Con Đường Cụt Của Vatican Trên Lộ Trình Xâm Lăng Văn Hóa Á Châu
Charlie Nguyễn
Từ đầu thập niên 1990 đến
nay, do sự thức tỉnh tâm linh, phần đông
người Tây phương đã nhận ra thực
chất của đạo Công giáo La mã chỉ là một
thứ “tà đạo khuyển sinh”. Do đó, con số giáo
dân tại các nước Âu Mỹ ngày càng suy giảm mau
chóng khiến cho nhiều giáo phận bị phá sản,
nhiều nhà thờ bị phát mại hoặc đóng
cửa vô thời hạn. Công giáo La mã đã trở thành
một thứ cặn bã văn hóa mà người Tây
phương muốn tống xuất ra khỏi cơ
thể của họ.
Đứng trước nguy cơ không còn tìm
đất sống tại các nuớc Âu Mỹ, Vatican
phải tìm đất sống mới tại Á châu, nơi
có khối lượng khổng lồ về dân số là 3
tỉ 300 triệu người (chiếm một nửa
tổng số nhân loại). Tuy nhiên Vatican
cũng không thể mù quáng để quá lạc quan nhìn
về tương lai vì quá khứ đã chứng minh
rằng: Tuyệt đại đa số dân Á châu rất
hờ hững với Kitô giáo nói chung và Công giáo La mã nói riêng.
Từ thế kỷ 16 đến nay, tuy đã hơn 4
thế kỷ qua, các cố đạo Tây phương
đã dầy công truyền đạo tại lục
địa này, nhưng số giáo dân Á châu chưa bao giờ
vượt qua được con số tỉ lệ
hết sức nhỏ bé là 1%!
Kết quả thê thảm đó là một
thực tế đắng cay đối với tham
vọng quá lớn của Vatican.
Thực tế dạy cho Vatican một bài
học: Á châu hoàn toàn khác châu Mỹ La tinh và cũng không phải
là cái sân sau của chủ nghĩa đế quốc Tây
phương để họ mặc sức tung hoành. Trong
thực tế, Á châu là một lục địa có
nhiều nền văn hoá giá trị từ lâu đời
nên người dân Á châu không dễ gì bị mê hoặc hay
bị lừa gạt bởi một thứ tôn giáo hạ
cấp đã sinh ra từ đạo thờ bò như Công
giáo La mã. Xét về giá trị thực chất, Công giáo là
thứ đạo vô luân, hạ đẳng chỉ
để dành riêng cho những hạng người thấp
kém, không muốn đứng thẳng (homo erectus) mà chỉ
muốn cúi xuống làm bầy súc vật cho ngoại nhân
chăn dắt mà thôi.
Mặc dầu đã ý thức
được thực trạng văn hóa Á châu hiển hách
như vậy, nhưng Vatican vẫn nuôi ảo tưởng
sẽ tạo ra một cơ hội mới tại lục
địa Á châu trong thiên niên kỷ thứ ba. Trong
chuyến công du tại Philippines
năm 1996, giáo hoàng Gioan Phaolồ II đã bộc lộ tham
vọng của y như sau: “Tương lai của giáo
hội Công giáo La mã nằm tại Á châu.”
Ba năm sau, trong chuyến công du Ấn
độ vào tháng 11-1999, giáo hoàng Gioan Phaolồ II công bố
tông huấn của y mang tên “Giáo hội tại Á châu”
(Ecclesia in Asia). Nội dung chính của tông huấn này là Giáo
hoàng chỉ thị cho các Hội đồng Giám mục Á
châu phải cải đạo những người ngoại giáo Á châu
theo cung cách của người châu Á. Giáo hội phải tìm
mọi cách để hòa nhập
(giả vờ) vào đời sống của người
bản địa để cuối cùng sẽ Công giáo hoá
họ và gia đình họ.
Đặc biệt, giáo hội Á châu phải chú ý
đến giới phụ nữ và giới người
nghèo là hai giới mà từ xưa đến nay giáo hội
thường kỳ thị và ruồng bỏ. (Báo Dấn
Thân của Phong trào Giáo dân Houston,
số 35, tháng 3-2002).
Từ ngày 3 đến ngày 13 tháng Giêng năm
2000, hội đồng Giám mục Á châu đã tổ
chức cuộc họp tại thành phố Sanphran (Thái Lan)
để học tập và nghiên cứu ngõ hầu thi hành
tông huấn này. Sau cuộc họp, các giám mục trở
về nước đã chỉ thị cho các tu sĩ và giáo
dân dưới quyền tham gia công cuộc truyền
đạo theo sách lược của giáo hoàng đã
vạch ra trong tông huấn, với tất cả các
phương tiện truyền thông hiện đại gồm
các sách báo, truyền thanh, truyền hình và nhất là Mạng
lưới Tin học toàn cầu (Internet).
Trong tất cả các cộng đồng Công
giáo Á châu, có lẽ có cộng đồng Công giáo Việt Nam
tại Hoa Kỳ là hoạt động tích cực nhất.
Ồn ào nhất là hệ thống Radio Bolsa, phát thanh
đồng loạt tại Washington DC., Houston,
Orange County
và San Jose. Phương
tiện truyền thông hiện đại qua Internet cũng
được triệt để khai thác cho việc
truyền đạo, đáng kể nhất là mạng
lưới Vietcatholic.net do linh mục Trần Công Nghị,
tiến sĩ thần học tại Roma, làm giám đốc
với sự cộng tác của trên 200 linh mục và trí
thức Công giáo (báo Viet Tide số 55, 8/8/2002, trang 20).
Tuy nhiên, mặc dầu tông huấn của
giáo hoàng tung ra nhiều độc chiêu nham hiểm
để xâm lăng văn hoá Á châu và bọn lâu la gián điệp
ra sức thực hiện các kế hoạch của giáo
hoàng, nhưng tất cả sẽ chẳng thâu lượm
được một kết quả nào. Cuối cùng
bản tông huấn của giáo hoàng sẽ đưa Công giáo
Á châu đi vào con đường bế tắc, không
lối thoát.
Sau đây là một số những lý do chính
yếu khiến cho ảo vọng của Vatican về
“một vụ gặt lớn tại Á châu” tan thành mây khói và
riêng giáo hội Công giáo Việt Nam sẽ thấy hiện ra
trước mặt một tương lai đen tối
không thể tránh khỏi.
Nguyên nhân 1: Tông huấn của Gioan Phaolồ II
không đưa ra một điều gì mới, sẽ
chỉ đưa Công giáo La mã Á châu vào con đường
cụt.
So sánh với các sách lược truyền
đạo của các cố đạo Tây phương
tại Á châu trong những thế kỷ trước, ta
thấy tông huấn của Gioan Phaolồ II chẳng có
điều gì mới lạ, ngoại trừ một số
danh từ mị dân rẻ tiền: “Chúa Giêsu mang hình hài
người Á châu”, “Công giáo La mã là đạo của
người Á châu”, “Thiên Chúa đã chọn Á châu để
khởi sự kế hoạch cứu độ của
Ngài” v.v...
Những lời mị dân đó chẳng
lừa bịp được ai vì trình độ hiểu
biết của người Á châu đã khác xưa.
Người Á châu biết phân biệt hai Giêsu: một Giêsu
thật (the real Jesus) và một Giêsu của sự thờ
phượng (the cultic Jesus). Giêsu thật là một
người Do thái đã sinh ra trên phần đất ngày
xưa là thuộc địa của đế quốc La mã
và ngày nay thuộc lãnh thổ Á châu. Giêsu thật có hành vi
chống đế quốc La mã và ngày nay thuộc lãnh
thổ Á châu. Giêsu thật có hành vi chống đế
quốc La mã và đã bị La mã giết chết bằng
cách đóng đinh trên thập giá. “Giêsu thật” đã
chết với tư cách là một công dân Do thái yêu
nước. “Giêsu thật” là một nhân vật có thật
trong lịch sử nên còn được gọi là “Giêsu
lịch sử” (the historical Jesus). Trái lại “Giêsu của
sự thờ phượng” là một sản phẩm
giả tạo đã được tạo ra bởi
những kẻ chủ mưu lập đạo Kitô gồm
có Phaolồ, Constantine và
Augustine. Bọn này đã thần thánh hoá Giêsu bằng
huyền thoại Chúa Cứu Thế của Do thái, bằng
thần thoại “Ngôi lời Nhập thể” của Hy
lạp và bằng môn thần học hoang tưởng
của Augustine. Vì thế “Giêsu của sự thờ
phượng” còn được gọi là “Giêsu thần
học” (the theological Jesus = the cultic Jesus). Người Á châu
có thể chấp nhận Giêsu là một người Á châu,
có thể có cảm tình tốt với Giêsu vì ông ta cũng có
tinh thần yêu nước chống đế quốc.
Nhưng người Á châu nhất định không chấp
nhận “Giêsu thần học” vì nó chỉ là sản phẩm
giả tạo do đế quốc La mã dựng lên
để làm công cụ xâm lược và nô lệ hoá con
người.
Chẳng khác nào dân Do thái trong hai ngàn năm qua
vẫn công nhận “Giêsu thật” tức là “Giêsu lịch
sử” là một công dân Do thái,nhưng họ dứt khoát
từ chối không chấp nhận “Giêsu của sự
thờ phượng” là một Chúa Cứu thế (Messiah)
hoặc là “Con trai duy nhất của Thiên Chúa” xuống
thế làm người...!
Thực tế văn hoá Á châu đã quyết
liệt phủ nhận “Giêsu thần học” và sẽ
phủ nhận quyết liệt hơn nữa trong
tương lai. Bất chấp thực tế phũ phàng
đó, giáo hoàng Gioan Phaolồ II vẫn đưa ra một
lời tuyên bố ảo tưởng: “Trong thiên niên kỷ
thứ ba, giáo hội sẽ gặt hái được
một mùa gặt lớn trên lục địa rộng
lớn và tràn trề sức sống này.” Chẳng bao lâu nữa, thực
tế sẽ dạy cho Vatican thấy
rằng : Á châu là một ‘bức tường lửa văn
hoá’ sẽ thiêu rụi mọi tín điều nhảm nhí
của Kitô giáo nói chung và của Công giáo La mã nói riêng.
Điều đó chẳng có gì đáng
ngạc nhiên vì đã nhiều thế kỷ trôi qua, các giáo
hoàng và ban tham mưu của họ ở Vatican đã không tìm
ra được một phương cách nào mới hữu
hiệu ngoài những cách đã cũ rích “Hòa để Hóa”
đã không thành công trong sách lược truyền đạo
ở Á châu.
Người đầu tiên áp dụng sách
lược “Hòa để Hóa” trong mục tiêu truyền
đạo là linh mục dòng tên gốc Ý rất nổi
tiếng Matteo Ricci. Ông ta đặt chân lên đất Trung
hoa năm 1583, lúc 32 tuổi, tự đổi tên thành
Mã-Lợi-Đậu, ăn mặc và sinh hoạt hoàn toàn
như một người Trung hoa. Sau 13 năm học và nói
thông thạo nhiều thổ ngữ Trung hoa, đọc và
viết thông thạo chữ Hán, linh mục Matteo Ricci đã
viết sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa”. Xuất bản
tại Bắc kinh năm 1603 với nội dung chủ
yếu là “Hội nhập Thiên Chúa giáo vào văn hoá Trung
quốc”. Cuốn sách của Matteo Ricci trở thành sách
gối đầu giường cho các giáo sĩ ngoại
quốc đến truyền đạo tại Trung Hoa
từ thế kỷ 16 về sau, và cho các giáo sĩ
đến truyền đạo tại Việt Nam trong
thế kỷ 17. Cuốn sách đó đặc biệt có
ảnh hưởng sâu đậm đến cố đạo
Đắc Lộ vì Matteo Ricci là người đầu tiên
đưa vào ngôn ngữ Trung Hoa những danh từ Kitô giáo
dưới dạng chữ Hán như: Thiên chủ, Thiên chủ
giáo, Thiên đàng, Hỏa ngục, Linh hồn, Thánh thần
(Holy ghost) v.v... Từ những danh từ chữ Hán đó,
Đắc Lộ đã dịch sang tiếng Việt và tìm
cách “Hội nhập Thiên Chúa giáo vào văn hóa Việt Nam”.
Đắc Lộ đã phát sinh ra danh từ “Đức Chúa
Trời”, “Chúa Thánh thần” để giảng đạo.
Matteo Ricci và Đắc Lộ được
coi là hai giáo sĩ truyền đạo xuất sắc,
cả hai đều thuộc dòng Tên là dòng tu nổi
tiếng trí thức nhất của giáo hội Công giáo La mã,
cả hai đều được coi là những
người đã khai sáng ra sách lược truyền giáo
bằng cách “hòa nhập vào văn hóa bản địa”
rồi sau đó “Công giáo hóa người bản xứ”
tại Á châu.
Tuy nhiên cả hai đều thất bại trong
việc thuyết phục người Á châu tin vào tín
điều “Thiên Chúa Ba Ngôi” nên
cả hai đều đã tránh đề cập
đến vấn đề này, mặc dầu Chúa Ba Ngôi là
vấn đề tâm điểm của Kitô giáo. Từ ngày
Matteo Ricci đặt chân lên đất Trung Hoa năm 1583 cho
đến 160 năm sau, số tín đồ Công giáo Trung Hoa
đã tăng lên con số khoảng 3 triệu người.
Nhưng một biến cố nghiêm trọng xẩy ra là
việc giáo hoàng Benoit XIV công bố đạo luật “Bulle Ex Quo Singular” năm 1742
cấm người Á châu không đựợc thờ cúng
tổ tiên. Đạo luật này đã làm cho các tín
đồ Công giáo Trung Hoa bất mãn tức giận nên
họ đã bỏ đạo gần hết. Chỉ còn
lại một số rất ít tiếp tục theo Công giáo
La mã mà thôi.
Bản chất của người Trung Hoa
rất tôn trọng đạo Hiếu. Giáo hoàng Benoit đã
hành động một cách hết sức dại dột là
cấm họ thờ cúng tổ tiên, chẳng khác nào xối
một thùng nước lạnh lên đầu họ.
Họ nhìn đạo Công giáo La mã như một thứ
đạo dành riêng cho những kẻ bất hiếu
đáng khinh bỉ và họ đã bỏ đạo không
luyến tiếc.
Theo thống kê năm 1980 thì dân số Trung
quốc trên 1 tỉ người, số tín đồ Công
giáo La mã cũng vẫn là 3 triệu người, tức là
chưa đến 3 phần ngàn (0.3%). Trong khi đó số
tín đồ Tin Lành là 7 triệu, mặc dầu Tin Lành
mới được truyền vào Trung quốc từ
đầu thế kỷ 20. (Theo nguyệt san Công giáo và Dân
tộc, số 22, tháng 10/1996).
Tỉ lệ Công giáo La mã Việt Nam là
khoảng 7% dân số toàn quốc, so với Trung quốc
chỉ có 0.3% thì tổng số Công giáo La mã Việt Nam
rất cao. Tuy nhiên, tỉ lệ cao này không phải là
kết quả của sách lược “Hòa để Hóa” mà
là kết quả của 80 năm Pháp cai trị Việt Nam
và 21 năm nhà Ngô cai trị miền Nam Việt Nam.
Dưới hai chế độ Việt Nam Cộng hòa
(1954-1975) bọn gián điệp văn hóa mặc áo thầy
tu đã ra sức tung hoành và xuyên tạc phá hoại văn
hóa nước nhà để quảng bá nền văn hóa phi
nhân và nô dịch của đạo Công giáo La mã. Tên gián
điệp văn hóa điển hình thuộc loại này là
cố linh mục Lương Kim Định đã bị
nhà nghiên cứu văn hóa Lê Trọng Văn vạch trần
trong tác phẩm “Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính
Trị” do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ
năm 1991, trang 334-455. Tác giả Lê Trọng Văn đã nêu
lên một nhận xét hết sức chính xác như sau: “Nho
cũng như Thích, Lão đều là những thứ keo
sơn gắn bó giữa các giai tầng trong xã hội
của các nước châu Á...
phá Nho không phải là một điều dễ làm nếu
không muốn nói đó chỉ là chuyện mộng du... giai
cấp Nho sĩ Việt Nam không phải hèn từ trong quá
khứ xa xưa, và trong hiện tại đã góp phần khá
lớn cho chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 vang
lừng thế giới... Công giáo La mã không thể đánh
phá Nho bằng bạo lực thì phải tìm cách Hòa
để Đồng Hóa dần bằng kinh tế và và
Đức Tin dưới hình thức giả bộ
đề cao Nho” (trang 352-353).
Lm. Lương Kim Định đã bỏ ra
nhiều công sức để “hòa nhập” vào đạo
Nho bằng cách nghiên cứu và viết nhiều sách về
Nho giáo, đến nỗi học giả Nguyễn Hiến
Lê phải tuyên bố : “Thật lạ lùng! Người có
công nghiên cứu đạo Khổng nhất, đề cao
Khổng nhất ở nước ta từ trước
đến nay lại là một người Công giáo: giáo
sư Lương Kim Định” (sách đã dẫn, trang
267).
Lm. Lương Kim Định viết: “Cái
nền tảng giáo lý Khổng Mạnh đã là công cụ
thống trị bóc lột của bọn vua chúa phong
kiến Hán tộc và đã bị nhân dân tại nơi sinh
ra nó phế thải... Điều đó nói lên tính lỗi
thời của giáo lý Khổng Mạnh” (sách đã dẫn,
trang 403).
Lm. Lương Kim Định cũng viết
nhiều về lịch sử Việt Nam và gây ấn
tượng tác giả đã thật sự “tìm về dân
tộc”, nhưng Lương Kim Định chỉ nhắm
xuyên tạc lịch sử Việt Nam để xóa bỏ
triều đại Hùng Vương và thay thế bằng
huyền thoại Bàn Cổ của Trung quốc. (Sách đã
dẫn, trang 362).
Nhà nghiên cứu văn hóa Lê Trọng Văn
kết luận: “Những tác phẩm của linh mục
Lương Kim Định đã thành công trên mặt
giảng đạo... bằng lừa lọc công luận,
tạo điều kiện áp đặt văn hóa Kitô lên
truyền thống văn hóa lâu đời của dân
tộc.” (sách đã dẫn, trang 371).
Nói tóm lại, sau hơn 4 thế kỷ
truyền đạo tại Á châu với sách lược
“hòa để hóa”, Vatican chẳng bao giờ có nổi
‘một vụ gặt bội thu’ như mong ước. Trái
lại, tỉ số chưa đến 1% tín đồ
đã nói lên sự thất bại nặng nề trong
sách lược truyền
đạo của Vatican.
Ngày nay, nội dung chính yếu của bản tông huấn
‘Giáo hội tại Á châu’ vẫn là: “truyền đạo
cho người Á châu với cung cách của người châu Á và tạo cho người châu
Á có cảm tưởng Công giáo La mã là đạo của
người châu Á chứ không phải là đạo
ngoại lai” v.v... Ngôn từ tuy có khác nhưng ý chính vẫn
là “hòa để hóa”, vẫn chỉ là ‘bình cũ
rượu mới’, tất cả vẫn là tiếp
tục đi trên con đường mòn thất bại. Con
số tín đồ Công giáo La mã châu Á sẽ chẳng bao giờ
vượt quá tỉ lệ 1%!
Bản tông huấn của Gioan Phaolồ II
không phải là một phép mầu của Chúa Thánh Thần có
thể đưa giáo hội Công giáo Á châu ra khỏi con
đường bế tắc hiện nay.
Nguyên nhân 2: Giáo
hội La mã là một dị vật không thể hoà nhập
vào văn hóa Á châu.
Ba tôn giáo quan trọng tại Trung quốc,
Nhật Bản và Việt Nam là đạo Phật,
đạo Lão và đạo Khổng. Cả ba đạo
đều xuất phát từ những nhu cầu của xã
hội và của con người. Cả ba đạo
đều nhằm một mục đích chung là phục vụ
lợi ích thiết thực của con người trong
đời sống này. Cả ba tôn giáo đã tạo nên nét
đặc thù của văn hóa Việt Nam.
Đạo
Phật: Phát sinh từ nhận thức cuộc đời
đau khổ như một giòng sông, bên này sông là “bến
mê”, bên kia sông là “bờ giác”. Phật giáo vạch ra một
‘con đường’ để đưa con người
đến giác ngộ, hay nói cụ thể hơn là cung
cấp cho con người một cái bè qua sông không phải
là ‘đức tin’ mà là trí tuệ và tinh thần tự giác
để tự cứu. Đạo Phật không bắt
buộc con người phải tôn thờ hoặc phải
sợ hãi một thần linh nào, không hăm dọa
đầy đọa con người đời
đời trong hỏa ngục và không xiềng xích tín
đồ vào những tín điều vô lí, phản lý trí và
phản khoa học như đạo Kitô.
Đạo
Khổng: Xuất hiện tại Trung quốc trong
thế kỷ 5 TCN. mục tiêu chính của đạo
Khổng là dạy con người cách xử thế:
- Hiếu: tỏ lòng thành kính biết ơn
cha mẹ, tổ tiên.
- Đễ: thuận thảo với anh em.
- Trung: trung thành với quốc gia dân
tộc.
- Thứ: cư xử với mọi
người cho hợp lẽ.
Đạo Khổng đã góp phần quan
trọng trong việc tạo thành một nếp sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội Việt Nam, nhờ
đó mọi người biết dùng lễ nghĩa cư
xử với nhau, tạo thành một thứ xã hội an
bình, trên thuận dười hòa.
Đạo Khổng đề cao tinh thần
thực tế, khiến cho mọi người chú tâm xây
dựng cuộc sống hiện tại. Khổng Tử
nói: “vị tri sinh, an tri tử”,
có nghĩa là ‘chúng ta chưa biết hết mọi chuyện
của cuộc sống này thì đừng nên bận tâm
về những gì xảy ra sau khi chết.’ Chúng ta không cần phải lo sau
khi chết sẽ đi về đâu, thiên đàng hay
hỏa ngục? Cũng
chẳng cần thắc mắc là ở trên có Thiên Chúa hay
không? Thiên Chúa có mấy ngôi? Chúa Cha có mấy con? Chúa sai đứa nào xuống
thế làm người hay làm con bò (Emmanu-el = the bull EL with
us)? Tinh thần thực
tiễn của đạo Khổng đã tránh cho chúng ta
khỏi rơi vào cái bẫy của thần học hoang
tưởng Kitô giáo, một môn học chuyên đoán mò
những chuyện huyền hoặc nhảm nhí và phản
khoa học. Đạo Khổng hoàn toàn không có một tín
điều nào và không dùng “đức tin” để cải
tạo xã hội, đạo Khổng chỉ tin
tưởng vào kết quả của sự giáo dục :
Các công phu giáo huấn sẽ làm thay đổi tư cách con
người, từ đó xã hội sẽ được
cải thiện để phục vụ con người.
Con người là cứu cánh phục vụ của
đạo Khổng vậy.
Đạo Lão:
Lão tử cùng thời với Khổng tử, tức là vào
thế kỷ thứ 5 TCN. Tinh thần của Lão tử
rất cao siêu, tuy nhiên phần đông người Việt
cũng thấm nhuần được cái tinh thần thanh
thoát bình thản của đạo Lão qua hơn hai ngàn
năm đạo này tồn tại trên đất
nước ta. Cái tinh thần bình thản đó là do
hiểu được nguyên lý tương đối trong
vũ trụ: Trong âm có dương, trong dương có âm.
Khi gặp điều may không vội mừng vì trong phúc có
họa. Khi gặp điều dữ không buồn lo vì trong
họa có phúc. Lẽ tương đối trong vũ
trụ giúp ta hiểu được cả những điều
siêu hình: trong âm có dương và trong dương có âm, trong
thiện có ác. Vậy không thể có Đấng Toàn
Thiện (Thiên Chúa). Ngược lại, trong ác có thiện,
vậy cũng không thể có kẻ chỉ ác (Quỉ Satan).
Thiên Chúa và Satan chỉ là sản phẩm của óc
tưởng tượng.
Lão tử giải thích căn nguyên vũ
trụ là Đạo: Đó chính là nguyên lý của thiên
nhiên vô hình vô sắc đã sinh ra âm dương tương
khắc tương sinh tạo thành vũ trụ vạn
vật. Dân tộc Việt Nam
không đón nhận ba đạo Phật, Khổng, Lão
bằng niềm tin mù quáng nhưng đã dùng lý trí chắt
lọc tinh tuý chung của cả ba đạo (tam giáo)
để phục vụ đời sống của toàn dân.
Cả ba đạo cùng sống trong lòng dân tộc như
một dòng chảy văn hóa duy nhất, đó chính là Tam
giáo Đồng lưu. Ngoài những nét đặc thù
của tam giáo, dân tộc Việt Nam
còn có một đặc tính văn hóa “cha mẹ hiền lành
để đức cho con”. Học giả Đào Duy Anh,
trong sách ‘Việt Nam Văn Hóa Sử Cương’, gọi
đặc tính ấy là ‘Nhân
sinh quan lưu ấm’. Học giả Đào Duy Anh đã
nhận xét : Sau khi tam giáo đã bắt rễ trong xã
hội, cả ba đạo tuy khác nhau nhưng chỉ có
một đường là chỉ dạy cho dân tộc ta
ăn ở hiền lành để tránh tai họa cho bản
thân và để đức lại cho con cái. Nhân sinh quan ‘lưu ấm’ là kết
quả của sự tổng hợp tinh tuý của tam giáo,
đã tạo nên một đặc tính văn hóa rất
cảm động của dân tộc ta.
Cây xanh thì lá
cũng xanh
Cha mẹ
hiền lành để đức cho con.
Ai ai cũng không dám làm điều ác, không
phải vì sợ Chúa phạt xuống hỏa ngục mà
chỉ sợ ‘đời cha ăn mặn, đời con
khát nuớc’, ‘Ác giả ác báo’ theo luật nhân quả!
Mỗi khi gặp điều gì may mắn thì cho đó là
‘phúc đức của tổ tiên để lại.’
Mỗi khi con cái khôn hơn mình, giỏi hơn mình thì vui
mừng cho đó là cái phúc của gia đình mình : ‘Con hơn
cha là nhà có phúc’!
Tam giáo đã tạo nên tinh thần gắn bó
giữa tổ tiên và chúng ta, sau đó là mối liên kết
kế tục giữa chúng ta và con cháu đời sau. Dòng
chảy thiêng liêng từ tổ tiên đến con cháu muôn
đời là ĐỨC. Đức
được tạo thành do sự ăn ở hiền
lành ngay thẳng hợp với đạo làm người
một cách tự nhiên theo lương tâm hoặc theo
Phật tính sẵn có trong lòng mỗi người. Tam giáo
đã đem đến cho dân tộc ta một triết lý
sống rất thực tiễn nhưng cũng rất cao
đẹp. Điều mà dân tộc ta tôn quí nhất là
Đức hiền lành (hiền
đức)!
Người
trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây
Đức cho đời mai sau!
Trong khi đó thì Giêsu trắng trợn dạy
tín đồ “đạo bất hiếu” có ghi rành rành trong
Phúc âm Luke 14:20: “Bất cứ ai đến với ta mà không
thù ghét cha mẹ, vợ con và anh chị em mình thì không
thể là tín đồ của ta.” Do lời dạy khốn nạn
đó của Giêsu nên giáo hoàng Clément XI đã ban hành sắc
luật ngày 20/11/1704
cấm tín đồ Công giáo La mã không được
thờ cúng tổ tiên, cấm đặt bài vị hoặc
hình ảnh của người quá cố trên bàn thờ. Giáo
hoàng Nenoit XIV nhắc lại luật cấm thờ tổ
tiên năm 1742. Do luật cấm thờ tổ tiên ngu
xuẩn của các giáo hoàng La mã mà hầu hết giáo dân Trung
Hoa đã bỏ đạo trong thế kỷ 18.
Mãi đến năm 1939, giáo hoàng Piô XII
mới ban hành đạo luật ‘Plane Compertum Est’ cho phép
giáo dân Trung Hoa thờ cúng tổ tiên như xưa. Sau Công
đồng Vatican II năm 1964, bãi bỏ lệnh cấm
thờ tổ tiên nên giáo dân Việt Nam
mới được phép tiến hành dâng hương
trước bàn thờ gia tiên trong dịp cưới
hỏi hoặc ngày giỗ v.v...
Mục đích chính của Vatican
khi ra lệnh cấm thờ cúng tổ tiên cốt ý dành
sự tôn thờ cho một Thiên Chúa mà thôi. Ngoài Thiên Chúa ra,
các tín đồ không được tôn thờ một ai
khác, dù người đó là cha mẹ tổ tiên của mình.
Qua những sự việc trên chúng ta thấy
các tín đồ Công giáo La mã thật tội nghiệp
đáng thương. Họ là một bầy nô lệ đã
bị Vatican tước đoạt
hết quyền tự do và nhân phẩm do sự ngu dốt
của họ. Bọn lưu manh khốn nạn ở Vatican
đã dành toàn quyền quyết định hoặc
tước đoạt hoặc cho phép họ
được thờ cúng tổ tiên của mình. Thật ra
sự thờ cúng tổ tiên chẳng phải là một tôn
giáo, ta quen gọi là đạo
ông bà, chỉ là một cách biểu lộ tình cảm gia
đình đối với người thân đã khuất mà
chúng ta vẫn tha thiết chẳng muốn xa lìa quên lãng.
Việc cúng giỗ là một hình thức kỷ niệm
để tỏ lòng biết ơn theo tinh thần “uống
nước nhớ nguồn”. Bọn giáo hoàng ở Vatican
cấm người Á châu thờ cúng tổ tiên là bọn
chúng đã ngang nhiên nhục mạ văn hóa Á châu và xúc
phạm nặng nề đến tâm tư tình cảm
của người châu Á. Bọn lãnh đạo giáo hội
Công giáo La mã sẽ phải trả những giá rất
đắt cho những hành động láo xược và ngu
xuẩn của chúng.
Tổng kết lại, chúng ta thấy Kitô
giáo (gồm cả Công giáo và Tin lành) không thể hòa nhập
vào văn hóa Á châu, nhất là văn hóa Trung quốc,
Nhật bản và Việt Nam, do hai mặt đối
lập chính yếu sau đây:
1.Tam giáo được xây dựng trên nền
tảng nhân bản, trong khi đó Kitô giáo là một tôn giáo
hoàn toàn phi nhân (inhuman).
Như đã trình bày: Tam giáo xuất phát
từ nhu cầu phục vụ con người chứ không
phục vụ một thần linh nào. Tam giáo không
đặt vấn đề thờ phượng
Thượng đế mà chỉ chú trọng đến cái
Tâm của con người:
Con người đau khổ do mê muội và dục
vọng. Con người có thể tự cứu mà không
cần phải cầu cứu hay ỷ lại vào một
thần thánh nào. Đó là tính nhân bản của Tam giáo. Trái
lại, nền tảng các đạo độc thần
(Do thái, Kitô, Hồi) đều đặt trên niềm tin
vào Thiên Chúa và phải tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi
sự. Tiêu biểu tinh thần cho các đạo Chúa là
chuyện Abraham dám giết người mà ông ta yêu
thương nhất để tế Chúa thì tất nhiên ông
ta cũng không ngần ngại giết bất cứ ai
hoặc giết vô số người khác để
phục vụ tinh thần hiếu sát vô độ của
Thiên Chúa. Thiên Chúa thực sự là một ác thần khát máu
và các tín đồ thờ đạo Chúa đều là
những kẻ hiếu chiến, hiếu sát. Đó là
một đặc tính phi nhân (hoặc vô nhân đạo)
của các đạo Chúa nói chung và của Kitô giáo nói riêng,
không thể nào hòa nhập vào đời sống
người Á châu vốn thấm nhuần triết lý nhân
bản của tam giáo.
2.Cả ba đạo Phật, Khổng, Lão thật
sự là ba triết thuyết được xây dựng
trên căn bản lý trí, trái với Kitô giáo là một
tôn giáo thần bí dựa trên những tín điều do
kẻ lập đạo tự ý đặt ra để
bắt các tín đồ phải tin theo. Các tín dồ không có
quyền dùng lý trí để phê phán các tín diều dù cho
họ nhận thức được các tín điều
đó là vô lý.
Họ chỉ có một con đường
duy nhất để trở thành tín đồ Kitô giáo là
hoàn toàn chấp nhận vô điều kiện toàn bộ các
tín điều của đạo Kitô theo đúng lời
dạy ngu xuẩn của Giêsu : “Phúc cho những ai không
thấy mà tin”!
Kitô giáo là một tôn giáo hoàn toàn xây dựng trên niềm tin và phủ nhận lý
trí. Điều đó đủ cho thấy mọi tín
đồ Kitô giáo (Công giáo, Tin lành) đều là những
kẻ vô minh mê muội. Kitô giáo chẳng khác nào bóng tối,
khi nó đến gần Tam giáo nó sẽ bị ánh sáng trí
tuệ của Tam giáo làm cho nó tiêu tan. Kitô giáo chẳng bao
giờ có khả năng hòa nhập vào Tam giáo vì nó đã
bị hoàn toàn tiêu tan trước khi nó có thể hoà
nhập. Chính vì vậy, trong hai ngàn năm qua, trong lòng dân
tộc Việt Nam luôn luôn tồn tại Tam giáo Đồng lưu, nhưng sẽ không bao
giờ có sự hòa nhập của Kitô giáo để
biến thành “tứ giáo đồng nguyên”. Điều quái
đản này sẽ chẳng xẩy ra trên đất
nước Việt Nam.
Nguyên nhân 3: Thái độ kiêu căng láo
xược của Vatican đã đẩy
các dân tộc Á châu vào thế đối đầu và
dẫn đến sự thất bại nhục nhã của
đạo Công giáo La mã.
Đã hai ngàn năm qua, ba đạo
Phật-Khổng-Lão sống chung hòa bình trong lòng dân tộc
Việt Nam,
không một lần gây xáo trộn xã hội và cũng không
một lần đưa dân tộc vào vòng nô lệ
ngoại bang. Cả ba đạo đều tỏ thái
độ tương thân tương kính, hòa nhã khiêm cung
đúng như tư cách của người quân tử. Thái
độ này hoàn toàn phù hợp với tinh thần hòa nhã
nhún nhường cố hữu của người Việt
Nam:
Ai nhất thì tôi
thứ nhì
Ai mà hơn
nữa tôi thì thứ ba.
Trái lại, thái độ của Công giáo La mã
(mà đại diện của nó là Vatican)
luôn luôn trịch thượng, hung hăng, láo xược.
Công giáo luôn kiêu hãnh tự cho mình ngôi vị độc tôn và
lên mặt coi thường tất cả các tôn giáo khác trên
thế giới.
Trong bản tông huấn “Giáo hội Á châu”,
giáo hoàng Gioan Phaolồ II viết: “Đức Giêsu Kitô là trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài
đã là Đấng Cứu độ duy nhất cho toàn
thể loài người.... khác hẳn với các vị sáng
lập các tôn giáo khác.” Giáo
hoàng Goan Phaolồ II muốn đề cao Giêsu trên các giáo
chủ khác vì hai lý do hoàn toàn giả tạo.
Thiên Chúa là sản phẩm của
tưởng tượng nên hoàn toàn không có thật, do đó
chẳng làm gì có chuyện Giêsu là trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người. Dân Á châu đi tìm sự
cứu độ tự bản thân mình, chứ không tìm
sự cứu độ từ bên ngoài, do đó cái huyền
thoại cứu độ của Giêsu chỉ là một món
hàng thừa thãi vô dụng chỉ đáng vứt xuống
hố rác mà thôi. Cũng vì thế, mặc dầu Giêsu đã
sinh ra trên lục địa Á châu từ hai ngàn năm qua
nhưng y vẫn là kẻ vô danh trên lục địa này.
Trong một đoạn khác của bản
tông huấn, Gioan Phaolồ II còn nhục mạ các tôn giáo Á
châu một cách nặng nề hơn nữa : “Các tôn giáo Á
châu như Do thái giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo,
Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Hỏa giáo, đạo
Sikh và Thần đạo... các giá trị tôn giáo mà các
đạo ấy giảng dạy đang chờ
được hoàn thành trong đức Giêsu Kitô.” Đây là
một luận điệu láo xược đến
độ trâng tráo lố bịch ngoài sức tưởng
tượng của mọi người. Gioan Phaolồ II
tuyên bố như trên nhằm xuyên tạc và hạ bệ
tất cả các giáo chủ khác xuống thành những “công
cụ dọn đường” cho Giêsu vì Giêsu là giáo chủ
cuối cùng và cao nhất có sứ mạng hoàn thành chân lý?
Chúng ta hãy tự hỏi Giêsu thật sự là
ai? Và đạo Công giáo La mã thật sự là đạo gì?
Lịch sử và khoa học khảo cổ đã chứng
minh Công giáo chỉ là đạo thờ bò cải biến.
Giáo lý Kitô giáo chứng minh Giêsu là một đứa con
mất dạy loạn luân với mẹ. Sách Tân ước
Mathew 1:23 ghi nhận Giêsu là một con bò: “Này, trinh nữ
sẽ mang thai và sinh ra một đứa con trai, nó sẽ
được đặt tên là Emmanu-EL.” (Behold, a virgin shall
be with child and shall bring forth a son and they shall call his name
Emmanu-EL). Theo nguyên nghĩa tiếng Hebrew, Emmanu-EL có nghĩa
là con bò EL ở cùng chúng ta. (The bull EL among us).
Phải chăng các giáo thuyết mà
đức Phật Thích Ca, đức Khổng tử, Lão
tử giảng dạy đều thiếu sót và cần
phải đợi con bò Giêsu hoặc đứa con loạn
luân với mẹ để hoàn thành hay sao?
Thái độ trịch thượng và láo
xược của Gioan Phaolồ II và Vatican
đã đẩy các tôn giáo và các dân tộc Á châu vào thế
đối đầu. Bọn chúng quên rằng các tôn giáo và các
dân tộc Á châu có dư khả năng khai tử Công giáo La
mã trên lục địa này. Với thái độ kiêu
căng ngạo mạn, khinh thường các tôn giáo Á châu,
bọn tu sĩ Công giáo La mã đang tự đào hố chôn
mình. Bản chất phi nhân và phản lý trí của Kitô giáo
(gồm cả Công giáo và Tin lành) không cho phép Kitô giáo có
thể hòa đồng với thực tại văn hóa tam
giáo của Việt Nam nói riêng và của các nước Trung
Hoa-Nhật Bản-Việt Nam nói chung. Kitô giáo sẽ mãi mãi
là một dị vật văn hóa và sẽ bị đào
thải. Với thái độ trịch thượng láo xược
của đại đa số tu sĩ Công giáo La mã, bọn
chúng không chỉ đưa Giáo hội Công giáo tới ngõ
cụt mà là tới tử địa trên mảnh
đất quê hương Việt Nam của chúng ta.
Charlie Nguyễn
Tháng 7-2003