không? Nếu coi
Trời là Đấng Siêu Việt thì tại sao
người Việt nam lại gọi Trời là Con
Tạo, Trẻ Tạo Hóa, con cóc là cậu ông Trời?
Chẳng lẽ con cóc là cậu của Đấng Siêu
Việt?
Nơi trang 4 sách dẫn chiếu, Lm Cao
phương Kỷ ca ngợi cố đạo Alexandre de
Rhodes là người am trường tín ngưỡng
đặc biệt của Việt nam: “Cha Đắc
Lộ đề cao niếm tin cổ truyền ở
một Vị Thần Siêu Việt mà dân chúng thường kêu
xin là Ông Trời.”
Quả thật, Đắc Lộ đã sáng
tác ra danh từ “Đức Chúa Trời” và y là người
đầu tiên xử dụng danh từ này trong nhiều
trường hợp:
- Đắc Lộ lập ra hội “Nhà
Đức Chúa Trời” có mục tiêu đào tạo các
thầy giảng cho giáo hội Việt nam.
- Đắc Lộ dịch sách giáo lý bằng
tiếng La-tinh “Cathéhismes” ra tiếng Việt, đó là sách
“Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa
tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời.”
- Đắc Lộ thay thế tiếng “Chúa
Dêu” phiên âm từ tiếng La-tinh “DEUS” bằng danh từ
“Đức Chúa Trời” trong các bài kinh nguyện của
Việt nam. Thí dụ như kinh Kính Mừng trước kia
được phiên âm từ tiếng La-tinh như sau: “Ave
Maria, đầy ga-ra-xi-a, Đức Chúa Dều ở cùng
bà...”.
Đắc Lộ là người đầu
tiên đưa đạo Công giáo hội nhập vào văn
hóa Việt nam bằng cách mô phỏng danh từ “Ông
Trời” để sáng chế ra danh từ “Đức Chúa
Trời” đã trở thành rất thông dụng trong quần
chúng Công giáo Việt. Nhưng Đắc Lộ đã
thất bại khi gò ép chứng minh Ông Trời là “Vị
Thần Siêu Việt” mà Linh mục Cao phương Kỷ
muốn chúng ta hiểu là Thiên Chúa của đạo Kitô
(Christian God).
Trong thực tế, Matteo Ricci ở Trung-Quốc
và cố đạo Đắc Lộ tại Việt
nam đều không dám
đề cập đến Thiên Chúa của đạo Kitô
là Thiên Chúa Ba ngôi (Christian Gos is Trinity God) trong các sách giáo lý
của họ. Bởi lẽ Thiên Chúa Ba ngôi là một
thứ “toán học kỳ quặc”: Ba là Một, Một là
Ba. Jesus là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người,
đồng thời cũng là Đức Chúa Cha tạo thành
vũ trụ vạn vật và cũng là Đức Chúa Thánh
thần, chồng của mẹ ông. Nói đúng hơn, Thiên
Chúa Ba ngôi là một quái thai tư tưởng mà bản thân
Matteo Rici và Alexandre de Rhodes cũng không hiểu nổi và
cũng không thể giảng giải cho người khác
hiểu được. Vì thế họ đành phải câm
miệng. tuy nhiên, Alexandre de Rhodes nhận thấy
người Việt có phong tục ăn mừng suốt ba
ngày trong dịp tết Nguyên đán nên y thực hiện
quỉ kế là khuyên giáo dân dành ba ngày tết để tôn
thờ Thiên Chúa Ba ngôi: Ngày mồng một tết tôn thờ
Đức Chúa Cha, ngày mồng hai tôn thờ Đức Chúa
Con (tức Jeus) và ngày mồng ba tôn thờ Đức Chúa
Thánh thần. Trải qua trên ba thế kỷ, nhiều giáo
xứ Công giáo Việt nam hiện vẫn còn giữ tập
tục tôn thờ Thiên Chúa Ba ngôi trong ba ngày tết. Hành
động này đã khiến cho giáo dân Việt nam mặc
nhiên chấp nhập tín điều Thiên Chúa Ba ngôi mà không
cần phải dùng lý trí để phân biệt đúng sai.
Tiếp tục tán láo trong chiều
hướng gò ép nhằm cưỡng chế người
đọc phải hiểu Ông Trời là Thiên Chúa, Linh
mục Cao phương Kỷ viết: “Theo truyền
thống cố hữu của dân tộc Việt nam thì
niềm tin vào một Đấng Bề Trên đã
được biểu lộ trong nghi lễ tế tự,
ca dao tục ngữ, văn thơ và đặc biệt
trong lời kêu cứu cầu xin chân thành đặt hết
ước vọng của cuộc đời vào sự quan
phòng của Ông Trời (sđd, Thiên Chúa giáo và Tam giáo, trang
387); “con người hướng tâm linh lên một Quyền
lực Thiêng liêng làm chủ tể muôn loài.... đầy tình
thương xót, có thể lắng nghe những lời
cầu kinh:
Lạy Trời
mưa xuống
Lấy
nước tôi uống
Lấy ruộng
tôi cầy
Lấy dầy
bát cơm,
Lấy rơm
đun bếp.”
(sđd, trang 392)
Linh mục Cao phương Kỷ đã
trắng trợn cưỡng đoạt bài ca dao Việt nam
“Lạy Trời mưa xuống” và biến nó thành một
bài kinh nguyện (prayer) của đạo Công giáo!
Linh mục Kỷ nên nhớ rằng:
tuyệt đại đa số dân Việt là những nhà
nông, chuyện nắng mưa là vấn đề sinh tử
đối với họ. Bài ca dao nói trên chỉ mô tả
ước vọng của nông dân Việt nam mong sao cho
mưa thuận gió hòa để họ được mùa và
có gạo mà ăn. Đơn giản chỉ có vậy thôi!
Khi người nông dân Việt nam nói: “Lạy Trời
mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy
ruộng tôi cày...” họ không hề quì gối chấp tay
với nét mặt thẩn thờ mất trí như khi
người Công giáo đọc kinh cầu Chúa. Vậy không
thể nói người nông dân Việt nam “cầu kinh”
với ông Trời!
Trong suốt cuốn sách dầy trên 500 trang,
Linh mục Cao phương Kỷ luôn luôn bẻ cong ngòi bút
để viết những lời cường điệu
thô bỉ khiến người đọc phải “lợm
giọng”. Tôi thật sự phải “lợm giọng” khi
đọc những dòng sau đây:
“Lịch sử của vũ trụ, của
nhân loại cũng là lịch sử Cứu Độ, vì
tất cả mọi sự hiện hữu đều do
Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng
Cứu Thế thì không có vũ trụ, không có lịch
sử, không có nhân loại, nhân sinh.”
(Sách đã dẫn, trang 113)
Tôi không biết trình độ trí thức
của Linh mục Cao phương Kỷ tới mức nào
mà viết lời ca ngợi Jesus như lời của
một kẻ mê sảng: “Tất cả mọi sự
hiện hữu đều do Jesus mà có”. nếu quả
thật như vậy thì chuyện Jesus chết trên thập
giá chỉ là một trò hề vì cây thập giá và đoàn quân
La mã đóng đinh y trên núi Sọ đều là những
sản phẩm do y tạo ra, tất cả đều do
Jesus sinh ra và do y hoàn toàn làm chủ. Vậy làm sao y có thể
là một nạn nhân phải chịu cực hình để
chuộc tội thiên hạ? Ngay
cả mẹ của Jesus cũng do Jesus đẻ ra hay sao?
Tôi mong Linh mục Cao phương Kỷ và
Linh mục Trần công Nghị (cả hai đều là
tiến sĩ thần học) hãy bình tâm coi lại Thánh kinh
Tân ước, chỉ cần tìm ra vài câu nói điển hình
của Jesus cũng đủ
thấy Jesus là một kẻ khùng:
Nếu không phải là kẻ khùng thì tại
sao Jesus lại dạy tín đồ: “Phúc cho ai không thấy
mà tin”? Cái giá trị cao
nhất khiến con người “linh ư vạn vật”
là trí tuệ, vậy muốn xứng đáng làm
người thì phải biết xử dụng trí tuệ
suy xét mọi việc trước khi tin vào bất cứ
điều gì. Jesus dạy tín đồ vứt bỏ cái
giá trị quí báu nơi con người là trí tuệ
để nhắm mắt tin bừa vào những
điều y nói. Vậy y chẳng phải là một kẻ
khùng hay sao?
Phải chăng hai tiến sĩ thần
học Cao phương Kỷ và Trần công Nghị đã
vâng theo “Lời u mê” mà vất bỏ trí tuệ của mình
để viết nên cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam giáo” và
viết lời giới thiệu cho cuốn sách “cỏ rác”
này?
Truyền thống cao quí của dân tộc
Việt nam từ xưa đến nay là Đạo
Hiếu. Nói đúng hơn, đó là truyền thống
biết ơn các đấng sinh thành, các bậc tổ tiên
và còn nới rộng ra tới các vị anh hùng dân tộc
nữa. Vì thế mới có bàn thờ gia tiên trong mỗi gia
đình, có đền thờ tổ, đền thờ Hai
Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần
v.v... Nhưng Jesus hoàn toàn không
biết đến đạo hiếu là gì. Jesus đã công
khai dạy các tín đồ của y như sau: “Bất
cứ kẻ nào đến với ta mà không thù ghét cha
mẹ vợ con và anh chị em, thậm chí không ghét bỏ
cuộc sống của chính nó, thì không thể là môn
đệ ta” (If any man comes to me and hate not
his father, and mother, and wife, and children, and brother, and sisters, yea,
even his own life, he can not be my discipline – Luke 14:26).
Vậy những kẻ tự xưng là tín
đồ đạo Kitô (Christians) phải là những
kẻ đại bất hiếu vì nếu không thù ghét cha mẹ
thì không thể là môn đệ của Jesus! Chẳng
những thế, họ còn phải thù ghét vợ con (bất
nghĩa) và ghét cả anh chị em họ hàng (bất nhân)
nữa! Thiên Chúa của
đạo Kitô dạy các tín đồ những điều
vô giáo dục như vậy sao? Vậy chính Jesus là tác
giả của lời dạy đó là người như
thế nào, nếu không phải là một người vô giáo
dục? Theo tôi, nếu Jesus
quả thực đã thốt ra những lời như
vậy thì ông là một kẻ khốn nạn.
Ngoài ra, Jesus còn tuyên bố: “Ta không đem hòa
bình cho thế gian nhưng chỉ mang gươm giáo mà thôi”
(I came not to send peace to the world, but a sword –
Revelation 22:11). Riêng về điều này thì Jesus
nói đúng vì từ ngày có đạo Kitô đến nay, trên
200 triệu người đã bị giết chết
bởi những dàn hỏa, các cuộc thập tự chinh
và các cuộc chiến tranh do
Kitô giáo trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra (Deceptions and Myth of the Bible – Lloyd M. Graham, p. 463).
Jesus đã hiển nhiên là một kẻ khùng,
và là một kẻ gieo tai họa cho nhân loại như
lời tự thú của chính hắn. Vậy Jesus có đáng
được chúng ta tôn thờ hay chỉ đáng cho chúng
ta “phỉ nhổ”?
Tôi yêu cầu Linh mục Cao phương
Kỷ hãy lên tiếng trả lời câu hỏi này. Nếu
linh mục khẳng định “Jesus đáng cho chúng ta tôn
thờ” thì ông là một người đã mất hết lý
trí và niềm tin của ông chỉ là một đức tin
mù (a blind faith) ! Thật
sự ông chỉ là một kẻ đáng thương
hại mà thôi. Dầu sao chăng nữa tôi cũng nhận
thấy Lm Cao phương Kỷ là một “trí thức”
rất thông thạo Anh ngữ vì ông đã từng là giáo
sư thần học tại nhiều chủng viện Công
giáo Hoa kỳ nên tôi khuyên ông hãy tìm đọc cuốn sách
best-seller của sử gia nổi tiếng Lloyd M. Graham,
đó là cuốn Deceptions and Myths of the Bible. Mong ông hãy bình tâm
suy nghĩ về những lời khuyên chí lý và chí tình
của tác giả:
- “Hiểu đúng là do biết đúng chứ
không do lòng tin” (Right understanding
comes from knowing, not just believing. Page 419).
- “Cái gọi là Đức Tin chỉ là
niềm tin vào cái không biết. Cái không biết cũng là cái
không có thật. Đức tin vào cái không biết và không
thật là sự điên rồ. Đó chỉ là niềm tin
vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của
kẻ khác” (Faith is belief in the unknown. But since the unknown is likely the
unreal also. Faith in the unknown is foolishness, only belief in other
believers’ ignorant asumptions – page 413).
Nếu ông còn chút lương tri, chắc
chắn ông sẽ nhận ra Lloyd M. Graham là vị thầy
dạy về Đức Tin Thông Minh (Intelligent Faith) còn Jesus
là một “kẻ khốn nạn” đã dậy các tín
đồ và tông đồ của nó một thứ
Đức Tin Mù (Blind Faith):
“Phúc cho ai không
thấy mà tin”!
(Web GĐ
lược bỏ hai trang viết tay, độc giả có
thể tìm đọc trong bài viết Công giáo là Đạo
Thờ Bò Cải Biến trong
cuốn “ Thực Chất Đạo Công giáo và các
Đạo Chúa” do GĐ xuất bản, Xuân 2003 - từ các
trang 89-111; hoặc trên websites GĐ trong tháng 6/2003 -Giao
Điểm).
Lịch sử đã chứng minh: Thiên Chúa Ba
Ngôi là sản phẩm của công đồng Nicea nhằm
tôn Jesus lên làm Ngôi Hai Thiên Chúa. Chính cái tín điều quái
gở này đã phát sinh ra hai hệ quả sau đây:
1. Về ngoại hình, Thiên Chúa là một “quái
vật ba đầu” gồm có đầu bò El (Chúa Cha)
đều Jesus (Chúa Con) và đầu con chim bồ câu (Chúa
Thánh Thần).
2. Về đức hạnh, tín điều
Thiên Chúa Ba ngôi đã biến Jesus thành một đứa con
loạn luân với mẹ ruột y. Chẳng cần
phải tìm bằng cớ ở đâu xa: Trong sách Chứng
nhân Hy Vọng (trang 293) tác giả là Hồng y Nguyễn
Văn Thuận đã viết về mối tương quan
giữa bà Maria với ba ngôi Thiên Chúa như sau:
“Là nữ tử của Thiên Chúa Cha,
Đức Mẹ đã trở thành mẹ của Ngôi
Lời Nhập Thể (Jesus / Chúa Con) và là hiền thê
của Chúa Thánh Thần”. Vì cả ba ngôi chỉ là một
Thiên Chúa Duy Nhất (Tam Vị Nhất Thể) nên cùng
một lúc bà Maria là con gái, mẹ, và vợ của Jesus.
Ngược lại Jesus cùng một lúc vừa là Cha, là Con và
là chồng của bà Maria. Nếu đã tin vào tín
điều Thiên Chúa Ba ngôi thì đương nhiên phải
tin Jesus là một thằng con mất dạy vì y đã
loạn luân với mẹ ruột của y. Tôi thách
đố toàn giáo hội Công giáo Việt nam phản bác
lại điều này.
Ngoài ra, theo đúng tinh thần của Cựu
ước thì Chúa Cứu Thế phải là người
thuộc dòng dõi của vua David. Nếu Jesus là Chúa Cứu
Thế thuộc dòng dõi David thì không thể là Con của Chúa
Thánh Thần. Nếu thuộc dòng dõi vua David thì Jesus phải
là con ruột của Giuse và như vậy thì bà Maria đã
bị mất “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” !
Ngược lại, nếu Jesus là con của
Chúa Thánh Thần thì y không thể là Chúa Cứu Thế vì y
không thuộc dòng David. Và như vậy Jesus cũng chẳng
phải là Thiên Chúa mà chỉ là người thường
như chúng ta. Vậy tại sao phải tôn thờ Jesus?
Tục ngữ Việt nam có câu “dấu
đầu hở đuôi” để lột tả cái
hậu quả đương nhiên của những kẻ
chuyên môn dối trá bịp bợm. Dù sớm hay muộn,
những điều dối trá cuối cùng cũng bị
lật tẩy mà thôi.
Công cuộc lật tẩy mọi dối trá
bịp bợm của Kitô giáo - gồm cả Công giáo
lẫn Tin lành – là nhiệm vụ hàng đầu của
mọi chiến sĩ văn hóa chân chính của dân tộc
Việt nam trong giai đoạn hiện tại. Phơi bày
bộ mặt thật, bỉ ối của Kitô giáo
trước công luận rộng rãi trong và ngoài nước
là một phương cách hữu hiệu để cứu
nguy dân tộc và bảo vệ tiền đồ văn hóa
của Tổ quốc.
Một trong những thái độ cần thiết
của người chiến sĩ văn hóa là phải
tự coi mình như một người lính gác giặc, luôn
luôn đề cao cảnh giác để kịp thời phát
hiện mọi tên gián điệp văn hóa của
địch. Trong số các chiến sĩ văn hóa hàng
đầu trong lãnh vực này, chúng ta phải kể
đến nhà nghiên cứu văn hóa chính trị Lê trọng
Văn qua nhiều tác phẩm của ông, đặc
biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò
Chính Trị”, 455 trang, do tác giả xuất bản tại
hải ngoại năm 1991. Tác giả đã dành ra 100 trang
sách để lột mặt nạ tên gián điệp
đội lốt thầy tu là Linh mục Lương kim
Định trong nhiệm vụ thực hiện y khuôn sách
lược lừa bịp của Vatican.
Tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái thủ
đoạn rất quen thuộc của bọn gián
điệp là “tìm cách hòa đồng để rồi
đồng hóa”. Điểm mặt những tên gián
điệp văn hóa theo những tiêu chuẩn nói trên, tôi
nhận thấy có hai tên đáng chú ý là:
1. Linh mục Cao phương Kỷ thuộc
Dòng Đồng Công ở Carthage, bang Missouri, Mỹ, tác
giả cuốn “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” mà tôi đã trình bày
sơ lược ở phần trên của bài viết này.
Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm vài điều về Dòng
Đồng Công. Dòng tu này được thành lập
tại Bùi Chu vào đầu thập niên 1940 do lệnh
của Giáo hoàng Pio XII. Chúng ta đã biết Pio XII đã
nối tiếng là tên tội phạm chiến tranh
đứng hàng thứ hai sau Hitler. Tên giáo hoàng phát xít này
rất muốn công bố tín điều: “Đức
Mẹ Đồng Công cứu cuộc” (the dogma of Co-Redemtrix)
nhưng y đã không thực hiện được vì
gặp phải những phản ứng mãnh liệt của
Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành. Họ lý
luận rằng: Chỉ một mình Jesus Christ có tư cách
Thiên Chúa cứu chuộc loài người và Chúa không cần
tới sự cộng tác của bất cứ ai, kể
cả bà Maria, để hoàn thành công cuộc Cứu độ.
Tín điều “Đức Mẹ Đồng Công cứu
chuộc” đã làm hạ giá Chúa Jesus và là “chiếc đinh
cuối cùng đậy nắp hòm của sự hòa giải
giữa các giáo phái Kitô” (Newsweek số ra ngày 25-8-1997).
Do đó, Vatican đã
phải tạm hoãn việc công bố tín điều
Đức Mẹ Đồng Công nhưng đồng
thời tìm nhiều phương cách chuận bị dư
luận để sẽ công bố tín điều đó khi
có cơ hội. Một trong những phương cách
chuẩn bị dư luận là Vatican chỉ thị cho
địa phận Bùi Chu lập ra dòng tu mang danh hiệu
“Đức Mẹ Đồng Công Cứu chuộc”, gọi
tắt là dòng Đồng Công – Pio XII và đồng bọn
tại Vatican trong thời kỳ Đệ nhị Thế
chiến đa số là người Đức rất
hiếu chiến và cuồng tín cực đoan.
Tập đoàn phe cực đoan của Pio
XII đã bị Gioan XXIII loại trừ khỏi giai cấp
lãnh đạo chóp bu ở Vatican trong Công
đồng Vaticano II năm 1962. Dòng Đồng Công là
cặn bã của phe Pio XII còn rơi rớt lại
đến ngày nay. Mặc dầu như rắn mất
đầu nhưng những thày tu của dòng này vẫn
giữ nguyên bản chất cuồn tín cực đoan
rất nguy hiểm trong nghề gián điệp văn hóa.
Tôi thiết nghĩ việc loại trừ mọi sinh
hoạt của dòng Đồng Công dưới bất
cứ hình thức nào tại
Việt nam là điều cần thiết. Cuốn sách
“Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của Cao phương Kỷ là
một sản phẩm văn hóa của dòng tu phản
động này.
2. Linh mục Trần công Nghị là
người viết Lời giới thiệu cho cuốn
sách của Cao phương Kỷ nói trên. Nghị sinh
tại Phát Diệm, được gửi đi du học
tại Rome năm 1967, thụ phong linh mục năm 1971
cũng tại Rome và được gửi đi du học
tiếp tại Mỹ, sau đó trở lại Rome
để lấy bằng Tiến sĩ Thần học.
Trong thập niên 1990, Lm Nghị được cử làm
đại diện cộng đồng Công giáo Việt nam
tại địa phận Los Angeles.
Từ 1997, Lm Nghị trở thành chủ nhiệm báo Dân Chúa
kiêm Giám đốc VietCatholic Network (vietcatholic.net) với
sự cộng tác của trên 200 linh mục và trí thức
Công giáo (báo Công giáo Viet Tide số 55 tháng 8/2002, trang 20).
Để kết thúc bài viết này, tôi xin
minh xác với quí vị độc giả về ba
điều sau đây:
Điều
thứ nhất: Xác định vấn đề ngôn từ
và sự thật
Như đã nói ở đoạn trên,
chiến sĩ văn hóa Lê trọng Văn đã chỉ cho
chúng ta thấy thủ đoạn quen thuộc của
bọn gián điệp văn hóa của Vatican là “Tìm Cách Hòa
Đồng Để Rồi Đồng Hóa”. Linh mục
Cao phương Kỷ đã áp dụng đúng thủ
đoạn này trong cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”
của y: Trước hết,
y vận dụng và xuyên tạc ca dao tục ngữ Việt
nam để ngụy biện cho rằng Ông Trời
Việt nam là Đấng Siêu Việt. Bước kế
tiếp, y xử dụng môn thần học nhảm nhí
của Vatican để chứng minh Jesus
chính là Đấng Siêu Việt đó:
- “Tất cả vạn sự vạn vật
đều vận chuyển theo một chiều
hướng là quy tụ lại nơi Chúa Cứu Thế
(tức Jesus) như tâm điểm và tuyệt đỉnh
của vũ trụ”, trang 168.
- “Chỉ nhờ vào đời sống và
sự chết của Chúa Jesus mà nhân loại
được tha tội và hy vọng được
hưởng phúc trường sinh”, trang 171.
- “Nhân loại và vũ trụ đang biến
hóa theo chiều bản vị hóa và đang đồng qui
vào ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu thế (tức Jesus)”, trang 351.
- “Lịch sử của vũ trụ,
của nhân loại cũng là lịch sử cứu
độ vì tất cả mọi sự hiện hữu
đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng
Cứu Thế (tức không có Jesus) thì không có vũ trụ,
không có lịch sử, không có nhân loại”, trang 113.
Tất cả những lý luận thần
học ngu xuẩn nói trên chỉ là những lời nói vu
vơ và hoàn toàn rỗng tuếch vì không có một cơ
sở lý luận nào cả và tuyệt nhiên không có bằng
cớ nào để chứng minh.
Có gì chứng minh là “vạn sự vạn
vật đều qui tụ
vào Chúa Cứu Thế Jesus như tuyệt đỉnh
của vũ trụ”? Liệu có gì chứng minh là Jesus
hiện đang còn sống để cho “vạn vật qui
tụ” vào y như tâm điểm? Lịch sử khách quan
chứng minh rằng: Tất cả các tử tội do La mã
xử tử bằng cách đóng đinh trên thập giá
đều bị vứt xác cho kên kên, ác thú và chó rừng
ăn thịt. Tuyệt đối không có một xác tử
tội nào được trao cho người nhà đem
về chôn. Việc chôn xác Jesus trong hang đá rồi sau
đó vài ngày Jesus sống lại lên trời để
rồi sẽ xuống thế gian lần thứ hai trong
ngày tận thế ... là chuyện hoang đường
tồi tệ và khốn nạn nhất trong lịch sử
văn hóa của nhân loại.
Cái tư tưởng ngu xuẩn cho rằng
“vạn vật đều qui tụ vào Jesus như tâm
điểm vũ trụ” hoặc “nhân loại và vũ
trụ đang biến hóa theo chiều bản-vị-hóa và
đang đồng qui vào Ngội Vị Tối Cao, chính là
Chúa Cứu Thế Jesu”.... chỉ có thể có trong những
đầu óc thần học như Cao phương Kỷ,
Trần công Nghị. Đầu của bọn ngu xuẩn
này chẳng khác gì đầu tôm vì không có óc mà chỉ có phân
mà thôi.
Bọn gián điệp ngu xuẩn này
chẳng có một mục tiêu nào khác hơn là xử
dụng các ngôn từ thần học hoang tưởng
nhằm lường gạt những đồng bào ngờ
nghệch dại khờ để xiềng xích trí tuệ
của họ vào niềm tin Jesus là Đấng Siêu Việt
và cũng là Ông Trời Việt nam.
Để đập tan luận điệu
thần học vu vơ hoang tưởng của tên gián
điệp Cao phương Kỷ, tôi đã chứng minh ca
dao tục ngữ Việt nam không có một câu nào nói Ông
Trời là “Đấng Siêu Việt”. Đồng thời tôi
cũng chứng minh rằng: Jesus chẳng bao giờ là
Đấng Siêu Việt, trái lại Jesus chỉ là một
kẻ khùng, một kẻ khốn nạn, một kẻ
mất dạy loạn luân với mẹ của y, một
kẻ ngu như bò và y cũng là một kẻ gieo tai
họa lớn nhất cho nhân loại.
Bọn linh mục ngu xuẩn làm gián
điệp văn hóa cho Vatican xử
dụng tòan những ngôn từ trống rỗng và vô
nghĩa để lừa gạt những người
nhẹ dạ cả tin. Trái lại, tôi xử dụng
những ngôn từ thoạt đầu nghe chói tai nhưng
nghĩ cho kỹ sẽ thấy những ngôn từ đó
phản ảnh sự thật:
- Phúc âm Tân ước Mattew 1:18-24 nói về
thiên thần Gabriel đến báo tin về việc giáng sinh
của Jesus: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sẽ
sinh ra một con trai và sẽ được đặt tên
là Emmanu-El” (Behold, a vurgin shall be with child and shall bring forth a son
and they shall call his name Emmanuel).
Theo ngôn ngữ tiếng Hebrew thì Emmanuel có
nghĩa là “Con bò El ở cùng chúng ta”
(El with us – xin đọc thêm “Công giáo là đạo
thờ bò cải biến” trên trang nhà GĐ tháng 6/2003). Chính
Kinh thánh của đạo Kitô đã xác nhận Jesus là
một con bò . Dù là bò đực, bò cái, bò mộng hay bò
thần thì cũng là bò. Vậy tôi nói “Jesus là một
thằng ngu ‘như bò’ vẫn còn nhẹ hơn là ‘một
con bò ở cùng chúng ta : Emmanu-El)!
- Khi trình bày về mối tương quan
giữa bà Maria và Thiên Chúa Ba ngôi ở đoạn trên, chúng
ta đã thấy Jesus cùng một lúc vừa là cha, vừa là
con và cũng là chồng của bà Maria! Vậy, theo đúng giáo lý Kitô giáo,
Jesus đích thị là một đứa mất dạy
loạn luân với mẹ. Nếu tín đồ Kitô giáo nào
muốn phủ nhận cái sự thật đáng xấu
hổ này thì họ chỉ có một con đường duy
nhất là phủ nhận Thiên Chúa giáo ba ngôi và phủ
nhận tính cách Thiên Chúa của Jesus, ngoài ra họ không còn
con đường nào khác!
- Tôi đã căn cứ vào những lời
của Jesus ghi trong Tân ước như: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”, “Ai không thù ghét cha mẹ, vợ con, anh
chị em mình thì không xứng đáng là môn đệ ta....” Tôi khẳng định những
lời trên đây đã thốt ra từ một thằng
khốn nạn, một đứa vô giáo dục hoặc
nhẹ nhất là thằng khùng! Tôi thách thức bất
cứ ai không đồng ý với những ngôn từ tôi
xử dụng để phản ảnh những thuộc
tính của Jesus theo “Thánh kinh” hoặc giáo lý của
đạo Kitô... thì xin hãy lên tiếng. Tôi thật sự
cầu mong có một cuộc tranh luận rộng rãi về
vấn đề này để mọi sự thật
về Kitô giáo, cũng như về cá nhân Jesus, sẽ
được sáng tỏ hơn nữa trong dư luận
quần chúng trong và ngoài nước.
Điều
thứ hai: Xác định giới hạn cho công việc
truyền đạo của các người truyền giáo
Kitô.
Khi nói “các người truyền giáo Kitô” là tôi
muốn nói đến tất cả các tu sĩ Công giáo, các
mục sư và các người làm công tác truyền giáo
của đạo Tin lành (missionaries). Chúng ta cần nói cho
họ biết: mọi người đều có quyền
tự do tín ngưỡng nghĩa là muốn tôn thờ ai thì
thờ, nhưng tự do tín ngưỡng không có nghĩa là
tự do truyền đạo. Rất nhiều nước
đã ban hành những đạo luật nhằm hạn
chế việc truyền đạo, nhất là đối
với Công giáo và Tin lành. Chẳng hạn như ở Nga
thời Yelsin đã có đạo luật cấm truyền
đạo Công giáo và Tin lành. Do thái cấm truyền
đạo Kitô với hình phạt dành cho người vi
phạm là 5 năm tù và 4200 đôla tiền phạt. Mới
đây nhất, tại Ấn độ là nước có
đa số dân theo Ấn giáo, mới ban hành đạo
luật cấm cải đạo sang Kitô giáo (New
anti-conversion laws in Hindu – majority India – Houston Chronicle, Saturday
April 19, 2003, page 6E).
Các người Công giáo hay Tin lành muốn
đưa Jesus lên Ngôi Hai Thiên Chúa hoặc đấng Siêu
Việt, đấng Toàn Năng v.v... là quyền của
họ. Nhưng những người truyền đạo
Ktiô không có quyền bóp méo, xuyên tạc ý niệm Ông Trời
của người Việt nam để cuối cùng gán
ghép Ông Trời với Thiên Chúa Siệu Việt của
đạo Kitô. Các người không được phép
xử dụng những ngôn từ thần học mập
mờ, huênh hoang, lươn lẹo để lừa
gạt đồng bào và lôi kéo họ vào bóng tối tâm linh
để cuối cùng biến họ thành tay sai mù quáng cho
ngoại bang. Tất cả các âm mưu đen tối
của các người đều sẽ bị các chiến
văn hóa yêu nước theo dõi, phát hiện và sẽ giáng
trả bằng những đòn đích đáng.
Điếu
thứ ba: Xác định thái độ kiên quyết, không
khoan nhượng đối với bọn gián điệp
văn hóa lưu manh và ngoan cố.
Luôn luôn đề cao cảnh giác để
sớm phát hiện những âm mưu phá hoại của
bọn gián điệp là điều cần thiết tiên
quyết nhưng sau đó chúng ta lại ngập ngừng
hay e dè chẳng làm gì cả hoặc chỉ hành động
hời hợt thì kết quả cũng chỉ là con số
không. Chúng ta cần phải khẳng định rằng:
bọn gián điệp văn hóa của Vatican hay của
đế quốc Tin lành đều là bọn Việt gian
cuồng tín, vọng ngoại, chuyên dùng các thủ
đoạn lưu manh lừa gạt đồng bào
để mở rộng nước Chúa, thực chất
là mở rộng lãnh thổ của đế quốc.
Bọn chúng đều là những kẻ thù nguy hiểm
của dân tộc Việt nam. Do đó, thái độ thích
hợp nhất đối với kẻ thù là chúng ta
phải đấu tranh với chúng một cách kiên quyết
không khoan nhượng nhằm mục đích cuối cùng là
loại trừ hết mọi thứ “độc tố
văn hóa” mà bọn chúng đã gieo rắc trên đất
nước ta từ trước tới nay.
Chúng ta không nên nhẹ tay đối với
bọn gián điệp văn hóa, bởi lẽ chúng tuy
rất lưu manh trong hành động nhưng lại là
những kẻ ngủ mê trên phương diện tâm linh.
Nếu chúng ta đối xử với chúng bằng thái
độ lịch sự nhẹ nhàng thì chẳng khác nào gãi
ngứa cho chúng và chúng sẽ ngủ mê hơn nữa.
Muốn đánh thức chúng dậy trong cơn ngủ mê
chúng ta phải xối một thùng nước lạnh vào
mặt chúng hoặc đập vào người chúng một
cú thật mạnh như trời giáng thì may ra chúng mới
tỉnh ngủ để nhìn thấy sự thật
dưới ánh sáng mặt trời.
Câu hỏi trước nhất
được đặt ra là: Làm thế nào để
nhận diện một tên gián điệp văn hóa lưu
manh và nguy hiểm? Đó là
những tên đã được bọn đại lưu
manh quốc tế ở Rome
huấn luyện nhồi sọ và cấp cho học vị
“tiến sĩ thần học”. Điển hình là những
tên như Linh mục Cao phương Kỷ và Lm Trần công
Nghị. Bọn này thực hiện đúng theo sách
lược xâm lăng văn hóa Á châu của Vatican
(Tông huấn Ecclesia in Asia của John Paul
II).
Trong sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”, Cao
phương Kỷ lươn lẹo ca ngợi Ông Trời
là Đấng Siêu Việt, và dùng lý luận thần học
nhảm nhí chứng minh Đấng Siêu Việt đó là
Thiên Chúa Ba ngôi của đạo Kitô. Mục tiêu cuối
cùng của họ là tạo cho đồng bào nhẹ dạ
có ảo tưởng rằng: Thiên Chúa của đạo
Kitô chẳng phải là ai xa lạ mà chính là “Ông Trời Siêu
Việt” của mình và Đạo Kitô cũng không phải là
một món hàng ngoại nhập mà là một niềm tin
đã tiềm ẩn từ lâu đời trong lòng dân
tộc Việt nam.
Đây là một thủ đoạn vô cùng thâm
độc của Vatican do bọn tham mưu đại
lưu manh nghiên cứu từ lâu và chỉ thị cho
bọn gián điệp văn hóa thi hành.
Ngoài việc khai thác ý niệm Ông Trời
phục vụ cho nhu cầu truyền đạo, Cao
phương Kỷ còn xuyên tạc Tam giáo (Phật,
Khổng, Lão) là các đạo đều có niềm tin vào
Đấng Tối Cao như Kitô giáo. Việc đánh
lận con đen Tam giáo với Kitô giáo là một chuyện
hàm hồ đáng bị vạch mặt: Trước hết, cả ba
đạo Phật, Khổng, Lão đều là những
đạo của lý trí, nói đúng hơn thì đó là ba
triết lý sống hoặc ba cách sống (ways of life).
Cả ba không hẳn là ba tôn giáo vì không có giáo hội, không có
giáo đồ và nhất là không có giáo điều (tín
điều). Cả ba đạo Phật, Khổng, Lão
đều coi trọng lý trí và khuyên mọi người
phải vận dụng lý trí để suy xét mọi
điều trước khi tin vào điều đó. Sở
dĩ có “tam giáo đồng lưu” tại nước ta vì
người dân Việt nam đã vận dụng lý trí
để phân biệt những giá trị chung của
cả ba tôn giáo để dung nạp vào văn hóa dân
tộc và để cuối cùng làm thăng hoa đời
sống của dân tộc.
Khác hẳn với đặc tính căn
bản của Kitô giáo là loại bỏ lý trí (Phúc cho ai không
thấy mà tin - lời của Jesus).
Toàn bộ hệ thống giáo lý của Kitô
giáo là hàng loạt các tín điều được
đưa ra để buộc các tín đồ phải
chấp nhận vô điều kiện. Do đó, cái gọi
là Đức Tin Kitô hoàn toàn chỉ là Đức Tin Mù. Trái
hẳn với đức tin Tam giáo là đức tin sáng
suốt vì là sản phẩm của lý trí.
Hậu quả của đức tin mù là các
tín đồ Kitô luôn luôn phải sống trong mặc
cảm tội lỗi, luôn luôn tự xưng là kẻ có
tội nên cần có Chúa và bọn tu sĩ lưu manh cứu
giúp!
Bọn lãnh đạo Kitô giáo trở thành
những kẻ ngạo mạn kiêu căng, lúc nào cũng
nghĩ rằng tôn giáo của mình là độc tôn và là duy
nhất đúng. Điều này hàm ý rằng các tôn giáo khác
với mình đều phải chết.
Trong thực tế của lịch sử dân
tộc, Tam giáo đã góp
phần củng cố nền độc lập của
nước nhà, trong khi đó Kitô giáo đã đưa dân
tộc vào vòng nô lệ thực dân Pháp hơn 80 năm và
hiện nay một bộ phận của dân tộc (Công
giáo) vẫn là những kẻ nô lệ tinh thần của
đế quốc Vatican. Các vụ nổi loạn của
những người thiểu số Tin lành ở miền
cao nguyên chứng tỏ những tín đồ Kitô giáo luôn
luôn làm nội tuyến cho ngoại bang và đi ngược
lại quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc.
Tất cả những tai họa đó
đều do bọn gián
điệp văn hóa gây ra. Cho nên thái độ cần
thiết và cấp bách của các chiến sĩ văn hóa
yêu nước là phải cương quyết chiếm lãnh
thế chủ động trên diễn đàn văn hóa
để giáng trả bọn kẻ thù của dân tộc những
đòn đích đáng, buộc chúng phải câm miệng, cúi
mặt gục đầu và không dám ngóc đầu dậy.
Charlie Nguyễn
Tháng 6.2003