Các Hoạt Động Chính Trị
Quân Sự và Tâm Lý Chiến
của “Đạo
Quân Thứ Năm Công Giáo” nhằm yểm trợ thực dân Pháp trở
lại tái chiếm thuộc địa Đông-Dương
(1947-1954)
Charlie Nguyễn
I. Hoạt
động chính trị quân sự của Công Giáo miền Nam Việt Nam.
(a)
Tiểu
sử đại tá Jean
LeRoy :
Ông là nhân vật chủ yếu
trong các hoạt động của Công Giáo miền Nam
trong giai đoạn lịch sử 1947-54. LeRoy sinh năm
1920 tại xã Bình Đại, tỉnh Bến Tre, gia nhập
trường sĩ quan Tông (Sơn Tây) và ra trường với
cấp chuẩn úy năm 1940. Năm 1943, y được cử
làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lính Raddhé ở
Thủ Đầu Một. Cuối năm 1945, LeRoy cùng với
quân đội Pháp tái chiếm Saigon; kế đến y thành
lập những đơn vị partisans (biệt động
quân) đánh chiếm Mỹ Tho, Cái Răng, Bình Thủy, Cái Vồn,
Phụng Hiệp và nhiều quận lỵ Nam Kỳ. Năm
1950, chính phủ Nguyễn Văn Thinh cử y làm tỉnh trưởng
Bến Tre
.
(b)
Lực
lượng võ trang UMDC (Các đơn vị lưu động
bảo vệ tín đồ KiTô Giáo) : Vào tháng 7-1947, Tư Lệnh Quân Đội
Pháp tại Đông Dương là tướng De Latour cho phép
Jean LeRoy thành lập 3 Chiến Đoàn Lưu Động Công
Giáo để bảo vệ Bến Tre. Lực lượng
võ trang này mang tên “Unités Mobiles de Défense des Chrétiens”, viết tắt
là UMDC, do LeRoy làm Thanh Tra với cấp bậc đại úy.
Năm 1948, lực lượng võ trang này đổi thành “Tiểu
Đoàn Phụ Lực Quân” (Forces Suppletifs) thuộc quân
đội viễn chinh Pháp do LeRoy chỉ huy với cấp
bậc Trung Tá. Năm 1950, Leroy
được thăng cấp Đại Tá.
Điều khôi hài là đạo
quân của LeRoy được tổ chức giống như
một doàn “Thập Tự Quân” (the Crusade): Phù hiệu và quân
kỳ của UMDC là hình Thập Giá mầu xanh lơ (blue) trên
nền cờ vàng có thêu 4 chữ La Tinh “PRO DEO ET PATRIA” (Vì Chúa
và Tổ Quốc). Khẩu hiệu “Vì Chúa” có thể chấp
nhận được vì mục tiêu của đạo quân
này là “bảo vệ Đạo”; nhưng khẩu hiệu “vì
Tổ Quốc” thì cần phải đặt vấn đề:
LeRoy là một sĩ quan Pháp, UMDC lúc này đã trở thành một
lực lượng phụ lực của quân đội viễn
chinh Pháp. Như vậy, khẩu hiệu “Vì Tổ
Quốc” phải được hiểu là “Tổ Quốc
Pháp” chứ không phải là “Tổ Quốc Việt Nam”.
Trong mấy năm kế
tiếp, UMDC được tổ chức thành 88 đơn
vị, mỗi đơn vỉ có 71 người (60 binh sĩ,
1 sĩ quan, 1 thượng sĩ, 3 trung sĩ và 6 hạ sĩ). Tổng số quân gồm
có khoảng 6,200 người. Đoàn quân này mở các
cuộc hành quân từ Saigon - Chợ Lớn
đến Biên Hòa, Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Long
Xuyên, Sóc Trang, Bạc Liêu, Trà Vinh, ....
(c)
Đảng
“Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Việt Nam”
: Sau khi Vatican lên tiếng kết
án chủ nghĩa Cộng Sản, tòa ổng Giám Mục
Saigon tích cực ủng hộ LeRoy và một số nhân sĩ
Công Giáo như Jean Baptist Đôn và Huỳnh Công Hậu đứng
ra lập “Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo”. Mục tiêu của
đảng này là bảo vệ Đạo, ủng hộ Bảo
Đại nắm chính quyền và thiết lập chế độ
quân chủ lập hiến, ủng hộ giải pháp Việt
Nam gồm có 3 kỳ phân lập và Nam Kỳ tự trị. Năm 1952, lực lượng
UMDC bị sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Từ 1954, LeRoy định cư tại Pháp và không bao giờ
trở lại Việt Nam
nữa.
II.
Hoạt
động chính trị quân sự của Công Giáo miền Bắc
Việt Nam.
1. Phong Trào Quốc Gia Tự
Vệ
:
Phát Diệm
là tên của một làng Công Giáo thuộc huyện Kim Sơn,
tỉnh Ninh Bình. Bùi Chu là tên một xã Công Giáo thuộc
huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Từ
1945, Phát Diệm thành trụ sở Tòa Giám Mục Phát Diệm
dưới quyền cai quản của giám mục Lê Hữu
Từ. Từ 1950, Bùi Chu thành
Tòa Giám Mục địa phận Bùi Chu dưới quyền
của giám mục Phạm Ngọc Chi.
Sau khi Nhật đảo
chánh năm 1945, linh mục Hoàng Quỳnh, lúc đó là Tổng
Tuyên Úy đoàn thanh niên Công Giáo Phát Diệm, đã lập chiến
khu tại Chi Nê và võ trang Đoàn Thanh Niên Công Giáo thành Lực
Lượng Tự Vệ.
Đêm 20-8-1945, Hoàng Quỳnh
mang quân từ chiến khu Chi Nê về cướp chính quyền
tại huyện Kim Sơn, Yên Khánh, Nho Quan và Thường Tín.
Năm 1949, quân Pháp chiếm
Bùi Chu và Phát Diệm, Lực Lượng Tự Vệ Công
Giáo đổi tên thành “Phong Trào Quốc Gia Tự Vệ” liên
lạc trực tiếp với quốc trưởng Bảo
Đại.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt
Nam :
được thành lập do nghị
định của Bộ Trưởng Nội Vụ Huỳnh
Thúc Kháng, thuộc Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến
cho phép. Liên Đoàn Công Giáo
có mục đích tập họp tất cả các hội
đoàn Công giáo thành một khối chặt chẽ để
bảo vệ quyền lợi của giáo hội, gây tình
thân thiện giữa đồng bào Lương-Giáo,
v.v... Đây là một tổ chức hữu danh vô thực.
3.
Khu an toàn của nhữngh người “quốc gia”
: Giám mục Lê Hữu Từ được
chủ tịch Hồ Chí Minh cho giữ
chức “Cố Vấn Tối Cao” trong Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Lợi
dụng chức vụ này, giám mục Lê Hữu Từ
đã tránh cho Phát Diêm không bị “tiêu thổ kháng chiến” và tản
cư. Ngoài ra, vào tháng 9-1947, chính phủ Hồ Chí Minh đã
cử một phái đoàn về Phát Diệm để trao
cho “cố vấn tối cao” Lê Hữu Từ một văn
thư trong có đoạn như sau : “ ... Tôi muốn san sẻ một phần trách nhiệm
bằng cách nhường hẳn quyền cai
trị toàn quận Kim Sơn gồm 40 xã ấp (trong đó
có 32 giáo xứ) với khoảng 150,000 dân. Các cơ quan hành
chánh và quân sự của chính quyền sẽ rút đi hết
để Cố Vấn toàn quyền tổ chức....”.
Từ đó xuất hiện
“Khu An Toàn Phát Diệm”. Các cán bộ chính quyền phải
rút ra hết và không được phép xâm nhập trở lại.
Phát Diệm trở thành “Đất Thánh” an toàn cho 60,000 người
tỵ nạn từ các nơi đổ về, hầu hất
đều là những thành phần đảng phái chồng
Cộng, các người hoạt động chính trị bị
Việt Minh truy nã, trong số đó có vợ chồng Trần
Văn Chương, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm.
4,
Lực Lượng
Tự Vệ Công Giáo Bùi
Chu –
Phát Diệm trở thành phụ lực quân cho quân đội Pháp :
Bùi Chu
– Phát Diệm là khu tự trị trực thuộc quốc
trưởng Bảo Đại. Sĩ quan Pháp không có quyền
ra lệnh cho quân nhân Việt Nam.
Tuy nhiên, giữa quân
đội Pháp và lực lượng Tự Vệ Công Giáo
có một qui ước về hệ thống đóng quân
theo hình Tam Giác: một đồn binh Pháp đóng ở giữa,
thì có 3 đồn Tự Vệ Công Giáo đóng ở 3 góc, với
đường kính 10 km.
Quân đội
Pháp có nhiệm vụ bao bọc che chở cho các đồn
Tự Vệ Công Giáo bằng các loại vũ khí nặng.
Trước khi hành quân, quân đội Pháp phải
mở những cuộc tảo thanh mở đường.
III.
Hoạt
động chiến tranh tâm lý hiểm độc của các
giám mục Việt-Pháp họp tại Hà Nội ngày 9-11-1951
Từ năm
1948, thực dân Pháp bị quân kháng chiến Việt Nam đánh
trả rất ác liệt trên khắp các mặt trận khiến
cho chúng lâm vào tình trạng lúng túng và lo sợ. Các giáo dân hoang mang chỉ
sợ Pháp thua bỏ chạy thì họ sẽ bị bỏ
lại và lâm vào tình trạng nguy hiểm vì sẽ bị “Việt
Minh trả thù” !
Vào cuối năm 1951, tình
trạng Công Giáo Việt Nam thật bi đát vì “sự hỗn
loạn xao xuyến đang đè nặng trên tâm hồn giáo
dân” nên các giám mục (9 Pháp, 5 Việt) thuộc các hội
Truyền Giáo tại Việt Nam, đã họp tại Hà Nội
để soạn thảo và công bố Thư Chung của các Giám Mục họp tại Hà Nội
ngày 9-11-1951 (bản
chánh bằng tiếng Pháp).
Phân tích bức thư chung này, chúng ta sẽ thấy các giám mục
đã đưa ra những đón tâm lý chiến rất thâm
hiểm. Họ thừa biết cuộc tái chiếm thuộc
địa của thực dân Pháp là không có chính nghĩa, nên
sẽ bị mọi người Việt Nam yêu nước,
dù là Cộng Sản hay không Cộng Sản, chống trả
mãnh liệt. Do đó, họ
khôn khéo lái “tình yêu Tổ Quốc” theo một
hướng khác. Các giám mục lý luận: “Ý niệm Ki Tô Giáo về Tổ Quốc không loại trừ
những quốc gia khác mà chúng ta cũng phải yêu mến
bởi vì tất cả chúng ta đều là con của cùng một
Chúa. (La notion chrétienne de Patrie
n’exclut pas les autres nations que nous devons aimer aussi par ce que nous sommes tous fils du même Dieu). Điều
này có nghĩa rằng: “các giáo dân Việt Nam
cũng phải yêu nước Pháp và người Pháp vì họ
và ta đều là con một Chúa !”
Đa số các giáo dân quê
mùa đã nghe theo những lời nói trên của các giám mục,
vì là
“những anh em con cùng một Chúa” (fils du même Dieu) . Mỗi khi bọn lính Pháp bị
tử trận, các xác chết được họ coi bọn giặc Pháp đồng đạo đưa vào
nhà thờ để cho cha xứ “làm phép xác” và làm lễ
cầu hồn cho chúng. Mấy bà già thấy bọn
lính Pháp chết đã tỏ ra thương xót, có người
còn lấy tràng hạt của họ đeo vào cổ xác lính
tây.
Trái lại,
sau mỗi lần hành quân tại mấy làng lân cận, bọn
lính tự vệ Công giáo bắt những người lương
mà chúng nghi là “Việt Minh”. Bọn chúng trói
những ngưòi đó và giải lên đồn Tây. Khi
tiếp nhận những người này, bọn lính Pháp có
thói quen dùng báng súng đập thằng vào ngực vào mặt
các nạn nhân khiến cho họ vung máu tung
tóe. Bọn lính tự vệ Công giáo không hề cảm thấy
thương xót đồng bào mình, trái lại dù cho chúng bắn
giết họ chăng nữa, chúng cũng không hề hối
hận, vì chúng đã nghe theo bọn giám mục coi những
người kháng chiến là “Cộng Sản vô thần”, là
“con cái ma qủi” hoặc “kẻ thù của Thiên Chúa” (des enemis
de Dieu). Giết “Cộng Sản Vô Thần”, cũng như
giết “con cái ma qủi” hoặc “kẻ thù của Thiên Chúa”
chẳng khác nào giết một con rắn độc, chẳng
những không có tội mà còn có công trước mặt Chúa và
giáo hội nữa ! Do đó, bọn vệ sĩ Công giáo
tha hồ giết người và gây tội ác mà không phải
ăn năn hối hận gì cả !
Bọn giám
mục không có một lý luận chính đáng nào để có
thể biện minh cho sự có mặt của những đoàn
quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam.
Bọn Pháp trở lại Việt Nam chỉ
có một mục tiêu duy nhất là tái chiếm thuộc địa
Đông Dương mà chúng đã bị mất sau 1945.
Trong thư chung ngày 9-11-51, các giám mục không hề đả
động tới vấn đề xung đột Pháp-Việt
mà chỉ đề cập đến vấn đề
xung đột giữa giáo hội Công giáo và Cộng Sản:
giáo hoàng Pio XII đã tuyên bố: Không một ai có thể cùng
một lúc vừa là Công giáo vừa là Cộng sản. Người Công giáo gia nhập đảng Cộng
Sản là phản bội giáo hội. Các giáo dân đều
bị cấm không được theo Cộng
Sản, và không được làm bất cứ điều
gì có thể giúp Cộng sản lên nắm chính quyền...
Bọn giám mục nói quá
nhiều về Cộng Sản làm cho giáo dân Việt Nam
quên mất hành động quân Pháp trở lại xâm lăng
Việt Nam
và do đó họ quên mất nghĩa vụ của người
công dân là kháng chiến chống Pháp để cứu nước !
Cuối cùng, các giám mục
hô hào giáo dân hãy “kháng chiến” , nhưng không phải là kháng
chiến chống Pháp mà là “kháng chiến chống Cộng Sản”
và “trung thành với Chúa” (Alors résistez, très cher frères, soyez fidèles
à notre Dieu).
Thư chung
của các giám mục viết tại Hà Nội ngày 9-11-1951 (nguyên văn bằng
tiếng Pháp) được tất cả các linh mục
thuộc các giáo xứ trên toàn quốc Việt Nam
đọc tại nhà thờ và được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong các bài giảng để
phổ biến đến toàn thể giáo dân Việt Nam.
Đây chỉ là một trong nhiều bằng chứng cụ
thể vể hoạt động chiến tranh tâm lý của
hàng ngũ giám mục Việt cũng như
Pháp.
Cũng xin nói ở đây
là “Hội Đồng Giám Mục Việt Nam”
(HĐGMVN) hiện nay đã được thành lập do sắc
chỉ ngày 24-11-1960
của giáo hoàng Gioan XXIII. Thư
chung ngày 9-11-1951 nói trên đây
không phải là sản phẩm của HĐGMVN mà là của
14 giám mục (9 Pháp, 5 Việt) thuộc các Hội Truyền
Giáo tại Việt Nam. (Les ordinaires des
Missions du Vietnam).
Mặc dù danh xưng có
khác, nhưng bản chất đầu óc nô lệ và truyền
thống bán nước của bọn giám mục trẻ hiện
nay so với bọn giám mục già xưa kia (Nguyễn Bá
Tòng, Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc
Chi, Hoàng Văn Đoàn, Trịnh Như Khuê) chắc chắn
chẳng có gì khác nhau. Muốn
vô hiệu hóa sự tác hại của đạo quân thứ
năm Công giáo, tôi thiết nghĩ việc tiên quyết là phải
giải tán HĐGMVN. HĐGMVN
là cơ quan chỉ huy tối cao của giáo hội Công giáo
Việt Nam
(chiếm 7 – 8% dân số) . Chính quyền
cần phải chú ý theo dõi nội dung các Thư Luân Lưu
hoặc Thông Cáo của HĐGM, bởi vì các thư này thường
có tác dụng rất lớn về tâm lý đối với
toàn khối 7 triệu giáo dân, và do đó sẽ có tác dụng
đối với vận mệnh của Tổ Quốc.
Charlie Nguyễn
5/2004
Dưới đây là nguyên bản Thư Chung bằng
tiếng Pháp và bản dịch Việt ngữ của Guse
Phạm Hữu
Tạo
:
Lettre Commune Des Ordinaires Réunis A Hanoi
(texte
original en francais)
9 novembre 1951
Nos bien chèrs frères,
Les ordinaires des Missions du Vietnam réunis à Hanoi
sous la présidence de son Excellence Monseîgneur le Délégué apostolique, ont
jugé qu'il est de leur devoir de coordonner leurs efforts en vue de coopérer
plus efficatement à l'oeuvre de pacification des coeurs et restauration
chrétienne qui s'impose à l'heure actuelle.
Les Êvêques du Viêtnam, émus de la confusion qui règne
dans les esprits, croient de leur devoir de préciser la notion de la Patrie. Le
Patriotisme, c'est l'amour de la Patrie, et la Patrie
étymologiquement, c'est la terre des ancêtres. La Patrie, c'est donc une
extension de la famille, l'une comme l'autre se rattachent à la vertu de piété,
et par conséquent nous ne pouvons que l'encourager et le développer au même
titre que les autres vertus chrétiennes. La notion chrétienne de Patrie
n'exclut pas les autres nations que nous devons aimer
aussi parce que nous sommes tous fils du même Dieu.
Animé par le sentiment de notre grave responsabilité devant
Dieu et d'une grande affection pour vous tous, nos très chers frères, nous
estimons qu'il est de notre devoir de vous mettre en garde contre le très grand
danger du communisme athée, qui est le plus grand danger existant de nos jours.
Le communisme est la négation de Dieu, la négation de
toute religion, la négation de l'existence d'une âme immortelle, la négation
des droits de la personne humaine et de la famille. Il
y a la plus entière opposition entre l’Église Catholique et le communisme à tel
point que notre Saint Père le pape a déclaré qu'il est absolument impossible
d'être à la fois communiste et catholique et que tout catholique qui adhère au
parti communiste est par le fait même séparé de L’Église. Non seulement, il vous est interdit d'adhérer au Parti Communiste, mais
vous ne pouvez pas coopérer avec lui ou faire quoi que ce soit qui puisse de
quelque facon amener le Parti Communiste au pouvoir.
Le danger est si grave et les conséquences possibles si
terribles que nous nous sentons obligés de vous mettre en garde aussi contre
les détours et les ruses employés par les communistes pour tromper le peuple,
ruses qui ne servent que les seules fins des communistes.
En premier lieu, ils font preuve
d'un grand zèle pour les réformes sociales et mettent en avant leur doctrine
comme un remède aux maux sociaux de nos jours. Ils se
cachent aussi sous le masque du patriotisme et cherchent par leur prétendu zèle
pour le bien être de leurs compatriotes à rallier le peuple sous leur bannière.
Mais ce ne sont là que des moyens pour atteindre leurs
fins inavoués et une fois au pouvoir, ils installent une dictature impitoyable.
Ce ne sont plus les intérêts des pauvres et des
ouvriers, ni les intérêts de la Patrie qui comptent, ce sont uniquement les
intérêts du communisme. Ainsi dans les pays sous le joug communiste, règnent la
suppression de tout les biens et la persécution des milliers de nos frères
catholiques, ces derniers vivent dans la terreur, ils dépérissent en prison,
payant même de leur sang leur fidélité à la foi.
Alors résistez, très chers frères, ne
vous laissez pas tromper, soyez fidèles à notre Dieu. Veuillez,
soyez vigilants, restez ferme dans la foi.
Et vous, chers prêtres,
enseignez la doctrine sociale de l'Église, instruisez les peuples des vertus chrétiennes
de charité et de justice. Prêtres et fidèles, vivez
intensément votre vie chrétienne selon les maximes de L'Évangile. La charité
des premiers chrétiens a amené la conversion du monde: la charité, c'est à dire
supporter son prochain, lui pardonner, lui vouloir et
réellement lui faire du bien. L'amour du Christ a vaincu la
haine, votre charité vaincra la haine des enemis de Dieu. Que voire voie
soit toujours un témoignage pour Dieu, le Christ et
l’Église.
Pour conclure, nous vous répétons encore avec
saint Paul: “Veillez, restez ferme
dans la foi, soyez vigilants, soyez forts, tout ce que vous faites, faites-le
dans la charité” (I Cor. XVI, 13-14).
Nous demandons à nos prêtres de lire la présente lettre
dans les Églises et leurs Oratoires. A tous, prêtres et fidèles, nous donnons de tout coeur notre bénédiction
paternelle. Grace et paix vous soit données de la part
de Dieu, notre Père, et du Signeur Jésus Christ.
Hanoi, le 9 novembre 1951
- John Dooley, Délégué apostolique en Indochine.
- Jean Baptiste Chaballier, Vicaire
apostolique de Phnom-Penh.
- Pierre
Ngô Đình Thục, Vicaire apostolique de Vĩnh Long.
- Jean Cassaigne (Sanh) - de Saigon.
- Marcel Piquet (Lợi) - de Qui Nhơn.
- Jean Marie Maze (Kim) - de Hưng Hóa.
- Anselme
Tadée Lê Hữu Từ - de Phát Diêm.
- Jean Baptiste Urritia - de Huế.
-
Pierre
Marie Phạm Ngọc Chi - de Bùi Chu.
- Domonique
Hoàng Văn Đoàn - de Bắc Ninh.
-
Joseph Maide Trịnh Như Khuê - de Hanoi.
- Fr. Félice Pérez (Hiên) - Provicaire apostolique de
Haiphong.
- Bernard Illomera (Yên) - Provocaim
apostoloque de Thái Bình.
- Paul Renaud (Ái) - Provicaire
apostolique de Kontum.
Thư
Chung Của Các Giám Mục Công Giáo La Mã Họp tại Hà Nội
ngày 9 tháng
11 năm 1951
(bản dịch của Guse Phạm Hữu Tạo)
Anh em thân mến,
Chúng tôi, những
giám mục của Hội Truyền Giáo tại Việt Nam họp
tại Hanoi, dưới quyền chủ tọa của Đức
Ông Khâm Mạng Tòa Thánh, đã thấy bổn phận của
chúng tôi là phải kết hợp những nỗ lực để
công tác hữu hiệu trong sự mưu tìm an bình cho lòng người
và phục hoạt đạo Chúa hiện nay.
Là những giám
mục tại Việt Nam, xao xuyến trước sự hỗn
loạn đang đè nặng trên tâm hồn giáo dân, nghĩ
rằng bổn phận của chúng tôi là phải xác định
rõ ràng ý niệm Tổ Quốc! Ái quốc là tình yêu dành cho Tổ
quốc, tổ quốc theo ngữ học
là mảnh đất của tổ tiên. Vì vậy, tổ quốc
chính là sự nối tiếp của gia đình, cả hai ràng
buộc với nhau trong sự sùng kính, nên chúng tôi phải
khuyến khích sự phát triển ngang nhau với những lẽ
đạo khác. Ý niệm của đạo về Tổ Quốc
không hề bỏ ra ngoài các quốc gia khác mà chúng ta phải
yêu mến vì thất cả chúng ta đều là con cái Chúa!
Tác động
bởi trách nhiệm nặng nề của chúng tôi trước
Chúa và với một tình yêu lớn dành cho anh em, chúng tôi thấy
cần phải nhắc nhở các anh em hãy cảnh giác trước
hiểm họa Cộng sản vô thần là một hiểm
họa lớn nhất trong thời đại chúng ta, Cộng
sản chối bỏ Chúa, chối bỏ tín ngưỡng,
chối bỏ linh hồn bất diệt, chối bỏ nhân
quyền và gia đình. Lại còn có sự chống đối
toàn diện ác liệt giữa Cộng sản và giáo hội,
đến nỗi đức thánh Cha đã phải tuyên bố
quyết liệt rằng không thể nào có thể vừa là
Công giáo vừa là Cộng sản. Và người Công giáo khi
gia nhập đảng Cộng sản, bằng hành vi ấy đã xa lìa giáo hội. Không những
anh em bị cấm không được gia nhập đảng
Cộng sản, mà anh em còn không được cộng tác để
làm bất cứ điều gì để có thể đưa
đảng ấy lên cầm quyền. Hiểm họa quá lớn
và những hậu qủa rất ghê sợ, nên chúng tôi cũng
buộc lòng phải cảnh giác anh em trước những
lèo lái hay xảo thuật Cộng sản đã dùng để
lừa bịp dân chúng chỉ nhằm chiếm đoạt được
mục tiêu của họ.
Trước hết,
họ đã chứng tỏ có nhiều nhiệt tình để
cải cách xã hội và đề ra lý thuyết như là phương
thuốc chữa trị những tệ đoan xã hội. Họ không che dấu mặt nạ yêu nước
và cũng tìm cách đặt ra sự nhiệt tình làm như
lo cho hạnh phúc đồng bào để quy tụ dân chúng
dưới mầu cờ của họ. Nhưng đó
chỉ là những phương tiện nhắm đạt
tới những mục tiêu không tưởng của họ
và khi cầm quyền rồi, họ áp đặt một nền
độc tài tàn nhẫn. Không còn nữa những phúc lợi
của người nghèo hay của giới công nhân lao động, cũng chẳng còn quyền lợi
gì của tổ quốc nữa, mà chỉ còn quyền lợi
của Cộng sản thôi. Bởi vậy, ngự trị
trong các nước Cộng sản là sự tước bỏ
mọi phúc lợi và sự đàn áp hàng ngàn anh em Công giáo, những
người này phải sống trong sợ hãi, chết rũ trong tù ngục, phải đổ máu ra
để bảo vệ đức tin.
Vậy xin anh
em hãy chống cự, đừng bị mắc lừa, hãy
trung thành với Chúa! Xin hãy thức tỉnh và
sống mạnh bằng đức tin. Và qúy vị, những
linh mục, hãy giảng dậy học thuyết xã hội Công
giáo, dậy cho giáo dân những đức tính Công giáo về
bác ái và công bình. Linh mục và giáo dân hãy sống đạo theo đúng với những lời dậy
trong Thánh kinh. Đức bác ái của những
người Công giáo đầu tiên là hoán cải thế giới.
Đức bác ái là giúp đỡ đồng loại, tha thứ
cho họ và thực sự làm những điều tốt cho
họ. Tình yêu của đấng Ki-tô đã thắng
hận thù, tình yêu của anh em cũng sẽ thắng kẻ
thù của Chúa. Ước gì con đường anh em đi
là sự làm chứng cho Chúa, đấng Cứu Thế và Giáo
hội.
Để
kết thúc, chúng tôi xin nhắc lại với anh em lời nói
của thánh Phao-lồ:”Xin hãy vững mạnh trong đức
tin, hãy thức tỉnh và hãy mạnh dạn trong mọi việc
của anh em làm trong tình bác ái!”
Chúng tôi xin các
linh mục đọc thư này trong các
nhà thờ và nhắc nhở trong bài giảng. Với các linh
mục và các anh em, chúng tôi ban phép
lành thần phụ của chúng tôi. Xin Chúa Trời là Cha của
chúng ta, và đấng KiTô ban ơn sủng và sự bình an cho các anh em.
Hanoi, ngày 9-11-1951
ký tên : 14 giám mục (9 gốc
Pháp, 5 gốc Việt)