Thứ Tư, 22 tháng 3, 2017

Một sự nhảm nhí - Jesus và Jihad (*) Tác giả Nicholas D. Kristoff

Nếu tin vào những gì mà loạt bài viết vừa giật gân vừa li kì về tôn giáo Bỏ lại sau lưng ("Left Behind"), Chúa Jesus sẽ tái xuất hiện trên trần gian, bắt hết những người không theo đạo Thiên chúa đứng bên trái của ngài và ném tất cả vào hỏa ngục: 

"Jesus chỉ cần đưa một tay lên vài phân và với một cái ngáp miệng, Ngài mở toang cánh cửa trần gian, kéo dài và rộng đủ cho tất cả chúng nó vào. Chúng nó ngã nghiêng, đổ nhào, gào thét thất thanh, nhưng tiếng la khóc ngay sau đó bị dập tắt, trả lại không gian yên lặng khi cánh cửa trần gian khép lại." 

Trên đây là một đoạn trong cuốn tiểu thuyết thuộc vào hạng bán chạy nhất (best-seller) ở Mĩ. Tính đến nay, nhà xuất bản đã bán hơn 60 triệu cuốn trên toàn thế giới. Cuốn tiểu thuyết mới nhất có tựa đề là "Glorious Appearing" (tạm dịch: Vinh quang giáng trần), mà trong đó, tác giả mô tả sự tái xuất hiện của Chúa Jesus trên trần gian để quét sạch tất cả những ai không theo đạo Kitô giáo trên trái đất. Hành động tội ác diệt chủng được ca ngợi như là một đỉnh cao của niềm tin tôn giáo. 

Thử tưởng tượng: nếu một người Hồi giáo nào đó viết một cuốn tiểu thuyết như thế và xuất bản ở Saudi Arabia, hân hoan mô tả những cuộc tàn sát hàng triệu người không theo đạo Hồi, chúng ta sẽ phản ứng ra sao? Chắc chắn chúng ta sẽ ngất xỉu. Chúng ta sẽ tố cáo đây là một chủ trương tàn bạo của những tên tín đồ cuồng tín Hồi giáo do Hồi giáo dung dưỡng, và chúng ta nhất định sẽ đòi hỏi phải trừ khử chúng khỏi thế giới này. 

Trong Vinh quang giáng trần, tác giả cho biết chỉ cần Jesus mở miệng nói, thân thể của kẻ thù liền bị xé toạc ra từng mảnh. Các tín đồ Kitô giáo phải cẩn thận lái xe để tránh đụng chạm vào xác chết của hàng triệu đàn ông, đàn bà và ngựa. 

Cuốn tiểu thuyết viết tiếp: "Những người cưỡi ngựa nhảy xuống ngựa và cố gắng nắm lấy giây cương, nhưng dù cố gắng cách mấy, thịt da của chúng bị tan rã, mắt mũi chúng tan ra, và lưỡi chúng tiêu tan như nước chảy ... Vài giây phút sau, cũng một cơn dịch như thế tấn công vào những con ngựa, thịt da, mắt mũi và lưỡi chúng cũng tan rã ra như nước, để lại những bộ xương thô thiển đứng trơ vơ trước khi hấp hối ngả xuống mặt đường." 

Có lẽ có người nghĩ rằng Chúa Jesus là một người yêu mến thú vật. 

Những cảnh tượng như thế đặt câu hỏi về thuyết tận thế: Những người theo đạo Kitô triệt để thực sự thích thú thiên đường trong khi bạn bè, thân nhân, và láng giềng của họ bị cho vào hỏa ngục? 

Như ông bạn đồng nghiệp của tôi David Kirkpatrick (làm việc cho tờ Time) nhận xét trong một bài báo, mô tả một cách đẫm máu về sự trở lại của Chúa Jesus trong ngày phán quyết cuối cùng phản ảnh một sự thay đổi của người Mĩ trong cái nhìn của họ về Jesus, từ một người hiền lành biến thành một vị cứu tinh hùng dũng ngự trị trên một biển máu lửa. Nó phản ảnh sự nổi dậy của giới quân phiệt Kitô giáo nhằm chạm trán với giới quân phiệt Hồi giáo. 

Xu hướng này cũng không khác mấy trong thực tế, nhất là thái độ của các tín đồ Hồi giáo cuồng tín ở Saudi Arabia mà chúng ta thấy gần đây. Bất cứ dạng cuồng tín nào cũng có thể sản sinh ra một biên giới đạo đức như trắng với đen, giữa những người “tốt” ngoan đạo và những người ngoại đạo. Người tốt thì lên thiên đường; kẻ ngoại đạo xuống hỏa ngục. 

Không, tôi không nghĩ rằng độc giả của Vinh quang giáng trần sẽ đâm máy bay vào các tòa cao ốc. Nhưng chúng ta bắt bỏ tù hàng ngàn tín đồ Hồi giáo tại đây và ở nước ngoài sau ngày 11/9/01, và có những người Mĩ bình thường đã tham dự vào những hình thức tra tấn dã man tại nhà tù Abu Ghraib. Họ tra tấn tù nhân vì họ ghét tù nhân. Họ ghét tù nhân Hồi giáo vì họ nhìn những tù nhân này như những kẻ ngoại đạo và mong muốn Jesus biến da thịt, mắt mũi và lưỡi của chúng tan rã thành nước. 

Tôi ngần ngại viết những dòng chữ này, bởi vì tôi không muốn nói móc niềm tin tôn giáo của bất cứ ai, và tôi không tin người Mĩ hiểu những gì mô tả trong Vinh quang giáng trần là những ý muốn của Thượng đế. Song, nói cho cùng, tôi nghĩ không nên cấm đoán người dân bàn về tôn giáo dù ở Mĩ hay ở nước nào khác. Đề tài tôn giáo không phải gì là cái gì cấm kị cả. 

Tôi thường viết về tôn giáo, chỉ vì niềm tin có một ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Tôi đã từng ca ngợi các công tác từ thiện của Kitô giáo tại các nước đang phát triển (như công tác nhân đạo tại Sudan trong lúc cả thế giới chẳng ai động móng tay trước cuộc diệt chủng tại đây), và vì thế tôi cảm thấy cũng nên có trách nhiệm phản đối những bất khoan dung đang diễn ra tại Mĩ. 

Chúng ta có nên lờ đi sự bất khoan dung vì nó xuất phát từ niềm tin tôn giáo hay không? 

Nhiều tín đồ Kitô giáo từng đọc Kinh thánh để muốn hiểu theo ý họ rằng người Mĩ da đen (gốc Phi châu) là những người đang chịu quả báo, như hậu duệ của con trai ông Noah, và bị Thượng đế trừng phạt để bây giờ phải làm nô lệ cho người da trắng. Vào thế kỉ 19, hàng triệu người Mĩ thành thật tin như thế, và lấy Kinh thánh để biện minh cho những hành động tàn ác của họ đối với người da đen. Nếu cho rằng vì đó là niềm tin tôn giáo và vì thế chúng ta không nên đụng đến hay không nên chỉ ra những sai trái và hành động kì thị chủng tộc, thì quả là một suy nghĩ vô trách nhiệm và vô duyên. 

Con người có quyền tin vào một Thượng đế kì thị chủng tộc, hay một Thượng đế sẽ thiêu đốt hàng triệu kẻ ngoại đạo. Tôi không tin rằng chúng ta nên tẩy chay những cuốn sách viết như thế. Nhưng chúng ta nên xấu hổ khi một trong những quyển sách bán chạy nhất tại Mĩ lại cung kính tôn thờ sự kì thị tôn giáo, ca ngợi lòng bất khoan dung và bạo động chống lại những người ngoại đạo. 

Điều đó không phải là điều nước Mĩ dung thứ, và tôi cũng không tin rằng đó cũng là điều mà Thượng đế đại diện.


(*) Nguyễn Văn lược dịch từ bài viết Jesus and Jihad của Nicholas D. Kristoff, đăng trên tờ New York Times, số ra ngày 17 tháng 7 năm 2004. 

Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

CUỘC TRAO ĐỔI Ý KIẾN GIỮA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ ĐỨC CHA PHẠM NGỌC KHUÊ VỀ HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO

Trong dịp viếng thăm Toà Giám Mục Phát Diệm, nhân chuyến về thăm Việt Nam vào tháng 4 năm 2006,  Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có cuộc trao đổi về vấn đề hôn nhân khác tôn giáo với Đức cha Phạm Ngọc Khuê, Giám mục sở tại cùng với một số đông tín đồ Kitô Giáo vào ngày 30-4-2007 lúc 9 giờ sáng.
Thiền sư Nhất Hạnh cho rằng: 
một người có thể rất hạnh phúc khi có hai gốc rễ, một gốc rễ Cơ đốc giáo và một gốc rễ Phật Giáo. Hai cái đó không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau chống đối nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy được hai truyền thống có thể bổ túc cho nhau thì mình sẻ có một thái độ cởi mở hơn”. 
Và Thầy đã đề nghị: 
khi hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ đốc giáo, một người thuộc về Phật Giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với điều kiện hai bên công nhận truyền thống của người bên kia và nếu người con trai là Cơ Đốc Giáo và người con gái là Phật Giáo thì người con gái phải học thêm Cơ Đốc Giáo và người con trai phải học thêm Phật Giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà thờ, đến ngày mồng một và ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa”. (hết lời trích). 
Cha Phạm Ngọc Khuê, Tòa Giám mục Phát Diệm cho biết: 
Giáo hội không bao giờ ngăn chặn hai người nam nữ yêu thương và tiến tới hôn nhân với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật, không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là tuyệt đối…  Tuy nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức tin của người tín đồ Ki Tô Giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự tự do của họ… Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn toàn tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều này: Khi tiến tới hôn nhân thì hai người phải hứa là tôn trọng  quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ tôn giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ  tôn trọng niềm tin vì đó là lãnh vực thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được can thiệp. Nếu họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành sự trước mặt Chúa và trước luật pháp”.  (hết lời trích) 
Tuy nhiên, trong thực tế thì không luôn luôn được xảy ra như vậy, nhất là hoàn cảnh của Việt Nam do chế độ phong kiến còn rơi rớt, “người nam có quyền hơn người phụ nữ”.  Chính vì vậy, Cha nói tiếp: 
Giáo hội đặt ra điều kiện này: nếu một người tín đồ tôn giáo khác, lấy người Công giáo, rồi sau đó người Phật tử, hay là người thờ ông bà không giữ lời tuyên thệ trung thành thì người tín hữu Công giáo có thể trình lên thẩm quyền nguồn Thánh tháo cái hôn phối mà người ta đã cam kết…”. (hết lời trích) 
Và cuối buổi gặp gỡ Thầy Nhất Hạnh đã đề nghị thêm là: 
hai bên giáo hội Công giáo và Phật giáo phải có những văn bản rõ rệt về vấn đề hôn nhân dị giáo này. Nếu tôi là pháp chủ Phật giáo Việt Nam thì tôi sẽ cho phép những người con trai hay con gái Phật giáo lấy những người con trai hay con gái Công giáo và hai người  được học truyền thống của nhau, hai người cùng đi nhà thờ một lần, hai người cùng đi chùa một lần, hai người cùng được rửa tội một lần và hai người đều được quy y..”.  (hết lời trích). 
Qua lời phát biểu của hai vị Tôn đức Phật giáo và Ki Tô giáo được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng có một mẫu số chung trong vấn đề hôn nhân khác tôn giáo là cho tự do kết hôn giữa người khác Ðạo, nghĩa là Ðạo ai nấy giữ.  Tuy nhiên, giải pháp này còn bị giới hạn bởi thời gian do những đứa con ra đời về sau.  Chúng sẽ theo đạo nào. Theo đạo cha hay theo đạo mẹ hay theo cả hai. Và khi nào bắt đầu cho chúng theo, từ lúc mới sinh ra hay đợi đến lúc chúng trưởng thành đủ trí khôn mới cho quyền lựa chọn tôn giáo. 

LINH MỤC BỎ ĐẠO

Nhìn rõ vấn đề tôn giáo trong xã hội, học giả Paul Blanshard đã viết như sau trong cuốn Nền Tự Do Của Mỹ và Quyền Lực Ca-Tô American ( Freedom and Catholic Power), trang 4, như sau:
“Anh không bao giờ nên chỉ trích tôn giáo của người khác”, cái lý thuyết nghe có vẻ vô hại đó phát xuất từ những tình cảm cao quý, nhưng thật là nguy hại cho lối sống dân chủ. Nó không để ý đến bổn phận phải bênh vực sự thật trong mọi ngành tư duy của mọi công dân tốt. Nó không xét đến sự kiện là phần lớn cái mà con người gọi là tôn giáo cũng là chính trị, lành mạnh xã hội và kinh tế. Giữ yên lặng về “tôn giáo của người khác” có thể đưa đến nền y tế hạng hai, nền giáo dục thấp kém, và chính quyền phản dân chủ.”
 https://i2.wp.com/giaodiemonline.com/2007/10/hinh/image001.jpg https://i2.wp.com/giaodiemonline.com/2007/10/hinh/image004.jpg
Học giả Paul Blanshard
Học giả Paul Blanshard
(You should never criticize another man’s religion”, that innocent-sounding doctrine, born of the noblest sentiments, is full of danger to the democratic way of life. It ignores the duty of every good citizen to stand for the truth in every field of thought. It fails to take account of the fact that a large part of what men call religion is also politics, social hygiene and economics. Silence about “another man’s religion” may mean acquiescence in second-rate medicine, inferior education and anti democratic government.)
https://i0.wp.com/giaodiemonline.com/2007/10/hinh/image005.jpg
Tác phẩm “Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo”
Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đô-Mi-Nic xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:
Một trăm ngàn ( 100 000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành.
(100 000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20 years – more than one every two hours. Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation)
(by David Rice, London: Michael Joseph, 1989)
It is better that scandals arise than that truth be silenced. St. Gregory the Great
Thà để cho xì-căng-đan nỗ ra hơn là sự thật bị bịt miệng.
The sexuality (or asexuality) and sexual practices (or celibacy) of holy people have always fascinated other mortals. When moralistic televangelists have their adulteries exposed, the news pushes superpower politics to page three. Morris West’s story of the spiritual and sexual struggles of a candidate for sainthood in The Devil’s Advocate sells over sixteen million copies, and is made into a film. Another bestseller – John Updike’s A Month of Sundays – describes in erotic detail the scandal of Rev. Tom Marshfield’s adventures with ladies in his parish. Andrew Greeley’s novels about the sins of cardinals etc. make us wonder how a celibate priest can know so much about some things. And for some real-life stories about the sexual frustrations of Catholic priests and religious there is the 525-page book (with index and selected bibliography) Desire and Denial: Sexuality and Vocation – a Church in Crisis by Gordon Thomas (London: Grafton Books, 1986).
Priestly and pastoral infidelity is now a matter for serious sociological study. The book Sexual Practices & the Medieval Church has been placed in the two-hour loan reserve section of Melbourne’s Monash University library. An article titled ‘Puritan perverts‘ in The Sociological Review (February 1985) lists amazingly disparate male and female religious leaders accused of various improprieties. (Why? Researcher Steve Bruce suggests two factors: opportunity, and emotionally charged settings in which people are ‘religious o’ermuch’). Conservative evangelical Christianity Today’s ‘Leadership’ magazine devoted its Winter ’88 issue to such matters as ‘After the Affair: A [Pastor’s] Wife’s Story, and ‘Private Sins of Public Ministry‘. I photocopied an excellent article from Ministry (January 1987) – ‘Battling Sexual Indiscretion‘ (‘Is your sex drive under control? Why are ministers more vulnerable than most other people?’) – to hand out at clergy conferences. A recent issue of Australian Ministry (May 1990) contains an evocative fable ‘Sexual Harassment in the Church‘. Then we have Newsweek (Sept. 11, 1989) and other magazines running articles like ‘When a Pastor Turns Seducer’
The latest offering in this genre, David Rice’s Shattered Vows: Exodus from the Priesthood, is a passionate plea to the Roman Catholic church to make celibacy optional and open its priesthood to married clergy. His statistics are alarming: an estimated 100,000 priests worldwide have left active ministry over a 25-year period, with another 200,000 priests ‘failing to observe celibacy’ (p.171). During the same period we have witnessed a serious decline in vocations: in the year 2000 the U.S. will have seen the number of priests diminish by half, with an average age of 65!
David Rice is a laicised Irish Dominican, and head of the Dublin School of Journalism. He spent a year traveling the world talking to priests, bishops, and ex-priests (442 of them) and their families. Rice is careful to preserve anonymity when requested, but a lot of people are willing to be identified. He chronicles many heroic commitments to ministry and but also struggles (by priests wearing ‘give-away’ grey faces) with loneliness, and disillusionment with the church-as-unfeeling-institution. He is brutally honest – particularly about ‘the shadow side of celibacy’ (that will be the chapter you’ll hear about in the secular media when this book hits the fan). He writes as a participant observer: Rice left the priesthood in 1977 to marry.
This book offers a devastating critique of two related matters: the institutional bureaucracy of the Roman Catholic church, and that Church’s rationale for clerical celibacy.

1. The Church-as-institution. Malcolm Muggeridge once said he’d like to take Jesus around the Vatican and watch his reactions. Well-known parish priest in London’s Bayswater parish, Father Michael Hollings, said to the author: ‘Canon law is strangling the Church. I think if Jesus Christ came today, he’d be condemned by the Curia‘ (p.144). ‘The deeper into the institutional Church I penetrated,’ Rice complains, ‘the higher up the pyramid of Church authority I went, the more indifference and sometimes cruelty I encountered‘ (p.66). ‘[Other groups’] harshness is usually softened by structures like courts and juries to ensure fair play. But the Church has not yet developed such structures, so there is nothing to protect the individual from the fury of its defense mechanisms’ (p.89). Happy priests tend to distance themselves from the issues and agendas of the institutional Church (p.146). And one study published by U.S. bishops found the most frequently mentioned reason for priests leaving was a ‘feeling that they could no longer live within the structure of the Church… Priests leave because they perceive the changes in thinking at Vatican Two have not been made concrete through parallel changes in structure’ (p.177).
The worst structure, says Rice, is clericalism, the essence of which is a kind of ecclesiastical apartheid. And ‘the great bulwark of clericalism [is] enforced celibacy’ (p.190).
2. Celibacy. Priest-sociologist Andrew Greeley (Confessions of a Parish Priest) says his research proves that Humanae Vitae (the birth-control encyclical) is the main reason Catholics are leaving their Church. David Rice is absolutely sure that compulsory celibacy is the main reason priests leave that Church. Celibacy, when it works, works very well, but when it does not work, it can be horrid. Celibacy is not chastity: celibacy is the permanent state of being unmarried. Chastity, for the unmarried, means abstaining from genital sexual activity. Compulsory celibacy, says Rice ‘simply does not work’ (pp.157, 172 etc.). He cites one study which estimated that at any one time no more than 50 per cent of American priests practise celibacy (p.170).
There are powerful arguments for freely chosen celibacy, but none for enforced celibacy. So why insist on it? For part of the answer we must go back to the Council of Trent. Protestants were recommending marriage for priests, insisting that celibacy was God’s gift only to a few. ‘Therefore’, says Rice, (quoting a Professor Jedin), ‘the Church entrenched its position and did not let itself discuss the problem…’ (p.222).
https://i1.wp.com/giaodiemonline.com/2007/10/hinh/image006.jpg
And so you have anomalies like a resigned married priest in Columbia being put in jail after celebrating Mass, for ‘usurping the powers of the clergy’ (p.123), whilst in other dioceses bishops are sometimes allowing married priests to continue their ordained ministries. Indeed, the American National Opinion Research Centre says 79% of Catholics would prefer a married priest as their pastor (p.198).
The final article in the Code of Canon Law is ‘In ecclesia, suprema lex, salus animarum’ – in the Church, the supreme law is the salvation of souls. But millions of souls now exist without priest and eucharist because of the Vatican’s ‘putting people’s needs last, and the institution’s survival first’ (p.190). Sociologist Robert Merton has shown that bureaucracies are degenerative. They end up defending their own entrenched interests (especially their power) before the needs of those they were founded to serve. Pharisaism is essentially putting mechanical obedience to regulations above the human needs of people (p.185). The ban on contraception and the enforcement of celibacy are both undermining the credibility of the Church-as-institution. As is the widespread practice of turning a blind eye to the priest and house-keeper living in adultery, but withholding dispensations from those who want to legitimize their relationship. ‘So we find the Vatican forbidding employment of married priests, withholding dispensations from men long married, sometimes until their deathbed, and failing in the simple courtesy of even acknowledging receipt of the petitions for dispensation. And we hear of the Pope saying, “I’m in no hurry. We didn’t leave them: they left us.” I suppose it is understandable: the institution perceives the married priest as a threat to its structures. But it is sad, and so different from the father of the Prodigal Son, who came running to meet him’ (p.242).
A footnote: David Rice wonders (p.44) why ex-priests ‘are not sought out and cared for by the Church they once served.’ It’s the supreme ‘forbidden topic: those 100,000 have ceased to exist’ (p.238). It’s not only a Catholic problem. Many of the estimated 10,000 ex-clergy in Australia from all denominations feel betrayed by their churches. This reviewer is currently researching this phenomenon in the Protestant and Pentecostal churches, and plans to send questionnaires to 1,000 of them, followed by personal interviews with some who so indicate. Anonymity will be respected. Help in locating names, addresses and phone numbers of ex-pastors would be appreciated. Send to Rev. Rowland Croucher, 7 Bangor Court, Heathmont, Victoria, 3135.
David Rice, Shattered Vows: Exodus from the Priesthood (London: Michael Joseph, 1989, hb, 280pp. Available in Australia from Penguin Books, 487 Maroondah Highway, Ringwood, 3134. RRP $35).
Rowland Croucher
Rowland Croucher is an Australian Baptist pastor, working full-time as a writer and speaker at clergy and church leaders’ conferences. He is currently doing research on the topic ‘Ex-Clergy: What Happens when Pastors leave the Parish Ministry’

“L’ osservatore Romano”: “Giáo hội truyền thống Tây Phương có vẻ như đang chết từ từ vì xã hội thế tục càng ngày càng xa rời và không thấy cần Thiên Chúa nữa.”

HỐNG Y THIẾT GIÁP

Với những giọng văn mạnh mẽ và gây cấn vừa rồi, quả thực Hồng Y Ratzinger xứng hợp với cái tên người ta chế ra gọi ngài là “Hồng y thiết giáp.” Ngài là người Đức trọng “nguyên tắc một cách quá khích và thiếu linh động” (Muối cho đời, tr. 87). Chẳng lạ gì Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng lên tiếng cảnh báo thế giới nhiều hơn bất cứ triều đại giáo hoàng nào vì phía sau hậu trường, ngài có bộ óc suy nghĩ cương nghị và phong phú của Hồng y Ratzinger trong hai mươi ba năm giữ chức Bộ trưởng Giáo lý Đức tin.
Nhà báo Seewald, một người đã xa lìa Giáo hội từ lâu, trong Lời Mở Đầu cũng nhìn nhận Hồng y Ratzinger: “Hồng y Joseph Ratzinger là một giáo sĩ ưa tranh luận song cũng bị lắm chỉ trích, đặc biệt nơi quê hương ông. Tuy nhiên, nhiều nhận định và phân tích trước đây của ông giờ đây đã thành sự thật, đúng cả tới những chi tiết. Và hiếm có ai đau lòng ý thức về những mất mát và thảm kịch của Giáo hội trong thời hiện đại cho bằng vị hồng y thông minh xuất thân từ vùng đồng ruộng bang Bayern (Đức quốc) này.”
Hình ảnh “Hồng y thiết giáp” lại hiện nguyên hình nơi Giáo chủ Biển Đức XVI khi chỉ sau 100 ngày đăng quang giáo hoàng, ngài đã thẳng thắn cánh báo các Giáo hội Công giáo vào ngày 25-7-05 tại Thánh đường Introd, Aosta và được đăng tải trên tờ nhật báo chính thức của Vatican “L’ osservatore Romano”: “Giáo hội truyền thống Tây Phương có vẻ như đang chết từ từ vì xã hội thế tục càng ngày càng xa rời và không thấy cần Thiên Chúa nữa.”
Giáo chủ Biển Đức XVI đã nói với một số đông giáo sỹ tại miền núi Alps bên Ý nơi Ngài nghỉ hè rằng: “Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là ‘truyền thống’ xem ra như đang hấp hối… Những Giáo Hội đang bị khủng hoảng như vậy là Âu Châu, Úc Châu và Hoa Kỳ. Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Công Giáo bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả. Chúng ta phải cố gắng kiên nhẫn ‘đi qua đường hầm này’ (thời kỳ đen tối) với niềm tin mãnh liệt là Chúa Giêsu sẽ là câu trả lời và sau cùng ánh sáng của Ngài sẽ chiếu tỏ cho chúng ta.”
Trả lời câu hỏi của vị Giám Mục tại Aosta đề cập về những vấn đề liên quan đến linh mục, đặc biệt là ơn gọi linh mục tại Phi Châu và Á Châu nở rộ dễ dàng trong khi tại Âu Châu thì xuống dốc thê thảm. Giáo Chủ Biển Đức XVI thẳng thắn nhắc nhở: “Sự mừng vui của hàng giáo phẩm các vùng đó cũng bị pha lẫn với nhiều đắng cay vì một số ‘ứng viên linh mục’ chỉ muốn tìm tòi một đời sống tốt hơn mà thôi. Trở thành linh mục, là họ trở thành như một ông tù trưởng (head of a tribe) của một bộ lạc, đương nhiên được hưởng mọi đặc quyền và có một lối sống khác. Cỏ lùng lẫn lộn với lúa mì trong cánh đồng ơn gọi. Các Giám mục phải biết để ý phân biệt tốt xấu không chỉ hớn hở với số linh mục sẽ có trong tương lai mà còn phải phân biệt giữa cỏ xấu và lúa tốt nữa.”
Điều gây ngạc nhiên là những lời cảnh báo này Giáo chủ Biển Đức vừa rồi hầu như không được một cơ quan truyền thông Công giáo nào đăng tải cả, ngoại trừ trang nhà tiengnoigiaodan. Nhưng lần này, tình hình đã thay đổi vì càng ngày người ta càng nhìn ra Giáo hội Công giáo Việt Nam có vẻ ù lì trước những vấn đề bi đát và nóng bỏng của đất nước. Do đó, những lời cảnh báo nghiêm khắc của hồng y Ratzinger với hàng giám mục đã bùng nổ vang rền như những hồi trống ngũ liên báo động Giáo hội, đặc biết cho hàng Giám mục Việt Nam trước những thảm họa và những tệ trạng đang ùa vào tràn ngập Giáo hội và đất nước.
https://i2.wp.com/giaodiemonline.com/2007/10/hinh/image007.jpg
 Dân Việt ở Đức QuốcDeutschland/Germany
Thống kê số tín đồ TCG bỏ đạo tại Đức Quốc dưới đây, từ năm 1970 đến 2004. (Jahr = năm, Ev. Kirche = Tin Lành, Katholische Kirche = Catô La Mã). Tôi không hiểu vì sao các bạn Catô VN lại hãnh diện với con số Catô của những quốc gia nghèo nàn! Người Đức có dân trí cao mà còn bỏ đạo thì dân Châu Á theo đạo với mục đích gì?
Statistik (thống kê)- Kirchenaustritte in Deutschland (con số bỏ đạo tại Đức Quốc)
Theo tài liệu của tôi, nước Đức chỉ có 62% (31% catô + 31% tin lành) dân chúng theo TCG thôi, và con số đi nhà thời là 5% trên tổng số dân là 82 triệu ! theo tài liệu này:
Statistik
Kirchenaustritte in Deutschland
Jahr
Evangelische Kirche
Katholische Kirche
1970
202.823
69.454
1980
119.814
66.438
1985
140.553
74.112
1987
140.638
81.598
1988
138.700
79.562
1989
147.753
93.010
1990
144.143
143.530
1991
237.874
167.933
1992
361.256
192.766
1993
284.699
153.753
1994
290.302
155.797
1995
296.782
168.244
1996
225.602
133.275
1997
196.602
123.813
1998
182.730
119.265
1999
192.880
129.013
2000
188.557
129.496
2001
171.789
113.724
2002
174.227
119.405
2003
177.162
129.598
2004
141.567
101.252
Zahlen ev. Kirche ab 1992, kath. Kirche ab 1990 gesamtdeutsch.
Quellen: ev. Kirche: Kirchenamt der EKD, Referat Statistik, kath. Kirche: Deutsche Bischofskonferenz, Referat Statistik