Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán
Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com
9. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”
Arius “đảo chánh Ngôi Hai”
Năm 321, Linh mục Arius khởi xướng học thuyết mới, đẩy Kitô giáo vào cuộc khủng hoảng nặng nề. Cuộc tranh biện về “Thiên Tính của Giêsu” giữa Arius và các giáo phụ Rôma đã khiến nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù đày.
Giáo thuyết của Arius khởi đi từ việc thừa nhận một Thiên Chúa duy nhất, tự hữu. Nhưng Thiên Chúa của Arius không thể thông đồng bản tính của mình cho ai kể cả Giêsu. Arius mượn một câu trong phúc âm của Gioan “Cha ta cao trọng hơn ta…” (Ga 14:28) để chứng minh rằng: Giêsu không phải là Thiên Chúa, không cao trọng, ngang bằng Thiên Chúa, không đồng bản tánh với Thiên Chúa. Giêsu chỉ là người được Thiên Chúa chọn làm con, làm nhiệm vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Học thuyết của Arius được nhiều Giám mục và tín đồ ở các giáo hội Đông phương hưởng ứng. Để vấn đề được rõ ràng, Công đồng Alexanđria được triệu tập có khoảng 100 Giám mục tham dự trong đó có cả Arius. Kết quả Công đồng phi bác học thuyết và kết án Arius phải đi đày. Nhưng Arius được sự hậu thuẫn của Giám mục Eusebiô, từ đó cuộc “chiến tranh tín lý” ngày càng dữ dội hơn. Constantine là một kẻ “hộ giáo” đầy quyền lực của giáo hội Rôma. Ông quyết định triệu tập một đại Công đồng tổ chức tại Nikêa. Công đồng Nikêa bắt đầu làm việc từ ngày 20/5/325 dưới sự chủ trì của chính hoàng đế La Mã Constantine. Một văn kiện được đưa ra buộc mọi người phải tin và ký nhận: Nội dung văn kiện được tóm tắt vài điểm chính như sau :
Năm 337, hoàng đế Constantine băng hà, quyền lực đế quốc thuộc về hai người con: Constant và Constanciô. Năm 350, Constant băng hà, Constanciô nắm trọn quyền điều hành đế quốc. Năm 351 Constanciô triệu tập Công đồng Sirmium đưa ra một văn kiện mới: “Tin một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng và con một Người, Chúa Giêsu Kitô sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, bởi người mà mọi vật được tạo thành…” Nhưng lần này thì chính những người có uy tín nhất của giáo hội Rôma là Giám mục Athanasiô và Giáo hoàng Liberiô không ký văn kiện. Những người chống lại công đồng đều phải bị tù đày kể cả Giáo hoàng Liberiô.
Công đồng Sirmium II (357) lại đưa ra một văn kiện nhằm hạ thấp vai trò của Giêsu: “… Chúa Cha cao trọng hơn chúa con, người vượt lên trên chúa con về danh vọng, quyền bính, vinh quang và cả danh hiệu làm cha của người…” Công đồng này hoàn toàn phủ nhận sự “đồng bản tính” giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Nhưng công đồng Sirmium III lại công bố: “Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha…”
Nestorius “phẩu thuật Ngôi Hai”
Nestorius(380-440), Giáo chủ Constantinopoli chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua Thiên Tính trong con người của Giêsu. Với chủ trương như vậy, Nestorius đã đưa lên bàn mổ “phẩu thuật” Ngôi Hai Thiên Chúa của Công giáo “Ngôi Lời” và “Giêsu” ra làm hai mảnh riêng biệt. Từ đó đi đến một hệ luận: Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Hoàng đế La Mã lúc đó là Theođosiô II triệu tập Công đồng Ephesô. Ngày 22/6/431, cách chức và tuyên án Nestorius đồng thời khẳng định: Maria chính là mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Chính tại công đồng này là nơi khai sinh ra kinh Kính Mừng: “…Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử…” Công đồng Ephesô kết thúc với sự nhìn nhận : “Giêsu có hai bản tính. Đồng bản tính với Đức Chúa Cha về Thiên Tính và với loài người về Nhân Tính…” Điều trớ trêu là sự nhìn nhận còn nóng hổi chưa kịp nguội thì một giáo thuyết mới xuất hiện: Phủ nhận Nhân Tính, Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất, tức Thiên Tính. Tác giả của giáo thuyết mới này là Eutikê (378-454). Giáo thuyết này được sự ủng hộ của Đioscorô, Giáo chủ Alexanđria. Nhưng điều lạ là khi Eutikê bị Giáo Hoàng Leô (440-461) tuyên án thì chính Hoàng đế Lamã Theođosiô lại bênh vực cho Eutikê. Một công đồng mới lại được triệu tập. Một đội vệ binh tinh nhuệ được điều đến làm nhiệm vụ. Giáo chủ Dioscorô chủ trì công đồng. Ông lệnh cho binh sĩ bắt hết tất cả các Giám mục chống đối và tuyên bố : “Giết chết ngay những kẻ dám tuyên bố Giêsu có hai bản tính”. Giám mục Flavian là nạn nhân đầu tiên của bi kịch, ông bị đánh chết tại chỗ, về sau ông được giáo hội “phong thánh”.
Về Chúa Thánh Thần cũng thế. Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Năm 381, Hoàng đế Theođosiô (379-395) triệu tập Công đồng Constantinopoli để bổ túc những thiếu sót của Công đồng Nikêa về Chúa Giêsu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô…” đồng thời phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… : “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…” Tất nhiên chỉ có những kẻ “điếc không sợ súng” mới dám chống lại Công đồng!
Thái độ của người Châu Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” - “Ngôi Vị”
Người Châu Á phi Kitô giáo ngày nay không hiểu Thiên Chúa của Công giáo La Mã “quan phòng” kiểu gì mà nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù tội, tra tấn, lưu đày chỉ vì họ đã tham gia vào cuộc tranh biện “Đồng Bản Tính” (homoousios), “Ngôi Vị” (hypostasis) của Thiên Chúa!
Công giáo La Mã ngày nay đã kết án những người có chủ trương đi ngược lại tinh thần công đồng Nikêa được đúc kết lại trong kinh Tin Kính là “lạc giáo”. Nhưng đối với người Châu Á phi Kitô giáo, chuyện “lạc” hay “không lạc” là chuyện nội bộ của của các hệ phái Kitô giáo. Người Châu Á phi Kitô giáo chỉ nhìn vấn đề với một thái độ bàng quan để nhận định: “Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, có tính phổ quát cho toàn nhân loại” là cái lõi của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á mà Vatican muốn tất cả các dân tộc Châu Á phải thừa nhận, lại cũng chính là cái lõi gây ra cuộc “chiến tranh tín lý” đã cướp đi bao sinh mạng ngay trong nội bộ giáo hội.
Trước những sự kiện lịch sử không thể phủ nhận, buộc người Châu Á ngày nay phải nghĩ rằng: Giêsu là một con người tội nghiệp bị lợi dụng, là nạn nhân của những thế lực núp bóng tôn giáo. Vì thế, cần phải “Cứu Độ Giêsu”, phải trả lại cho Giêsu những gì ông có và đừng bắt ông phải nhận lấy những gì mà ông không có…
10. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
Nhiều học giả nghiên cứu Kitô giáo cho rằng “Chúa Thánh Thần” chẳng qua là sản phẩm của công đồng Nikêa. Theo các nhà nghiên cứu, cái mà ngày nay Kitô giáo gọi là “Chúa Thánh Thần” không hề có trong thời Giêsu và các tông đồ. Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế Ký mô tả “Thần Khí” bay là là trên mặt nước (St 1,2) … làm ta hình dung đến một hiện tượng vật lý rất tự nhiên mà ngày nay khoa vât lý học gọi là sự bay hơi (bốc hơi), chúng tạo nên một màn sương mờ mờ ảo ảo… Sự nhân cách hóa một hiện tượng tự nhiên thành một vị thần như: thần sông, thần biển, thần gió, thần núi v.v… là sinh hoạt tín ngưỡng thời sơ khai của con người trong xã hội nguyên thủy. “Thần Khí” của con người thời sơ khai trong Cựu Ước cũng không ngoại lệ.
Trong Tân Ước, “Thần Khí” còn được biết đến dưới một tên khác: “Thánh Linh” (Holy Ghost, Holy Spirit) được biểu thị bằng một con “chim bồ câu” (xuất hiện khi Giêsu chịu phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên sông Giôđan), hoặc biểu tượng “đốm lửa” (xuất hiện trên đầu các tông đồ khi các ông đang hội họp trong nhà Tiệc Ly). Có học giả cho rằng: “chim bồ câu” hoặc “đốm lửa” là vết tích của tín ngưỡng Tôtem, bái vật trong thời kỳ tiền Kitô giáo…
Dấu ấn của Tôtem giáo
Tôtem giáo là một hình thức tín ngưỡng quan trọng vào bậc nhất của xã hội nguyên thủy. Khoa khảo cổ học đã chỉ ra ý nghĩa của những bức tranh khắc trên vách đá được tìm thấy trong các hang động thời kỳ đồ đá, mô tả lễ hội tín ngưỡng Tôtem. Nét độc đáo của lễ hội này là ăn thịt Tôtem (vật tổ) sau khi đã thực hiện nghi thức cúng bái Tôtem. Người nguyên thủy tin rằng: ăn thịt vật tổ là cách để vật tổ có thể tồn tại mãi trong mỗi con người. “Ăn” không phải để giải quyết “vấn đề bao tử” mà ăn trong một trạng thái tâm linh hưng phấn, một nghi thức vô cùng thiêng liêng. Nghi thức ăn thịt Tôtem (vật tổ) mang một ý nghĩa triết lý sâu xa trong tâm thức người nguyên thủy. Thông qua nghi thức ăn vật tổ mà con người thực hiện việc chuyển hóa quan hệ huyết thống họ hàng sang quan hệ thiêng liêng với Tôtem, vật tổ. Niềm tin vào sự hóa thân của vật tổ vào tất cả mọi thành viên trong cộng đồng đã khiến cho người ta tin rằng: Khi một phụ nữ mang thai thì chính Tôtem đã tạo ra cái thai đó…
Dấu ấn của Tôtem giáo còn khá rõ nét trong Kitô giáo nguyên thủy. Chim bồ câu chính là Tôtem vật tổ, Khi Maria mang thai thì chính Tôtem đã “phủ” lên bà. Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cũng có nghĩa là bởi Tôtem vật tổ, tức chim bồ câu… Nghi thức “ăn thịt vật tổ” trong tín ngưỡng Tôtem cũng lại được tìm thấy trong “Bí tích Thánh Thể” của Kitô giáo. Trước ngày “chịu nạn”, Giêsu họp các môn đồ lại, cầm bánh bẻ ra và chia cho các môn đồ nói: “Đây là thịt ta, các con hãy ăn…”. Sau đó ông lấy rượu và chia cho môn đồ rồi nói: “Đây là máu ta các con hãy uống…” Dù đó chỉ là một nghi thức tượng trưng với bánh và rượu chứ chẳng có “máu thịt” gì cả! Nhưng nó đã minh chứng ảnh hưởng của tín ngưỡng Tôtem trong giáo thuyết Kitô giáo. Tín điều “Ba Ngôi” xác định: Chúa Cha, Chúa Con (tức Giêsu) và Thánh Thần (biểu tượng chim bồ câu) chỉ là một. “Ăn thịt, uống máu” Giêsu cũng có nghĩa là của Chúa Thánh Thần, mà Thánh Thần lại chính là “con chim bồ câu”, tức Tôtem vật tổ…
“Chúa Thánh Thần” Sản phẩm của công đồng Nikêa
Chương ba của Tông huấn nói về “Chúa Thánh Thần”. Đoạn số 15,18 trong chương này viết : “…Chúa Thánh Thần là mặc khải riêng của Tân Ước…”. “Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?), rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai (?),…” (S15,18). Đây là lối nói khoa trương, phóng đại, hoàn toàn không có căn bản từ Thánh Kinh. Thật vậy, nếu trong Cựu ước, “Thần khí” được nhắc đến hơn 300 lần thì trong Tân ước, “Thánh Linh” được nhắc đến rất ít, cụ thể là Gioan nhắc đến 5 lần (Ga 1:32,33 , 3:5,6,8,34 , 7:39, 14:26, 20:22). Matthêu 7 lần(Mt:1:18,20, 3:11,16, 4:1, 10:20, 12:18,28,31,32, 22:43, 28:19).Luca 6 lần (1:15,35,41,67, 2:25,26,27, 3:16,22, 4:1,14,18, 10:21, 11:13). Và ít nhất là Máccô, vỏn vẹn có bốn lần trong toàn bộ Phúc Âm của ông. Lần thứ nhất: lúc Giêsu chịu phép báptêm của Gioan tại sông Giođan (Mc 1:8,10,12). Lần thứ hai: Giêsu trả lời các kinh sư khi họ cho rằng ông bị quỷ ám (Mc 3:29). Lần thứ ba: Đa-vít cảm nhận Đức Thánh Linh (12:36) Lần thứ tư: lúc Giêsu giảng dạy môn đồ (Mc 13:11). Còn “Chúa Thánh Thần” thì hoàn toàn “vắng bóng” cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tất nhiên, người Kitô hữu sẽ nói rằng: “Thần Khí” hay “Thánh Linh” chính là “Chúa Thánh Thần” tức “Ngôi Ba Thiên Chúa”. Nhưng đó chỉ là tín điều của Giáo hội buộc tín đồ phải tin, hoàn toàn không có căn cứ….
Chúa Thánh Thần như người ta hiểu ngày nay là: Đấng thông ban sự sống, Đấng bảo trợ, hướng dẫn, dìu dắt, là ánh sáng, sức mạnh v.v… Vị Chúa này chỉ được biết đến từ công đồng Nikêa. Mãi 300 năm sau, kể từ ngày Giêsu qua đời, Chúa Thánh Thần mới được “sinh ra”, mà lại “sinh ra” trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Người “sinh ra” Chúa Thánh Thần chẳng ai xa lạ, chính là Constantine hoàng đế của đế quốc La Mã. Lịch sử ghi nhận rằng: năm 325 Hội nghị các Giám mục được hoàng đế La Mã là Constantine triệu tập tại Nikêa (Thổ Nhĩ Kỳ) gọi là Công đồng Nikêa-Constantinopoli. Trong công đồng này, người ta đưa ra một số tín điều buộc mọi người phải tin, trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng Trinh v.v… các tín điều trên được tóm tắt trong một văn bản mà ngày nay ta gọi là “kinh Tin Kính”. Chúa Thánh Thần được “khai sinh” từ đó.
Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Có nhiều chứng cứ từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để họ tin như thế. Ngay danh xưng “Thần Khí” cũng đã hàm xúc một cái gì đó được Chúa Cha tạo ra để ban lại cho con người: “Nhờ bởi Thần Khí mà Ngài đã ban cho ta…” (Rm 5:5) v.v… Tất nhiên, quan điểm xem Chúa Thánh Thành là tạo vật bị giáo hội bác bỏ.
Năm 381, Công đồng Constantinopoli được triệu tập bởi Hoàng đế Theođosiô (379-395). Công đồng đã phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… Văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” một lần nữa lại được bổ sung: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…”
“Chúa Thánh Thần” của Vatican ngày nay
Đặc điểm của Chúa Thánh Thần thời đó là: ban ơn, che chở, giữ gìn cho các tín đồ. Ngày nay khoa thần học đã “nâng cấp” Chúa Thánh Thần lên rất nhiều bậc… nào là sáng tạo lịch sử, hoạt động và hướng dẫn lịch sử v.v… Ngài là biểu tượng của sức mạnh và là sự khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, Vatican đã “bắt” Chúa Thánh Thần phải “khôn ngoan” đến mức “tinh quái”. “…Khi ban Thánh Thần Đức Kitô cho Giáo hội, là Chúa cũng đồng thời ban hoa trái sứ mạng cứu độ của Ngài cho mọi dân tộc qua mọi thời đại dựa vào việc Giáo hội công bố tin mừng và yêu thương phục vụ gia đình nhân loại… Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để đóng vai trò của mình trong việc hoàn thành chương trình của chúa”(S17). Dù “khôn ngoan tinh quái” nhưng Chúa Thánh Thần vẫn bị Vatican đánh lừa, xỏ mũi… Đọc đoạn trích dẫn trên ta có thể nhận ra ngay dù Chúa có “ban này, ban nọ…” cho mọi dân tộc qua mọi thời đại, nhưng phải “dựa vào việc giáo hội công bố…”. Nếu không “dựa vào” nghĩa là không được giáo hội “cho phép” thì Chúa muốn ban cũng đành “chào thua..” Nhưng “siêu” nhất là Vatican đã “bắt” Ngài phải “chui tọt” vào trong các tôn giáo như Phật giáo, Ấn giáo, để làm “gián điệp” cho Vatican… “Giáo hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo Á Châu này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn. Giáo hội trong chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta mới tìm được nước hằng sống đem lại sự sống đời đời, hay cụ thể hơn, cho họ hiểu biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai đến…” (S18).
Người đọc vô tư, khách quan, không thiên kiến khi đọc đoạn trích dẫn trên cũng phải tự hỏi: Chúa toàn năng hay Vaticăn toàn năng? Vì 97% dân chúng phi Kitô giáo ở Châu Á chưa hề biết Giêsu là ai! Chúa Thánh Thần là ai? Chúa không thể tự bộc lộ mình trước quần chúng Châu Á mà phải thông qua Vatican, phải được Vatican tạo điều kiện: “Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau…” Đó là chưa nói đến việc quần chúng Châu Á có “cần gặp” hay không.
Tuy nhiên với phong cách vốn có của mình Vatican cứ tiếp tục giọng điệu quen thuộc: “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ…”(S15) “…Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo, đều là sự chuẩn bị cho tin mừng và có thể hiểu đó cũng chỉ là quy chiếu về Đức Kitô…”(S16). Tuy nhiên, để không bị “hố” trước vấn nạn mà người Châu Á phi Kitô giáo có thể đặt ra là: Giải thích thế nào về con số 3% tín đồ Kitô giáo mà nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trong tổng số 3,3 tỷ người trên lục địa Châu Á? Chúa Thánh Thần ở đâu? Ngài đang làm gì? Nếu “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần” trên lục địa này chỉ mang lại một kết quả “quá ư khiêm nhường” như thế liệu Ngài còn được Vatican “tín nhiệm” không? Giáo Hoàng là người khôn ngoan, nên ông có thể đón trước vấn nạn: “Không được vin cớ Chúa Thánh Thần có mặt khắp nơi để bào chữa cho việc không thể công bố Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy nhất và có một không hai…”(S16). Nếu Chúa Thánh Thần nghe được, có lẽ Ngài cũng phải “phì cười” và khen ngợi sự thông minh của Giáo Hoàng…
Quyết tâm của Vatican đã đạt đến cao điểm trong tuyên bố của Giáo Hoàng: “Dù Giáo Hội sung sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật giáo, An Độ giáo và Hồi giáo đều là phản ánh sự thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là giáo hội phải bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức tuyên bố một cách dứt khoát Đức Giêsu Kitô là đường đi, sự thật và sự sống… Thật ra tín đồ trong các tôn giáo ấy vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết mọi người” (S31)
9. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”
Arius “đảo chánh Ngôi Hai”
Năm 321, Linh mục Arius khởi xướng học thuyết mới, đẩy Kitô giáo vào cuộc khủng hoảng nặng nề. Cuộc tranh biện về “Thiên Tính của Giêsu” giữa Arius và các giáo phụ Rôma đã khiến nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù đày.
Giáo thuyết của Arius khởi đi từ việc thừa nhận một Thiên Chúa duy nhất, tự hữu. Nhưng Thiên Chúa của Arius không thể thông đồng bản tính của mình cho ai kể cả Giêsu. Arius mượn một câu trong phúc âm của Gioan “Cha ta cao trọng hơn ta…” (Ga 14:28) để chứng minh rằng: Giêsu không phải là Thiên Chúa, không cao trọng, ngang bằng Thiên Chúa, không đồng bản tánh với Thiên Chúa. Giêsu chỉ là người được Thiên Chúa chọn làm con, làm nhiệm vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Học thuyết của Arius được nhiều Giám mục và tín đồ ở các giáo hội Đông phương hưởng ứng. Để vấn đề được rõ ràng, Công đồng Alexanđria được triệu tập có khoảng 100 Giám mục tham dự trong đó có cả Arius. Kết quả Công đồng phi bác học thuyết và kết án Arius phải đi đày. Nhưng Arius được sự hậu thuẫn của Giám mục Eusebiô, từ đó cuộc “chiến tranh tín lý” ngày càng dữ dội hơn. Constantine là một kẻ “hộ giáo” đầy quyền lực của giáo hội Rôma. Ông quyết định triệu tập một đại Công đồng tổ chức tại Nikêa. Công đồng Nikêa bắt đầu làm việc từ ngày 20/5/325 dưới sự chủ trì của chính hoàng đế La Mã Constantine. Một văn kiện được đưa ra buộc mọi người phải tin và ký nhận: Nội dung văn kiện được tóm tắt vài điểm chính như sau :
“Tin một Thiên Chúa toàn
năng là Cha, ngài là Đấng tạo dựng. Tin Giêsu là con một Thiên Chúa, sinh
bởi Đức Chúa Cha, Giêsu cũng là Thiên Chúa, được sinh ra nhưng không phải
tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, từ trời xuống thế để cứu rỗi con
người… Giáo hội Rôma sẽ tuyên án những ai nói rằng: Giêsu không có từ trước
muôn đời. Trước khi Ngài sinh ra Ngài chưa có. Ngài bởi không hoặc bởi bản
thể khác mà được tạo dựng…”
Với một văn kiện có tính áp đặt như thế nên nhiều người đã không ký, tất
nhiên Arius cũng không ký, ông bị trục xuất khỏi giáo hội và lãnh án lưu đày
đến tận Ba Tư. Có nhiều người ký vào văn kiện chỉ vì sợ bị tù tội. Một số
người đã ký, sau đó xin rút lại chữ ký như Giám mục Eusebiô, Giám mục
Theognis, Giám mục Maris. Cả ba ông này lập tức bị bắt và bị lưu đày. Năm 337, hoàng đế Constantine băng hà, quyền lực đế quốc thuộc về hai người con: Constant và Constanciô. Năm 350, Constant băng hà, Constanciô nắm trọn quyền điều hành đế quốc. Năm 351 Constanciô triệu tập Công đồng Sirmium đưa ra một văn kiện mới: “Tin một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng và con một Người, Chúa Giêsu Kitô sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, bởi người mà mọi vật được tạo thành…” Nhưng lần này thì chính những người có uy tín nhất của giáo hội Rôma là Giám mục Athanasiô và Giáo hoàng Liberiô không ký văn kiện. Những người chống lại công đồng đều phải bị tù đày kể cả Giáo hoàng Liberiô.
Công đồng Sirmium II (357) lại đưa ra một văn kiện nhằm hạ thấp vai trò của Giêsu: “… Chúa Cha cao trọng hơn chúa con, người vượt lên trên chúa con về danh vọng, quyền bính, vinh quang và cả danh hiệu làm cha của người…” Công đồng này hoàn toàn phủ nhận sự “đồng bản tính” giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Nhưng công đồng Sirmium III lại công bố: “Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha…”
Nestorius “phẩu thuật Ngôi Hai”
Nestorius(380-440), Giáo chủ Constantinopoli chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua Thiên Tính trong con người của Giêsu. Với chủ trương như vậy, Nestorius đã đưa lên bàn mổ “phẩu thuật” Ngôi Hai Thiên Chúa của Công giáo “Ngôi Lời” và “Giêsu” ra làm hai mảnh riêng biệt. Từ đó đi đến một hệ luận: Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Hoàng đế La Mã lúc đó là Theođosiô II triệu tập Công đồng Ephesô. Ngày 22/6/431, cách chức và tuyên án Nestorius đồng thời khẳng định: Maria chính là mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Chính tại công đồng này là nơi khai sinh ra kinh Kính Mừng: “…Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử…” Công đồng Ephesô kết thúc với sự nhìn nhận : “Giêsu có hai bản tính. Đồng bản tính với Đức Chúa Cha về Thiên Tính và với loài người về Nhân Tính…” Điều trớ trêu là sự nhìn nhận còn nóng hổi chưa kịp nguội thì một giáo thuyết mới xuất hiện: Phủ nhận Nhân Tính, Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất, tức Thiên Tính. Tác giả của giáo thuyết mới này là Eutikê (378-454). Giáo thuyết này được sự ủng hộ của Đioscorô, Giáo chủ Alexanđria. Nhưng điều lạ là khi Eutikê bị Giáo Hoàng Leô (440-461) tuyên án thì chính Hoàng đế Lamã Theođosiô lại bênh vực cho Eutikê. Một công đồng mới lại được triệu tập. Một đội vệ binh tinh nhuệ được điều đến làm nhiệm vụ. Giáo chủ Dioscorô chủ trì công đồng. Ông lệnh cho binh sĩ bắt hết tất cả các Giám mục chống đối và tuyên bố : “Giết chết ngay những kẻ dám tuyên bố Giêsu có hai bản tính”. Giám mục Flavian là nạn nhân đầu tiên của bi kịch, ông bị đánh chết tại chỗ, về sau ông được giáo hội “phong thánh”.
Về Chúa Thánh Thần cũng thế. Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Năm 381, Hoàng đế Theođosiô (379-395) triệu tập Công đồng Constantinopoli để bổ túc những thiếu sót của Công đồng Nikêa về Chúa Giêsu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô…” đồng thời phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… : “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…” Tất nhiên chỉ có những kẻ “điếc không sợ súng” mới dám chống lại Công đồng!
Thái độ của người Châu Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” - “Ngôi Vị”
Người Châu Á phi Kitô giáo ngày nay không hiểu Thiên Chúa của Công giáo La Mã “quan phòng” kiểu gì mà nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù tội, tra tấn, lưu đày chỉ vì họ đã tham gia vào cuộc tranh biện “Đồng Bản Tính” (homoousios), “Ngôi Vị” (hypostasis) của Thiên Chúa!
Công giáo La Mã ngày nay đã kết án những người có chủ trương đi ngược lại tinh thần công đồng Nikêa được đúc kết lại trong kinh Tin Kính là “lạc giáo”. Nhưng đối với người Châu Á phi Kitô giáo, chuyện “lạc” hay “không lạc” là chuyện nội bộ của của các hệ phái Kitô giáo. Người Châu Á phi Kitô giáo chỉ nhìn vấn đề với một thái độ bàng quan để nhận định: “Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, có tính phổ quát cho toàn nhân loại” là cái lõi của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á mà Vatican muốn tất cả các dân tộc Châu Á phải thừa nhận, lại cũng chính là cái lõi gây ra cuộc “chiến tranh tín lý” đã cướp đi bao sinh mạng ngay trong nội bộ giáo hội.
Trước những sự kiện lịch sử không thể phủ nhận, buộc người Châu Á ngày nay phải nghĩ rằng: Giêsu là một con người tội nghiệp bị lợi dụng, là nạn nhân của những thế lực núp bóng tôn giáo. Vì thế, cần phải “Cứu Độ Giêsu”, phải trả lại cho Giêsu những gì ông có và đừng bắt ông phải nhận lấy những gì mà ông không có…
10. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
Nhiều học giả nghiên cứu Kitô giáo cho rằng “Chúa Thánh Thần” chẳng qua là sản phẩm của công đồng Nikêa. Theo các nhà nghiên cứu, cái mà ngày nay Kitô giáo gọi là “Chúa Thánh Thần” không hề có trong thời Giêsu và các tông đồ. Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế Ký mô tả “Thần Khí” bay là là trên mặt nước (St 1,2) … làm ta hình dung đến một hiện tượng vật lý rất tự nhiên mà ngày nay khoa vât lý học gọi là sự bay hơi (bốc hơi), chúng tạo nên một màn sương mờ mờ ảo ảo… Sự nhân cách hóa một hiện tượng tự nhiên thành một vị thần như: thần sông, thần biển, thần gió, thần núi v.v… là sinh hoạt tín ngưỡng thời sơ khai của con người trong xã hội nguyên thủy. “Thần Khí” của con người thời sơ khai trong Cựu Ước cũng không ngoại lệ.
Trong Tân Ước, “Thần Khí” còn được biết đến dưới một tên khác: “Thánh Linh” (Holy Ghost, Holy Spirit) được biểu thị bằng một con “chim bồ câu” (xuất hiện khi Giêsu chịu phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên sông Giôđan), hoặc biểu tượng “đốm lửa” (xuất hiện trên đầu các tông đồ khi các ông đang hội họp trong nhà Tiệc Ly). Có học giả cho rằng: “chim bồ câu” hoặc “đốm lửa” là vết tích của tín ngưỡng Tôtem, bái vật trong thời kỳ tiền Kitô giáo…
Dấu ấn của Tôtem giáo
Tôtem giáo là một hình thức tín ngưỡng quan trọng vào bậc nhất của xã hội nguyên thủy. Khoa khảo cổ học đã chỉ ra ý nghĩa của những bức tranh khắc trên vách đá được tìm thấy trong các hang động thời kỳ đồ đá, mô tả lễ hội tín ngưỡng Tôtem. Nét độc đáo của lễ hội này là ăn thịt Tôtem (vật tổ) sau khi đã thực hiện nghi thức cúng bái Tôtem. Người nguyên thủy tin rằng: ăn thịt vật tổ là cách để vật tổ có thể tồn tại mãi trong mỗi con người. “Ăn” không phải để giải quyết “vấn đề bao tử” mà ăn trong một trạng thái tâm linh hưng phấn, một nghi thức vô cùng thiêng liêng. Nghi thức ăn thịt Tôtem (vật tổ) mang một ý nghĩa triết lý sâu xa trong tâm thức người nguyên thủy. Thông qua nghi thức ăn vật tổ mà con người thực hiện việc chuyển hóa quan hệ huyết thống họ hàng sang quan hệ thiêng liêng với Tôtem, vật tổ. Niềm tin vào sự hóa thân của vật tổ vào tất cả mọi thành viên trong cộng đồng đã khiến cho người ta tin rằng: Khi một phụ nữ mang thai thì chính Tôtem đã tạo ra cái thai đó…
Dấu ấn của Tôtem giáo còn khá rõ nét trong Kitô giáo nguyên thủy. Chim bồ câu chính là Tôtem vật tổ, Khi Maria mang thai thì chính Tôtem đã “phủ” lên bà. Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cũng có nghĩa là bởi Tôtem vật tổ, tức chim bồ câu… Nghi thức “ăn thịt vật tổ” trong tín ngưỡng Tôtem cũng lại được tìm thấy trong “Bí tích Thánh Thể” của Kitô giáo. Trước ngày “chịu nạn”, Giêsu họp các môn đồ lại, cầm bánh bẻ ra và chia cho các môn đồ nói: “Đây là thịt ta, các con hãy ăn…”. Sau đó ông lấy rượu và chia cho môn đồ rồi nói: “Đây là máu ta các con hãy uống…” Dù đó chỉ là một nghi thức tượng trưng với bánh và rượu chứ chẳng có “máu thịt” gì cả! Nhưng nó đã minh chứng ảnh hưởng của tín ngưỡng Tôtem trong giáo thuyết Kitô giáo. Tín điều “Ba Ngôi” xác định: Chúa Cha, Chúa Con (tức Giêsu) và Thánh Thần (biểu tượng chim bồ câu) chỉ là một. “Ăn thịt, uống máu” Giêsu cũng có nghĩa là của Chúa Thánh Thần, mà Thánh Thần lại chính là “con chim bồ câu”, tức Tôtem vật tổ…
“Chúa Thánh Thần” Sản phẩm của công đồng Nikêa
Chương ba của Tông huấn nói về “Chúa Thánh Thần”. Đoạn số 15,18 trong chương này viết : “…Chúa Thánh Thần là mặc khải riêng của Tân Ước…”. “Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?), rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai (?),…” (S15,18). Đây là lối nói khoa trương, phóng đại, hoàn toàn không có căn bản từ Thánh Kinh. Thật vậy, nếu trong Cựu ước, “Thần khí” được nhắc đến hơn 300 lần thì trong Tân ước, “Thánh Linh” được nhắc đến rất ít, cụ thể là Gioan nhắc đến 5 lần (Ga 1:32,33 , 3:5,6,8,34 , 7:39, 14:26, 20:22). Matthêu 7 lần(Mt:1:18,20, 3:11,16, 4:1, 10:20, 12:18,28,31,32, 22:43, 28:19).Luca 6 lần (1:15,35,41,67, 2:25,26,27, 3:16,22, 4:1,14,18, 10:21, 11:13). Và ít nhất là Máccô, vỏn vẹn có bốn lần trong toàn bộ Phúc Âm của ông. Lần thứ nhất: lúc Giêsu chịu phép báptêm của Gioan tại sông Giođan (Mc 1:8,10,12). Lần thứ hai: Giêsu trả lời các kinh sư khi họ cho rằng ông bị quỷ ám (Mc 3:29). Lần thứ ba: Đa-vít cảm nhận Đức Thánh Linh (12:36) Lần thứ tư: lúc Giêsu giảng dạy môn đồ (Mc 13:11). Còn “Chúa Thánh Thần” thì hoàn toàn “vắng bóng” cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tất nhiên, người Kitô hữu sẽ nói rằng: “Thần Khí” hay “Thánh Linh” chính là “Chúa Thánh Thần” tức “Ngôi Ba Thiên Chúa”. Nhưng đó chỉ là tín điều của Giáo hội buộc tín đồ phải tin, hoàn toàn không có căn cứ….
Chúa Thánh Thần như người ta hiểu ngày nay là: Đấng thông ban sự sống, Đấng bảo trợ, hướng dẫn, dìu dắt, là ánh sáng, sức mạnh v.v… Vị Chúa này chỉ được biết đến từ công đồng Nikêa. Mãi 300 năm sau, kể từ ngày Giêsu qua đời, Chúa Thánh Thần mới được “sinh ra”, mà lại “sinh ra” trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Người “sinh ra” Chúa Thánh Thần chẳng ai xa lạ, chính là Constantine hoàng đế của đế quốc La Mã. Lịch sử ghi nhận rằng: năm 325 Hội nghị các Giám mục được hoàng đế La Mã là Constantine triệu tập tại Nikêa (Thổ Nhĩ Kỳ) gọi là Công đồng Nikêa-Constantinopoli. Trong công đồng này, người ta đưa ra một số tín điều buộc mọi người phải tin, trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng Trinh v.v… các tín điều trên được tóm tắt trong một văn bản mà ngày nay ta gọi là “kinh Tin Kính”. Chúa Thánh Thần được “khai sinh” từ đó.
Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Có nhiều chứng cứ từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để họ tin như thế. Ngay danh xưng “Thần Khí” cũng đã hàm xúc một cái gì đó được Chúa Cha tạo ra để ban lại cho con người: “Nhờ bởi Thần Khí mà Ngài đã ban cho ta…” (Rm 5:5) v.v… Tất nhiên, quan điểm xem Chúa Thánh Thành là tạo vật bị giáo hội bác bỏ.
Năm 381, Công đồng Constantinopoli được triệu tập bởi Hoàng đế Theođosiô (379-395). Công đồng đã phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… Văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” một lần nữa lại được bổ sung: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…”
“Chúa Thánh Thần” của Vatican ngày nay
Đặc điểm của Chúa Thánh Thần thời đó là: ban ơn, che chở, giữ gìn cho các tín đồ. Ngày nay khoa thần học đã “nâng cấp” Chúa Thánh Thần lên rất nhiều bậc… nào là sáng tạo lịch sử, hoạt động và hướng dẫn lịch sử v.v… Ngài là biểu tượng của sức mạnh và là sự khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, Vatican đã “bắt” Chúa Thánh Thần phải “khôn ngoan” đến mức “tinh quái”. “…Khi ban Thánh Thần Đức Kitô cho Giáo hội, là Chúa cũng đồng thời ban hoa trái sứ mạng cứu độ của Ngài cho mọi dân tộc qua mọi thời đại dựa vào việc Giáo hội công bố tin mừng và yêu thương phục vụ gia đình nhân loại… Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để đóng vai trò của mình trong việc hoàn thành chương trình của chúa”(S17). Dù “khôn ngoan tinh quái” nhưng Chúa Thánh Thần vẫn bị Vatican đánh lừa, xỏ mũi… Đọc đoạn trích dẫn trên ta có thể nhận ra ngay dù Chúa có “ban này, ban nọ…” cho mọi dân tộc qua mọi thời đại, nhưng phải “dựa vào việc giáo hội công bố…”. Nếu không “dựa vào” nghĩa là không được giáo hội “cho phép” thì Chúa muốn ban cũng đành “chào thua..” Nhưng “siêu” nhất là Vatican đã “bắt” Ngài phải “chui tọt” vào trong các tôn giáo như Phật giáo, Ấn giáo, để làm “gián điệp” cho Vatican… “Giáo hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo Á Châu này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn. Giáo hội trong chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta mới tìm được nước hằng sống đem lại sự sống đời đời, hay cụ thể hơn, cho họ hiểu biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai đến…” (S18).
Người đọc vô tư, khách quan, không thiên kiến khi đọc đoạn trích dẫn trên cũng phải tự hỏi: Chúa toàn năng hay Vaticăn toàn năng? Vì 97% dân chúng phi Kitô giáo ở Châu Á chưa hề biết Giêsu là ai! Chúa Thánh Thần là ai? Chúa không thể tự bộc lộ mình trước quần chúng Châu Á mà phải thông qua Vatican, phải được Vatican tạo điều kiện: “Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau…” Đó là chưa nói đến việc quần chúng Châu Á có “cần gặp” hay không.
Tuy nhiên với phong cách vốn có của mình Vatican cứ tiếp tục giọng điệu quen thuộc: “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ…”(S15) “…Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo, đều là sự chuẩn bị cho tin mừng và có thể hiểu đó cũng chỉ là quy chiếu về Đức Kitô…”(S16). Tuy nhiên, để không bị “hố” trước vấn nạn mà người Châu Á phi Kitô giáo có thể đặt ra là: Giải thích thế nào về con số 3% tín đồ Kitô giáo mà nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trong tổng số 3,3 tỷ người trên lục địa Châu Á? Chúa Thánh Thần ở đâu? Ngài đang làm gì? Nếu “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần” trên lục địa này chỉ mang lại một kết quả “quá ư khiêm nhường” như thế liệu Ngài còn được Vatican “tín nhiệm” không? Giáo Hoàng là người khôn ngoan, nên ông có thể đón trước vấn nạn: “Không được vin cớ Chúa Thánh Thần có mặt khắp nơi để bào chữa cho việc không thể công bố Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy nhất và có một không hai…”(S16). Nếu Chúa Thánh Thần nghe được, có lẽ Ngài cũng phải “phì cười” và khen ngợi sự thông minh của Giáo Hoàng…
Quyết tâm của Vatican đã đạt đến cao điểm trong tuyên bố của Giáo Hoàng: “Dù Giáo Hội sung sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật giáo, An Độ giáo và Hồi giáo đều là phản ánh sự thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là giáo hội phải bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức tuyên bố một cách dứt khoát Đức Giêsu Kitô là đường đi, sự thật và sự sống… Thật ra tín đồ trong các tôn giáo ấy vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết mọi người” (S31)