CÁC MÔ HÌNH SINH HOẠT TRONG THẾ GIỚI HỒI GIÁO
(The Patterns of Islamic Life)
Các
mô hình sinh hoạt của các tín đồ Hồi Giáo đã
được hình thành do hai yếu tố chính:
Trước hết, do các tín lý giáo điều đã
được vạch ra trong kinh Koran và sau đó là do các
phong tục tập quán trong nếp sống du mục lâu
đời của người Ả Rập. Người
ta có thể liệt kê khoảng 15 mô hình sinh hoạt như
sau:
1. Vai trò ưu thắng của nam giới trong
xã hội.
Trong xã hội Hồi Giáo, đàn ông luôn luôn
được coi là chủ gia đình và là người
chính yếu kiếm tiền nuôi vợ con và mọi thân nhân
lệ thuộc (the main wage-earner). Tuy nhiên, mức độ
ưu thắng của đàn ông cũng còn tùy thuộc vào
phong tục tập quán của mỗi quốc gia vì ngày nay
Hồi Giáo đã trải rộng khắp nơi trên thế
giới. Tại Afganistan, quyền ưu thắng của
đàn ông gần như tuyệt đối vì luật pháp
cho phép đàn ông đánh đập đàn bà công khai trên
đường phố trong khi tại Thổ Nhĩ Kỳ
quyền bình đẳng nam nữ đã được
luật pháp tôn trọng.
2. Ngôn ngữ Arabic và các chuyển ngữ chính
thức trong đạo Hồi.-
Các kinh sách quan trọng nhất của
đạo Hồi là Kinh Thánh Koran, các sách giáo lý Sunna, Hadiths
và sách luật Sharia đều được viết
bằng tiếng Arabic. Do đó, ngôn ngữ Arabic
được coi là ngôn ngữ chính của đạo
Hồi. Các học giả nghiên cứu đạo Hồi và
các sinh viên thần học Hồi Giáo (thuộc mọi
chủng tộc) đều phải học tiếng Arabic
để nghiên cứu các kinh sách nguyên bản. Còn lại
tuyệt đại đa số các tín đồ Hồi
Giáo đều không biết tiếng Arabic nên phải dùng các
chuyển ngữ. Trong thế giới Hồi Giáo có 4 nhóm
chuyển ngữ:
1) Tiếng URDU là chuyển ngữ chung cho các tín
đồ Hồi Giáo thuộc các nước Ấn
Độ, Bangladesh và Pakistan.
2) Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là chuyển
ngữ cho các nước Trung Á như Kazakstan, Uzebeikistan,
Afganistan...
3) Tiếng Farsi là chuyển ngữ chung cho các
nước Cận Đông như Iran, Iraq, Syria...
4) Các nước khác dùng ngôn ngữ riêng của
mình.
3. Ngày lễ chính trong tuần.-
Ki Tô Giáo chọn ngày Chủ Nhật làm ngày
lễ chính trong tuần, Do Thái Giáo chọn ngày thứ
Bảy (Sabath) trong khi Hồi Giáo chọn ngày lễ chính
trong tuần là ngày thứ Sáu. Cứ đến ngày thứ
Sáu, các đền thờ Hồi Giáo đông nghẹt
người. Tại thủ đô Ai Cập có nhiều
đền thờ không đủ sức chứa số
lượng tín đồ quá đông đến nỗi
cảnh sát phải chặn xe cộ trên đường
phố, trải chiếu trên lề đường và trên
cả đường phố để các tín đồ có
chỗ đứng xếp hàng cầu nguyện. Sau khi
cuộc cầu nguyện chấm dứt, cảnh sát ra
hiệu cho những dòng xe cộ bắt đầu
chuyển bánh đi tiếp!
4. Đền thờ Hồi Giáo.-
Đền thờ Hồi Giáo không phải là nơi
để các tu sĩ hành lễ như nhà thờ Công Giáo
hoặc các chùa Phật Giáo. Đền thờ Hồi Giáo
chỉ là nơi họp mặt của các tín đồ
để cầu nguyện tập thể mà thôi. Hồi
Giáo không có tu sĩ vì họ quan niệm ai cũng có thể
nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa nên không cần
qua trung gian của bất cứ người nào khác. Hơn
nữa, khác với Công Giáo, Hồi Giáo không có một
"phép bí tích" nào nên không cần một thứ chức
thánh nào (linh mục, giám mục, hồng y...). Hồi Giáo có
nhiều thánh địa nhưng không có giáo đô nên không
cần có giáo hoàng.
Hồi Giáo tối kỵ việc thờ
ảnh tượng của Chúa và các Thánh nên bên trong và bên
ngoài đền thờ luôn luôn trống trơn, không có
một hình tượng nào cả. Đền thờ
Hồi Giáo cũng tương tự như đền thờ
Do Thái Giáo (Sinagogue), cả hai đều được
định nghĩa là nơi họp mặt với
nhiều dụng đích. (Mosque: Meeting place for general use of the
community). Ngoài việc được dùng làm nơi hội
họp, đền thờ còn có thể được dùng
làm trường học, bệnh viện hoặc nơi tạm
trú cho những người tỵ nạn hoặc nạn
nhân trong các vụ thiên tai v.v... Đền thờ Hồi
Giáo Al-Azhar ở Cairo, thủ đô Ai Cập, từng
nổi tiếng là một đền thờ đồ
sộ và tráng lệ đã trở thành trường
Đại Học đầu tiên của nhân loại vào
cuối thế kỷ 10. Tới nay đã trên một ngàn
năm, trường đại học này vẫn còn
đang tiếp tục hoạt động.
Tất cả các đền thờ Hồi
Giáo trên khắp thế giới dù lớn hay nhỏ và dù
ở bất cứ nơi nào cũng phải hội
đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a. Phải có chỗ
rửa mặt và tay chân sạch sẽ trước khi
cầu nguyện.
b. Bên trong nhà thờ
phải trống trải để các tín đồ có
chỗ xếp hàng cầu nguyện.
c. Mọi đền
thờ phải có một cái hốc khoét sâu vào tường
(a niche) để định hướng cho mọi
người quay mặt về thánh địa Mecca khi
cầu nguyện, vì tại đó có nhà của Chúa, tức đền
thờ Ka'ba (House of God).
d. Mỗi nhà thờ
phải có một bục cao để IMAM giảng kinh vào
ngày thứ Sáu hàng tuần.
e. Không được
trang trí tường bằng tranh ảnh. Chỉ có thể
trang trí bằng các hình kỷ hà học hoặc bằng
nghệ thuật viết chữ Ả Rập (Calligraphy)
hoặc bằng các hình vẽ nghệ thuật của hình
học (geometrical decorations).
5. Huy Hiệu Hồi
Giáo.-
Thường
thường, mỗi tôn giáo đều có một huy
hiệu riêng để làm biểu tượng cho tôn giáo
của mình. Chẳng hạn như hình ngôi sao 6 cánh (ngôi sao
Đavít) là biểu tượng của đạo Ki Tô, hình
con mắt là biểu tượng của đạo Cao
Đài v.v...
Huy hiệu của
đạo Hồi là một vành trăng lưỡi
liềm, bên trong có hình ngôi sao năm cánh. Tiếng Ả
Rập gọi huy hiệu này là HILAL. ? ?
Vành
trăng lưỡi liềm tượng trưng cho Âm
Lịch Hồi Giáo. Ngôi sao là biểu tượng cho sự
tuân theo ý Chúa vì kinh Koran đã dạy rằng: "Thiên Chúa
đã dựng nên các vì sao để hướng dẫn con người
tới cùng đích" (Allah created the stars to guide people to
destination).
6. Muezzin.-
Mỗi
một đền thờ Hồi Giáo có một người
được chỉ định làm nhiệm vụ leo lên
tháp cao mỗi ngày 5 lần để kêu gọi các tín đồ
cầu nguyện. Tiếng Ả Rập gọi
người đó là Muezzin. Ngày nay, người ta mắc
loa phóng thanh trên tháp cao để kêu gọi tín đồ
chứ không dùng Muezzin như xưa. Tuy nhiên, lời kêu
gọi từ xưa đến nay không thay đổi:
"Thiên Chúa là đấng vĩ đại vô cùng. Tôi tin
không có Thiên Chúa nào khác ngoài Allah. Tôi tin Muhammad là thiên sứ
của Ngài. Hãy đến cầu nguyện, hãy đến
để nhận ơn cứu chuộc. Thiên Chúa Allah
vĩ đại vô cùng. Không có Thiên Chúa nào ngoài Allah" (God
is most great. I bear the witness that there is no God but Allah. Hasten to
prayer. Hasten to salvation. Allah is most great, there is no God but Allah).
7. Lời
cầu nguyện thần chú (The Invocation)
Tiếng
Ả Rập BASIMALA có nghĩa là lời cầu nguyện
đặc biệt có tích cách tiên quyết và bắt buộc
đối với mọi tín đồ Hồi Giáo trong
suốt cuộc đời. Có thể coi đây là một
câu "thần chú" mà các tín đồ Hồi Giáo
thường tự động buột miệng cầu
nguyện mỗi khi bắt đầu làm một công
việc gì, chẳng hạn như lúc mở đầu
cuộc họp, khi leo lên xe bus, lúc bắt đầu
lớp học, trước mỗi bữa ăn hay
trước khi đi ngủ... Trong tất cả các sách
của các tác giả Hồi Giáo, câu thần chú này phải
được in ở trang đầu của cuốn sách.
Câu thần chú như sau: "Nhân danh Thiên Chúa đầy lòng
thương xót và nhân từ vô cùng. Chúng con ngợi khen Chúa
là chúa tể vũ trụ và sự bình an. Chúng con dâng
lời cầu nguyện Chúa cùng với đấng tiên tri
và thiên sứ cuối cùng của Chúa". (In the name of God,
the Compassionate, the Merciful. Praise be to Allah, Lord of the Universe and
Peace. Prayers be upon his final prophet and messenger).
8. Lịch Hồi Giáo.-
Do
Thái và các dân tộc Ả Rập từ ngàn xưa vẫn
quen dùng Âm Lịch. Tuy nhiên, người Ả Rập
Hồi Giáo chính thức mở đầu một kỷ
nguyên mới của Âm Lịch Hồi Giáo từ năm 622
(sau Công Nguyên) là năm Muhammad và cộng đồng Hồi
Giáo từ Mecca di cư về ốc đảo Medina.
Mỗi một vòng của mặt trăng xoay quanh trái
đất là một tháng, 12 vòng là một năm, tổng
cộng 354 ngày. So với năm dương lịch,
mỗi năm của Âm Lịch Hồi Giáo thiếu hụt
11 ngày (365-354 = 11 ngày). Điều khác biệt của Âm
lịch Hồi Giáo là không có tháng nhuận (4 năm một
lần) như Âm Lịch của người Trung Hoa. Do
đó, sự thiếu hụt giữa Lịch Hồi Giáo và
Dương lịch cứ bị tích lũy mỗi ngày
một lớn. Đến nay, sự sai biệt giữa Âm
Lịch Hồi Giáo và Dương Lịch là 42 năm.
Lấy
thí dụ điển hình: Năm 2000 Dương Lịch là
năm 1420 của Âm Lịch Hồi Giáo. Năm bắt
đầu kỷ nguyên Âm Lịch Hồi Giáo là năm 622 AD.
Nếu tính theo Dương Lịch thì năm 2000 phải là
năm 1378 của Hồi Giáo, nhưng vì năm Âm Lịch
Hồi Giáo chỉ có 354 ngày nên số năm của Âm
Lịch Hồi Giáo đã bị dư ra 42 năm
(1420-1378=42).
9. Hôn lễ Hồi Giáo.-
Tại
các vùng thôn quê Hồi Giáo, việc hôn nhân của con cái
hầu như đều do cha mẹ quyết định.
Tại thành thị và trong giới học thức, các thanh
niên nam nữ thường hẹn hò nhau một cách kín
đáo tại nhà riêng. Nói chung, tại các nước
Hồi Giáo hầu như không có cảnh trai gái tình tự
công khai trên đường phố hay tại công viên.
Tuyệt đại các tín đồ Hồi Giáo quan niệm
hôn nhân là sự liên kết giữa hai gia đình hơn là
sự kết hợp của hai cá nhân. Do đó, lễ
cưới được coi là một sinh hoạt
đặc biệt của cộng đồng (làng, bộ
lạc...) nên mọi người trong cộng đồng
đều được mời đến nhà chú rễ
ăn một bữa tiệc vui. Trong tiệc cưới,
nam nữ phải ngồi riêng.
Trong
đạo Công Giáo, hôn lễ được coi là một
phép bí tích nên hôn lễ phải được cử hành
tại nhà thờ và do một linh mục chủ lễ. Trái
lại, đạo Hồi không có phép bí tích nên không có
một nghi lễ tôn giáo nào dành cho hôn nhân. Các lễ
cưới đều diễn ra tại nhà riêng một cách
đơn giản trong im lặng.
10. Tang lễ Hồi
Giáo.-
Trong
đạo Hồi, không có một nghi lễ tôn giáo nào cho
việc mai táng người chết. Các xác chết không
được đưa đến nhà thờ, chỉ
cần người nhà tắm rửa xác chết sạch
sẽ, bọc xác bằng vải trắng, cho vào hòm đem
chôn. Luật Hồi Giáo cấm thiêu xác chết vì họ tin
rằng xác loài người sẽ sống lại trong Ngày
Phán Xét Cuối Cùng (The Last Judgement Day). Thân nhân người
chết phải tự chế cảm xúc, không
được gào thét quá đáng vì làm như vậy là không
tin vào lòng nhân từ vô cùng của Thiên Chúa và không tin xác loài
người sẽ sống lại. Sự chết chỉ
là tạm thời, sự sống mới là vĩnh cửu!
Khi
đặt người chết xuống huyệt, phải
quay đầu người chết về hướng Thánh
địa Mecca.
11. Chuỗi hạt
Subha.-
Allah
là Thiên Chúa Duy Nhất (Allah is The Unity God) nhưng Muhammad
đã ca ngợi Allah bằng 99 tên khác nhau trong kinh Koran:
Đấng Hằng Sống (The Everliving) Đấng Tự
Hữu (The Self-Subisting), Đấng Tối Cao (The Most High)
Đấng Thông Biết Mọi Sự (The All-Knowing),
Đấng Toàn Năng (The Almighty), Đấng Tạo Hóa
(The Creator), Đấng Lòng Lành Vô Cùng (The Merciful, The
Compassionate) Đấng Nhìn Thấy Mọi Sự (All-Seeing
Deity) Đấng Biết Mọi Sự Hữu Hình và Vô Hình
(The Knower of The Seen and Unseen) v.v...
Các
tín đồ Hồi Giáo phải học thuộc 99 tên
của Thiên Chúa. Để giúp tín đồ đếm
đủ 99 tên này, giáo phái Sufis đã sáng chế ra chuỗi
hạt SUBHA vào thế kỷ 14. Chuỗi hạt này
tương tự như chuỗi hạt Mân Côi (Rosary Beads)
của Công Giáo. Chuỗi hạt của Công Giáo có 50 hạt,
chuỗi hạt của Subha chỉ có 33 hạt mà thôi. Tuy
nhiên, mỗi khi lần hạt Bubha, các tín đồ
phải lần hạt liên tiếp 3 lần cho đủ 99
tên của Thiên Chúa (33x3=99).
12. Chế độ
ăn uống.-
Chế
độ ăn uống của các tín đồ Hồi Giáo
đã được qui định một cách chặt
chẽ trong kinh Koran:
- Tuyệt đối
cấm uống rượu, dù là rượu nhẹ. Ngay
cả trong trường hợp bị bệnh cũng không
được uống thuốc có pha rượu. Do
luật cấm nghiêm ngặt này nên hầu hết các
tiệm bán rượu của người ngoại
quốc trong các nước Hồi Giáo thường bị
các tín đồ cực đoan đốt phá bình địa.
- Tuyệt đối
cấm ăn thịt heo.
- Cấm ăn
huyết của mọi sinh vật.
- Cấm ăn
thịt các súc vật đã chết một cách tự nhiên.
- Các tín đồ chỉ
được ăn thịt được sản
xuất theo đúng luật Hồi Giáo gọi là HALAL MEAT: Người giết súc vật
phải giết nó khi còn đang sống và khi giết nó
phải cầu nguyện nhân danh Chúa. Sau khi xẻ thịt
súc vật phải rửa thịt cho sạch máu.
Tại Mỹ và
Canada, các tiệm bán thịt theo luật Hồi Giáo
đều có treo bảng với hàng chữ HALAL Meat.
13. Đặt tên cho
con.-
Các
tín đồ Hồi Giáo trên khắp thế giới
thường đặt tên con bằng tên của giáo
chủ Muhammad, các vị vua (Caliphs) kế vị Muhammad
như Abu, Umar, Uthman và Ali, các cháu ngoại của Muhammad là
Hasan và Husayn hoặc bằng các tên ghép với tên Allah
của Thiên Chúa như: Abdallah (tôi tớ của Thiên
Chúa/Servant of God) Abdul-Rahman (Tôi tớ của Đấng Nhân
Lành vô cùng/Servant of the All-Merciful). Các cô con gái thường
được cha mẹ đặt theo tên các bà vợ
nổi tiếng của Muhammad như Khadija, Aisha hoặc tên
con gái của Muhammad là Fatima.
14. Thiên đàng
nhục dục của kinh Kroan và tinh thần tử
đạo của thanh niên Hồi Giáo.- (The koranic paradise and the martyrdom)
Không
có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu
vườn với những lạc thú vật chất và
nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt
đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt
vời và trẻ mãi không già... như trong kinh Koran.
Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên
Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên
Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).
Kinh
Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông
với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest
water) những con sông sữa tươi không bao giờ
hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong
trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương
56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn
lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên
đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi
không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt
nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh
đẹp tuyệt vời với những cặp mắt
đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).
Thiên
Chúa Allah đã phán rằng: "Ta đã tạo ra các cô trinh
nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh
trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần
thưởng cho những ai làm việc phải" (We
created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for
those on the right hand - Koran: surah 56).
Hầu
hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều
ước mơ sớm được lên thiên đàng
lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo
đảm nhất để họ đạt
được mục đích này là sẵn sàng tử
đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran
hứa rằng: "Những ai bị giết vì Chúa
đều được vào thiên đàng lạc thú" (As
for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise
of Delight). "Đừng bao
giờ nghĩ rằng những người bị giết
vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì
phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui
hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ
từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ
của Ngài" (Never think that those who were slain in the cause of God
are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to
fear or to regret, rejoicing in God's grace. God will not deny the faithful
their reward - Koran 3:169).
Tên khủng bố Atta là phi công chủ
chốt lái máy bay lao vào tòa cao ốc ở New York ngày 11-9-2001
đã tắm rửa sạch sẽ và nai nịt hạ
bộ của y cẩn thận trước khi thi hành công
tác khủng bố này. Y đã chuẩn bị sẵn sàng
để đi vào thiên đàng lạc thú với những
người đẹp muôn đời của y.
15. Những ngày lễ
hội quan trọng nhất trong năm.-
a. Lễ hội chấm
dứt mùa chay Ramadan (The end of Ramadan).- Mùa chay kham khổ của các tín
đồ Hồi Giáo trên toàn cầu kéo dài ròng rã suốt
tháng 9 Âm lịch. Ngày 1 tháng 10 Âm lịch Hồi Giáo là ngày vui
nhất trong năm của người Hồi Giáo, cũng
tương tự như tết Nguyên Đán của
người Trung Hoa và Việt Nam.
b.
Lễ Mừng Sinh Nhật của giáo chủ Muhammad
(Mawlid). Giáo phái Sunni
(chiếm 80% tổng số tín đồ) mừng sinh
nhật của Muhammad vào ngày 12 tháng 3 Âm lịch, giáo phái
Shiite (chiếm 12%) mừng sinh nhật vào ngày 17-3 Âm lịch
Hồi Giáo, tức sau 5 ngày. Các quốc gia công nhận
đạo Hồi là quốc giáo coi ngày lễ này như ngày
quốc khánh, khắp nơi trong cả nước tưng
bừng treo cờ, kết hoa và chăng đèn tương
tự như Lễ Noel tại các nước Ki Tô Giáo Tây
Phương.
c. Lễ
Mừng Muhammad lên trời (Miraj). Giáo phái Sufis tin rằng Muhammad đã lên
trời cả hồn và xác như Jesus. Lễ Miraj cũng
tương tự như Lễ Thăng Thiên (Ascension)
của Ki Tô Giáo. Cả hai vị giáo chủ nầy
đều được tin rằng đã lên trời
tại Jerussalem. Jesus đã tự mình bay lên trời, còn
Muhammad được thiên thần Gabriel trao cho một con
ngựa thần có cánh (Buraq) chở ông bay về trời.
Giáo phái Sufis Thổ Nhĩ Kỳ thường tổ
chức các cuộc hòa nhạc kích động và các cuộc
khiêu vũ tưng bừng để mừng lễ này.
d. Lễ hội Ashura kích động
hận thù của giáo phái Shiite.- Vào ngày 10 tháng Giêng
năm 680, cháu ngoại của Muhammad là Husayn (con trai
của Ali và Fatima) bị
triều đại Ummayad (theo giáo phái Sunni) sát hại. Giáo
phái Shiite chọn ngày này làm lễ kỷ niệm gọi là
Ashura, tương tự như Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
(Good Friday) của Ki Tô Giáo.
Đây là ngày kỷ niệm mang
đầy kịch tính nhằm gây xúc động tột
độ nơi các tín đồ. Ở khắp nơi
diễn ra những cảnh tượng quân Ummayads hành
hạ Husayn và cuối cùng Husayn bị chém đầu . Các
tín đồ khóc sướt mướt, đồng
thời la hét nguyền rủa quân Ummayads. Buổi lễ
được kết thúc bằng một đám
rước khổng lồ với chiếc đầu
giả của Husayn. Lễ Hội Ashura gây xúc động
nhiều nhất là ở Iran và Ấn Độ (New Delhi).
Iraq có 60% tín đồ theo giáo phái Shiite nhưng bị Saddam
Hussein theo giáo phái Sunni đàn áp. Từ 1979, chế
độ Saddam đã sát hại nhiều trăm ngàn tín
đồ Shiite cực đoan theo báo cáo của Ủy Ban
Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Houston Chronicle, Sunday May
18-2003, page 23A).