Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

Sự ngu xuẩn của chiên vàng VN

1 con chiên comment với nội dung như sau "Xin lỗi tác giả viết bài mà chẳng hiểu mình viết gì, tác giả hình như mới có mấy chục tuổi, còn Công Giáo có đến hai nghìn tuổi rồi... còn nói về Kinh Thánh thì có cách đây mấy nghìn năm rồi tác giả có biết không. ... hãy xem xét lại những hiểu biết có hạn của mình. Tác giả chỉ là một thực thể có hạn, còn Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu vô hạn."

=> đầu óc thì ngu si với thực tế ngu nghiện đạo, ko fai cái gì xưa cũng tốt, Công giáo cản trở khoa hoc phát triển,ko thì bây giờ cuộc sống con ng đã khác xưa, Albert Einstein sống có vài chục năm mà đã đưa nền khoa học vũ trụ lên vượt bậc, trong khi 2000 năm qua, Thiên chúa La Mã vẫn mò mẫm ở mô hình chúa tạo thế giới trong 7 ngày
"Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu vô hạn." => vậy thiên chúa tồn tại ở đâu, xin chỉ rõ vị trí ổng dùm cái ??? dân do thái chờ hơn 2000 năm còn chẳng được, dốt hết chỗ nói, lải nhải luận điệu cũ rích

Qua 3 năm tồn tại blog, chủ blog nhận ko biết bao nhiêu mail chửi rủa, mắng nhiếc của những người tự nhận là của hội thánh "thánh thiện" và tông truyền, nhưng điều này chứng tỏ cái ngu và ngu hiểm của 1 đám người mà thôi => "Linh mục có địt cũng khen thơm"

Chúc quý vị độc giả (kể cả chiên vàng còn biết suy nghĩ) 1 mùa xuân hạnh phúc cùng người thân và gia đình.




Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Đạo Thiên Chúa Héo Tàn Dần Ở Nước Mặt Trời Mọc (JAMES BROOKE/ NY Times)

Năm 1865, một nhóm 15 nông dân Nhật Bản thận trọng tới chỗ Bernard Petitjean, nhà truyền giáo Cơ đốc đầu tiên thực hiện sứ mệnh ở Nagasaki kể từ 1614. Trước bàn thờ Chúa, trưởng nhóm tuyên xưng và xin được nhìn hình của "Maruya-sama", tức Maria Đồng trinh.

Hình Maria Đồng trinh (Maruya-sama)
và Chúa hài đồng vẽ theo phong cách
Nhật treo ở bảo tàng đảo Ikitsuki. Ảnh
Masafumi Yamamoto /The New York Times
Chuyện đã xưa đối với các con chiên Công giáo, hậu duệ của những người Nhật được các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha cải đạo hồi cuối thế kỷ 15, trong thời kỳ có sự tự do tôn giáo tương đối cởi mở ở xứ Phù Tang.
Tín ngưỡng của họ đã tồn tại hơn 300 năm bất chấp các lệnh cấm đoán, thiêu sống và chém đầu. Sự đàn áp được nới lỏng năm 1853, và chấm dứt năm 1873 với việc hợp pháp hoá Kito giáo. Cuối thế kỷ 19, các nhà truyền giáo đã có thể tới những hòn đảo xa xôi miền nam Nhật Bản, giúp cho hơn 50.000 tín đồ bí mật được thể hiện tín ngưỡng công khai.
"Santa Maria, Santo Filio", 4 người đàn ông có tuổi trong những bộ áo dài màu chàm ngân nga cầu nguyện trong khi ánh chiều tà lan dần trên làng chài ở đảo Ikitsuki, phía bắc Nagasaki. Lời nguyện trầm bổng giống giai điệu của những khúc thánh ca Gregory từng vang trên vách đá này cách đây 500 năm trước.
Đảo Ikitsuki có nhà thờ từ năm 1912, nhưng các buổi lễ vẫn tiến hành ở nhà bảo tàng, tại một cánh dành riêng cho đạo Cơ đốc. Shigeo Nakazono, viên quản trị bảo tàng, nhận xét sau một lễ mixa: "Theo nghiên cứu của tôi, sự sùng đạo của cư dân nơi đây vẫn được bảo toàn như ở châu Âu thế kỷ 16".
Tuy nhiên những tín đồ Thiên chúa một thời phải giấu giếm tín ngưỡng giờ đây đối mặt với thách thức rất lớn. Nó không đến từ nhà cầm quyền, nhưng lại có sức mạnh khó chống đỡ: sự thờ ơ.
Với giới trẻ, hàng giờ học kinh dài dằng dặc quả là cực hình so với việc lái xe vượt cây cầu mới dẫn tới Nagasaki du hí cuối tuần. Chỉ còn vỏn vẹn 7.500 người, dân số đảo Ikitsuki đã giảm chỉ còn một phần ba so với những năm 60.
"Lễ thánh diễn ra vào chủ nhật, nhưng đám thanh niên chỉ muốn nghỉ ngơi", Masatsugu Tanimoto 47 tuổi nói. Ông có lẽ là người trẻ nhất trên đảo vẫn học kinh thánh và các lễ nghi. "Con người giờ sống trong một môi trường nhiều biến động. Tôi không nghĩ là các con mình sẽ theo đạo".
Kito giáo tới Nhật Bản lần đầu tiên qua nhà truyền giáo Francis Xavier năm 1549, khi quyền lực của chính quyền trung ương suy yếu. Lan truyền rất nhanh ở miền nam quốc đảo, khi đó có tới 750.000 người cải đạo thành tín đồ Cơ đốc, chiếm 10% dân số. Nhưng hiện nay, chỉ khoảng 1% trong số 127 triệu dân xứ hoa anh đào là người Công giáo.
Cuối thế kỷ 16, lo sợ bị đô hộ bởi người Tây Ban Nha cùng làn sóng cải đạo đang lan tràn ở nước láng giềng Philippines, Hideyoshi, viên tướng có công thống nhất Nhật Bản, ra lệnh cấm Kito giáo và trục xuất các nhà truyền đạo. Cuộc tàn sát nghiêm trọng nhất diễn ra đầu những năm 1600, khi hơn 6.000 tín đồ Thiên chúa bị giết, chủ yếu là ở miền nam quốc đảo, nơi chịu ảnh hưởng mạnh của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đi thuyền từ Macau tới.
Trái với định kiến về samurai xả thân vì lý tưởng, những tài liệu ghi lại cho thấy hầu hết các võ sĩ đạo và tầng lớp danh giá đã từ bỏ tín ngưỡng dưới sức ép của nhà cầm quyền. Chỉ có những người nông dân, thợ thủ công và nhà buôn chết vì niềm tin mới mẻ của mình, sau khi đã chịu nhiều cực hình tra tấn.
Để nhổ tận gốc đạo Cơ đốc, chính quyền tổ chức kiểm tra hằng năm, trong đó các nông dân được yêu cầu phải giẫm chân lên cây thánh giá hoặc hình Maria Đồng trinh và Chúa hài đồng. Tại bảo tàng trên đảo Ikitsuki, vẫn còn một trái tim bằng đồng in hình Đức mẹ và ấu Chúa đã mòn bởi hàng nghìn bàn chân trần giẫm lên.
Trong suốt 300 năm, những người Kito giáo Nhật Bản giấu diếm tín ngưỡng bằng cách thực thi những nghi lễ của đạo Phật và Thần đạo. Tại bảo tàng, có một "tấm gương thần" vẽ hình Phật tổ treo trên tường. Nhưng khi gỡ nó ra và soi lên ánh sáng, người ta sẽ thấy bóng một cây thánh giá.
"Lo bị đàn áp, chúng tôi phải dùng đạo Phật để nguỵ trang", cụ Mitsuyoshi Okawa 72 tuổi kể lại. Mỗi khi thánh lễ được tổ chức trong bảo tàng, những người già thường hồi tưởng và kể cho con cháu họ từng bí mật học thánh ca như thế nào khi xưa. Họ từng chui vào trong chăn hoặc ra chỗ đồng không mông quạnh để luyện giấu.
Nhưng giờ đây, trong số những người trẻ chỉ có sinh viên và giáo viên hát thánh ca. "Chẳng ai theo cả", đức cha Tomeichi Ohoka 85 tuổi than phiền. "Tôi lo buồn khi nghĩ về tương lai, và không dám chắc đạo Cơ đốc có còn tồn tại ở đây không nữa".
T. Huyền/ VNEpress (theo JAMES BROOKE/ NYT)
____________
Nguồn:
- http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi... Thứ sáu, 26/12/2003 | 16:00 GMT+7
Đọc thêm:
Japan's "Hidden Christians" face extinction Wed Dec 19, 2007 11:59am EST

Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

NGUY CƠ LÀM “BỐC HƠI” ĐỨC TIN CÔNG GIÁO VÀ TUYÊN NGÔN DOMINUS JESUS

Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán

Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com


2. NGUY CƠ LÀM “BỐC HƠI” ĐỨC TIN CÔNG GIÁO VÀ TUYÊN NGÔN DOMINUS JESUS
Hồng Y Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Vatican, trong bài viết "Niềm tin vào Đức Kitô trước sự thách đố của các nền văn hoá” được tải đi trên mạng Internet, Website vietcatholic, có một đoạn như sau: “Chính Âu châu mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí đi ngược lại tôn giáo”. Ở đây, tôi không có ý phê bình, phân tích các giá trị “đúng-sai” về quan niệm “văn hóa” của tác giả. Tôi chỉ muốn tìm hiểu về hoàn cảnh, động lực nào để tác giả có nhận định như trên.
Tại Âu Châu, lục địa được mệnh danh là “lục địa Kitô giáo” với sự tồn tại của các hệ phái Kitô giáo mà nổi bật nhất phải kể đến Công giáo La Mã. Tôn giáo này đã có một thời làm bá chủ Châu Au, vua chúa các nước Châu Âu đều phải thần phục! Đương nhiên văn hóa Châu Âu nói chung là văn hóa Kitô giáo. Đến thế kỷ 14-17, nổi lên một trào lưu văn hóa mới: Phong trào Phục Hưng. Đại diện cho phong trào này là Petrarch (1304-1374). Phong trào Phục Hưng đã thẩm định lại toàn bộ giá trị văn hóa Kitô giáo. Đến thế kỷ 18, với phong trào Khai Sáng. Một trong những con chim đầu đàn của phong trào này là Voltaire, với câu nói nổi tiếng: “Nói thật rồi chạy!” (Tell the truth and run!). Chính họ đã làm đức tin Kitô giáo lung lay đến tận gốc rễ. Các phong trào Phục Hưng và Khai Sáng thực sự đã trở thành nỗi ám ảnh của những nhà “bảo vệ đức tin” ở Vatican. Ảnh hưởng của chúng vẫn còn phát huy tác dụng đến tận hôm nay, chúng không những chỉ ảnh hưởng trong lĩnh vực xã hội mà còn tác động đến cả những nhà thần học có khuynh hướng cấp tiến, khiến nguy cơ làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo ngày càng trở nên hiện thực hơn. Đặc biệt, khi văn hóa Phương Tây giao lưu với văn hóa Châu Á, nguy cơ phá vỡ các cơ cấu “văn hóa đức tin” của Vatican tăng lên bội phần. Đây là lý do khiến những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ lực tìm “thuốc giải”. Tuyên ngôn Dominus Jesus được ban hành không ngoài mục đích đó.
Tuyên ngôn Dominus Jesus được Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican ký ban hành ngày 6/8/2000 với sự phê duyệt của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã là một đề tài mang tính thời sự trong thời gian gần đây.
Nội dung Tuyên ngôn Dominus Jesus nhằm khẳng định lại vấn đề “Giêsu là đấng cứu độ phổ quát duy nhất và Giáo hội Công giáo La Mã cũng là Giáo hội cứu độ phổ quát duy nhất!”. Chính từ căn bản này, Tuyên ngôn Dominus Jesus nêu lên một số vấn đề cơ bản như: Xác tín Thiên Chúa là điều không thể lãnh hội và diễn tả bằng trí năng con người. Cảnh cáo các khuynh hướng tương đối hóa “Ngôi Lời Nhập thể”, qua việc chọn lựa các phạm trù Đông phương trong suy tư thần học nhằm biện minh cho thuyết đa nguyên tôn giáo. Theo đó, các thần học gia phóng khoáng đã trình bày lý thuyết cứu độ của các tôn giáo khác như là hệ thống song song hoặc tương đương với lý thuyết cứu độ của Công giáo La Mã. Điều này dẫn đến nguy cơ làm phá sản tính “cứu độ phổ quát và tuyệt đối duy nhất” của Giêsu và của Giáo hội Rôma…
Tuyên ngôn Dominus Jesus mang tính chất “hộ giáo” vì nó không đưa ra một tín lý giáo điều nào mới mà chỉ khẳng định lại một điều đã được nói nhiều từ công đồng Vatican II và mới đây nhất là Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, đó là “tính phổ quát và duy nhất của Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và giáo hội Công giáo La Mã là phương tiện duy nhất để đạt được sự cứu độ”.
Mặc dù đối tượng mà Tuyên ngôn Dominus Jesus nhắm đến là các Giám mục, các nhà Thần học và tín đồ Kitô giáo và mục đích Tuyên ngôn chỉ là sự khẳng định lại giáo lý đức tin Công giáo dựa trên những văn kiện đã được Vatican ban hành trước đây như Thông điệp Redemptoris Missio, Sắc lệnh Ad Gentes, Tuyên ngôn Nostra Aetate v.v… nên có thể xem Tuyên ngôn Dominus Jesus là một hoạt động nội bộ của Vatican. Nhưng với thời đại “bùng nổ thông tin” hiện nay, với phương tiện truyền thông Vatican hiện nắm trong tay, những điều gọi là “nội bộ” của Vatican đã trở thành “thông tin đại chúng”. Đó là chưa nói đến Internet. Con người dù ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này, thông qua mạng thông tin toàn cầu Internet, chỉ cần một cú “click chuột”, người ta có thể biết được tất cả… Do đó, “chuyện nội bộ” mà Vatican cố tình “bỏ ngỏ” trên các phương tiện truyền thông đại chúng khiến người ta không thể ngó lơ. Hơn nữa, Tuyên ngôn lại là một văn kiện mang tính pháp lý của Vatican do Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican đã ký ban hành với sự duyệt y của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nội dung chuyển tải những điều hạ thấp học thuyết, xúc phạm những vị sáng lập các tôn giáo khác nhằm đề cao Giáo hội Công Giáo La Mã như: không thể chấp nhận quan điểm cho rằng Giáo hội Công giáo La Mã chỉ là một phương thế trong nhiều phương thế “cứu độ” như các tôn giáo khác. Không thể có sự tương đương giữa các con đường cứu độ của các tôn giáo khác với Giáo hội. Vì thế không thể có sự bình đẳng trên bình diện giáo lý và nhất là không thể xem Chúa Giêsu ngang bằng với các giáo chủ của các tôn giáo khác.
Chẳng những đối với các tôn giáo phi Kitô giáo, các hệ phái Kitô giáo khác như Anh giáo, Chính Thống, Tin Lành v.v… đều lên tiếng phản đối, phẩn nộ trước một tam đoạn luận mà tuyên ngôn đã vận dụng: Tất cả những ai chịu phép Rửa đều được sát nhập vào Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Giáo hội Công giáo La Mã là Nhiệm thể Chúa Kitô. Vậy tín đồ trong các hệ phái Anh giáo, Chính Thống, Tin Lành v.v… không thuộc Giáo hội Công giáo La Mã, tất nhiên không thể sát nhập vào Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô một cách trọn vẹn được. Nghĩa là không thể hiệp thông một cách hoàn hảo như Giáo hội Công giáo La Mã, vì Vatican là “Hội thánh duy nhất thánh thiện, Công giáo và tông truyền!?”
Trong lúc Vatican đang ra sức kêu gọi “hiệp thông, đại kết” với các “giáo hội anh em”, thì Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin lại ban hành Tuyên ngôn Dominus Jesus làm sống lại châm ngôn đã lạc hậu của Cypriano “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ” (Extra Ecclesiam nulla salus). Giám mục George Carey, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo. Mục sư Peter Sulston thuộc Giáo hội Methodist cho rằng Vatican đã mưu toan “xoá sổ” các hệ phái Kitô giáo ngoài Giáo hội Công giáo La Mã…
-- o0o --
THAY LỜI KẾT
Châu Âu từng được mệnh danh là lục địa Kitô giáo trong suốt hai thiên niên kỷ qua. Công giáo La Mã là một thực thể tôn giáo quan trọng nhất trên lục địa này. Cũng tại Châu Âu, mảnh đất của sự tiến bộ, chính tại nơi đây các phong trào Phục Hưng (thế kỷ 14-17), phong trào Khai Sáng (Thế kỷ 18) đã làm lung lay đức tin Kitô giáo đến tận gốc rễ. Châu Au cũng là nơi khai sinh ra các ngành khoa học, các học thuyết Tiến hóa, big bang v.v… đã đẩy tín lý Kitô giáo đến bờ vực phá sản. Trên lĩnh vực xã hội, tín đồ Kitô giáo Châu Âu nói chung ngày càng ít đi. Lớp trẻ ngày nay gần như không biết nhà thờ là gì! Nhiều người tự thú trong suốt cuộc đời, họ đến nhà thờ ba lần, Chỉ có một lần khi lập gia đình, họ tự đến để nhận “phép bí tích hôn phối”. Hai lần kia hoàn toàn không biết gì, đó là lúc mới sinh người ta mang họ đến nhà thờ “rửa tội”, và khi chết người ta lại đưa họ vào nhà thờ trước khi đưa ra nghĩa trang!… Ngày nay, Vatican luôn phải đương đầu với các vấn đề xã hội mà thường là những vấn đề chống lại tín lý Kitô giáo như: ngừa thai, ly dị, tình dục ngoài hôn nhân và mới đây nhất, một vấn đề được xem là thời sự nóng hổi: nhân bản vô tính. Con người bắt đầu cướp quyền sáng tạo của Thiên Chúa... Trong nội bộ giáo hội cũng không lấy gì làm sáng sủa, nhiều linh mục bỏ nghề, nhiều linh mục khác đòi quyền … lấy vợ. Chính tại nơi được mệnh danh là lục địa Kitô giáo này đã dần lấy lại thế chủ động khiến quyền uy của Vatican ngày càng thu hẹp, tất nhiên không loại trừ nguy cơ mất hẳn ảnh hưởng của mình tại Châu Au. Đó là lý do giải thích vì sao thời gian gần đây Vatican muốn chuyển hướng sang Châu Á.
Văn kiện Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là sự khởi đầu cho một kế hoạch dài hơi của Vatican tại Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba. Mặc dù Vatican đã thấy trước được những khó khăn mà họ gọi là “thách đố” khi phải đối mặt với các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á. nhưng họ vẫn không tránh được vết xe đã đổ trong quá khứ, vẫn cứ tiếp tục phong cách vốn có của mình, vẫn khoa trương ngạo mạn, đánh giá thấp các nền văn hóa Châu Á. Dự đoán về những thất bại của Vatican tại Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba là hoàn toàn có cơ sở.
Người Châu Á với truyền thống bao dung, rộng lượng sẵn sàng góp tiếng nói của mình với mong muốn Vatican phải có một thái độ nghiêm túc hơn nếu muốn đối thoại chân thành với các thực tại văn hóa Châu Á.

HỘI NHẬP VĂN HÓA HAY “ĐỨC TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”

Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán

Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com

PHẦN III
HỘI NHẬP VĂN HÓA HAY “ĐỨC TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”
1. HIỂU THẾ NÀO VỀ “VĂN HÓA ĐỨC TIN”
Tôn giáo và văn hóa là hai lĩnh vực liên quan mật thiết với nhau, chúng quan hệ biện chứng sinh thành. Cách nào đó, có thể nói tôn giáo thuộc phạm trù văn hóa. Văn hóa không chỉ là học thuật, tư tưởng mà còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục tập quán v.v… Nói một cách ngắn gọn như cụ Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương thì: “văn hóa tức là sinh hoạt”. Do đó, nếu vấn đề được nhìn dưới góc độ tôn giáo, tức nhìn ở góc độ hẹp so với góc độ rộng hơn là văn hóa. Cứ nhìn vào nội dung văn kiện Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á sẽ thấy, tác giả đã trình bày khái quát những vấn đề lớn như kinh tế, chính trị, xã hội, đến những vấn đề nhỏ hơn như: toàn cầu hòa, nợ nước ngoài, môi trường, du lịch, thông tin đại chúng, thậm chí cả những vấn đề tiểu tiết hơn như các tệ nạn xã hội ma túy, mại dâm, siđa v.v… tất cả những vấn đề trên, vấn đề nào không thuộc phạm trù văn hóa? Ngay cả những thứ mà ngày nay người ta gọi là “phi văn hóa” hay “phản văn hóa”, cũng là văn hóa, nhưng là văn hóa độc hại, văn hóa đồi bại cần bài trừ…
Bảo vệ bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc là điều phải làm với bất kỳ nền văn hóa nào. Quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ thuộc vào các tiêu chí mà nền văn hóa đó yêu cầu. Tuy nhiên tất các nền văn hóa đều có một điểm chung, đó là tính thích nghi một cách có chọn lọc trong quá trình giao thoa giữa các nền văn hóa, là động lực thúc đẩy sự phát triển của một cộng đồng dân cư. Nói cách khác: Văn hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt tinh thần lẫn vật chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng nhất định… Đành rằng văn hóa phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán, giao tiếp, ứng xử, văn chương, nghệ thuật… Nhưng đôi khi người ta dung tục lạm bàn văn hóa. Ví dụ có người nói đến nền “văn hóa xe hơi” của Hoa Kỳ, “văn hóa cà ri cay” của Ấn Độ và gần đây tại Việt Nam, người ta thường nói đến “văn hóa ẩm thực”, “văn hóa thời trang” thậm chí còn có cả nền “văn hóa xe gắn máy” ở những đô thị lớn. Riêng đối với Vatican, hiện nay người ta đang ráo riết phổ biến một thứ văn hóa tại Châu Á: “văn hóa đức tin”.
Từ văn hóa dẫn vào tôn giáo để giới thiệu “Tin Mừng” Kitô giáo là lộ trình mà Tông Huấn Giáo hội tại Châu Á vạch ra nhằm định hướng mục tiêu “Phúc Âm hóa Châu Á”. Vatican dùng một cụm từ rất thời thượng để chỉ mục tiêu này: “Hội nhập văn hóa.”
Thế nhưng, hội nhập văn hóa được Vatican hiểu thế nào? Trước hết, ta hãy nghe Tổng Giám Mục G.B Phạm Minh Mẫn nhắc lại một định nghĩa của Giáo hội Công giáo La Mã về “Hội nhập văn hóa” trong một bài viết cùng tên của ông đăng trên website vietcatholic như sau: “…Giáo Hội định nghĩa về hội nhập văn hoá như là "Tiến trình qua đó một cộng đoàn Giáo Hội sống kinh nghiệm vào đức tin Kitô giáo của mình trong một bối cảnh văn hoá cụ thể, làm sao để không những kinh nghiệm và đức tin đó được diễn tả bằng những yếu tố của văn hoá địa phương, mà còn trở nên sức mạnh linh hoạt hoá, định hình và canh tân cách sâu xa nền văn hoá đó, để tạo nên những mẫu mực hiệp thông và giao lưu trong và vượt trên nền văn hoá đó" (Chúa Kitô và các nền văn hoá, Tài liệu của Giáo Hoàng Học Viện Gregorio, 1983).
Qua định nghĩa trên, ta thấy “Hội nhập văn hóa” kiểu Vatican là một tiến trình được thực hiện nhiều bước. Bước thứ nhất là: Dùng “đức tin Kitô giáo” để diễn tả các yếu tố văn hóa địa phương mà bất chấp là nó có phù hợp hay không. Ví dụ quan niệm về “Trời” của các nền văn hóa Á Đông được hiểu là “Thiên Chúa” của Kitô giáo!? Bước thứ hai là: “định hình và canh tân” nền văn hóa đó. Không hiểu Vatican “định hình và canh tân” bằng cách nào? Thắc mắc trên được giải đáp ở bước thứ ba: Tạo nên mẫu mực “hiệp thông”. “hiệp thông” theo kiểu của Vatican như thế nào thì mọi người đã rõ, nghĩa là phải gia nhập đạo Công giáo. Và cuối cùng là “vượt lên trên nền văn hóa đó!?” hay nói một cách khác là đồng hóa nền văn hóa đó thành văn hóa Kitô giáo.
Để cụ thể hóa định nghĩa trên, Giám Mục G.B Phạm Minh Mẫn giải thích:Trong tiến trình hội nhập văn hóa, Tin Mừng đảm nhận và thanh tẩy các nền văn hoá, giúp nền văn hóa tìm lại được nét tinh khôi và những giá trị đích thực”
Không hiểu dựa vào đâu mà Giám mục Phạm Minh Mẫn dám quả quyết là “Tin Mừng” có thể đảm nhận và “thanh tẩy” các nền văn hóa, giúp các nền văn hóa tìm lại được “nét tinh khôi” và những giá trị đích thực? Người Châu Á xưa nay vẫn tự hào về di sản văn hóa của mình. Nhiều nền văn hóa của nhiều dân tộc Châu Á được xem là kho tàng qúy báu được cả nhân loại trân trọng và thừa hưởng. Thế mà Vatican lại cho rằng cần phải “thanh tẩy” các nền văn hóa đó bằng “Tin Mừng” của Kitô giáo mới có thể mang lại “nét tinh khôi” cho các nền văn hóa đó. Phải chăng dưới con mắt của Vatican, tất cả các nền văn hóa Châu Á đều bị “hoen ố?” nên cần phải “thanh tẩy bằng Tin Mừng?”. Theo họ, giá trị đích thực của các nền văn hóa Châu Á nằm trong “Tin Mừng”? Có thể coi đây là một kiểu “thực dân văn hóa”. Dù Giám mục Phạm Minh Mẫn có quả quyết rằng các nền văn hóa được “thanh tẩy” nhưng “mỗi nền văn hoá vẫn giữ những sắc thái riêng” tuy nhiên, ông lại thòng thêm một câu để lòi đuôi: “đồng thời cùng nhau tạo nên catholica unitas, nghĩa là sự hiệp nhất phổ quát trong Giáo Hội, hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt. Khi đó, Giáo Hội thực sự là khí cụ và dấu chỉ sự hiệp nhất giữa con người và Thiên Chúa cũng như giữa nhân loại với nhau.”.
Để hiểu rõ thế nào là “hiệp nhất phổ quát, hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt”, chúng ta hãy đọc chương năm, “Hiệp thông và đối thoại để truyền giáo” của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á. “…Sự đối thoại mà Giáo hội đề xuất được xây dựng dựa trên nền tảng là lôgic của sự Nhập Thể…Là bí tích của sự hiệp nhất toàn nhân loại… Giáo hội sẽ đi gặp gở các dân tộc trên thế giới, và không quên rằng tuy chỉ là “đàn chiên nhỏ” giữa một tập thể nhân loại rộng lớn, nhưng mình cũng là men trong khối bột thế giới… Rồi nó đi xa hơn thế giới Kitô giáo để đến với những tín đồ thuộc các truyền thống tôn giáo khác…”(S29). Vậy là rõ ràng không thể chối cải. Cái gọi là “hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt” chỉ là cách đánh lừa vụng về của Vatican. Vì như ta đã biết, một khi chất “men” Kitô giáo bắt đầu hoạt động trong “khối bột” các tôn giáo khác thì “hợp nhất” chắc chắn phải xảy ra, còn “trong đa dạng và khác biệt” chỉ là trò lừa bịp.
Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin. Trong bài nói chuyện của ông với Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Hongkong từ ngày 03 đến ngày 05-03-1993 (đăng trong báo DC, số ra ngày 16-07-1995). Nội dung bài nói chuyện được tải đi trên Internet, Website vietcatholic. Ông viết: “Ý đồ của tôi là cho thấy đức tin Kitô giáo có quyền và có khả năng thông truyền cho các nền văn hoá khác, tiếp nhận chúng và thể hiện phần của mình cho các nền văn hoá đó.”
Khi đã tự cho mình “có quyền và có khả năng”, ông bắt đầu định nghĩa về văn hóa :“Trước tiên, chúng ta cần phải đặt những câu hỏi sau đây : văn hoá là gì ? Văn hoá có liên hệ với tôn giáo thế nào, và làm sao văn hoá có thể tiếp xúc các hình thức tôn giáo vốn xa lạ với văn hoá ? Ta có thể đưa ra một nhận xét rằng: chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí đi ngược lại tôn giáo. Trong tất cả các nền văn hoá mà ta biết được trong lịch sử, tôn giáo luôn luôn là một yếu tố căn bản của văn hoá, thậm chí là linh hồn của văn hoá. Chính tôn giáo ấn định cấu trúc của các giá trị và do đó hình thành nên lý lẽ nội tại của cấu trúc ấy. Từ đây ông quy nạp tất cả các nền văn hóa trên thế giới vào một phạm trù giả định “thần linh”….: “Thật vậy, điểm căn bản nhất của các nền văn hoá lớn là cho chúng ta biết các nền văn hoá ấy đã giải thích thế giới như thế nào để bắt thế giới quy về đấng thần linh.”
Đọc đoạn trích dẫn trên, ta thấy vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Nhà nước Vatican đã đề xuất một chính sách “bá quyền văn hóa”. Từ chỗ khẳng định một tiền đề rất mơ hồ: “tất cả các nền văn hóa đều có nguồn gốc từ thần linh”, Hồng Y Joseph Ratzinger đã tự cho mình “có quyền và có khả năng” áp đặt “văn hóa đức tin” của Vatican lên trên các nền văn hóa khác. Ngoài ra, người đọc có thể nhận thấy sự ám ảnh về một thời kỳ tăm tối mà các phong trào Phục Hưng (thế kỷ 14-17), phong trào Khai Sáng (Thế kỷ 18) ở Châu Âu đã làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo. Vì thế không lạ gì trước nhận xét: “chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí đi ngược lại tôn giáo”. Sự phát triển của các phong trào trên vẫn còn phát huy tác dụng đến tận hôm nay và trở thành nỗi ám ảnh đeo bám khiến những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ lực tìm “thuốc giải”. (Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phần nói về Tuyên ngôn Dominus Jesus). Ở đây, có lẽ chúng ta cũng không cần phải phân tích gì nhiều để có thể thấy được quan điểm văn hóa của Vatican. Tác giả đã lý luận lòng vòng để cuối cùng đưa ra một luận điểm rất hàm hồ mà tác giả cho là điểm căn bản nhất : Điểm quy chiếu duy nhất của tất cả mọi nền văn hóa chính là “thần linh”!?
Đương nhiên “Văn hoá luôn gắn liền với một chủ thể xã hội là chủ thể một đàng vừa thu thập các kinh nghiệm của các cá nhân, đàng khác vừa gọt dũa để hình thành nên các quan niệm ấy.” Thế nhưng tác giả lại lái sang một hướng khác, hướng của “siêu việt lý trí” tức Thiên Chúa để biến các chủ thể văn hóa thành bù nhìn: “Chủ thể chung ấy sẽ bảo quản và phát triển những quan niệm mà cá nhân không thể nào tự mình có được, những quan niệm có thể được gọi là tiền lý trí hay siêu vượt lý trí...” Từ đó, tác giả đề xuất một hướng đi cho các nền văn hóa bằng cách bám vào “sự khôn ngoan của các “niên trưởng” và “mặc khải”: “Muốn vậy, các nền văn hoá sẽ nại vào sự khôn ngoan của các "niên trưởng" là những người gần gũi với thần thánh hơn; rồi những người đó lại nại vào những truyền thống nguyên thuỷ mang tính chất của những mặc khải…” Liệu người Châu Á có thể nào chấp nhận một nền văn hóa mà mọi tìm tòi, sáng tạo của con người đều bị bóp nghẹt bởi thần linh:…“Nói khác đi, văn hoá nào cũng phải dựa vào một sự thông tin nào đó của thần linh?”.
Như đã nói ở trên, văn hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt tinh thần lẫn vật chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng nhất định… Văn hóa phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán, giáo tiếp, ứng xử, văn chương, nghệ thuật… Tất nhiên, quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ thuộc vào các tiêu chí mà nền văn hóa đó yêu cầu. Do vậy, Khi Vatican nói đến “văn hóa đức tin”, ta phải hiểu rằng đó là một quan điểm về văn hóa của riêng Vatican mà thôi, không thể quy chụp “văn hóa đức tin” cho tất cả các nền văn hóa khác. Các tiêu chí mà Vatican đề nghị cho nền “văn hóa đức tin” của mình không thể “phổ quát” làm nền tảng căn bản cho tất cả các nền văn hóa khác. Do đó, khi Hồng Y Joseph Ratzinger viết: “Trước hết, cần phải xác định rằng đức tin tự nó là văn hoá. Không có đức tin trần trụi, cũng chẳng có văn hóa thuần túy. Nói cách khác, khi đức tin cho ta biết con người là ai và phải trở nên người như thế nào là đức tin đã tạo ra văn hoá…” đó là quan điểm của cá nhân ông, còn nếu ông lấy tư cách Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin, thì đó là quan điểm của Nhà nước Vatican, của Giáo hội Công giáo, chứ không thể xem đó là quan điểm chung cho tất cả mọi nền văn hóa, vì thế chúng ta không thể nào chấp nhận việc dựa trên sự “phổ quát” ảo tưởng của “văn hóa đức tin” để o ép, áp đặt một cách kỳ quái: “Con người phải cần mẫn học cách vươn lên để được sung mãn và đạt đến những điều phổ quát, là những điều không thuộc về một dân tộc riêng lẻ nào mà chính xác là thuộc về dân Chúa…”
2. ĐỨC TIN THÁCH THỨC VĂN HÓA
Trở lại với Tông huấn Giáo hội tại Châu Á. Đoạn số 21,22 Tông huấn đề cập đến vấn đề “Hội nhập văn hóa”. Tông huấn viết : “…Ngày nay vấn đề trở nên cấp thiết đặc biệt khi so sánh với tình hình đa chủng tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa của Châu Á, một nơi vẫn coi Kitô giáo như một cái gì xa lạ…”.
Khi Vatican đối mặt với văn hóa, tôn giáo Châu Á. Tâm lý xem thường, đánh giá thấp các nền văn hóa và tôn giáo ấy đã đẩy Vatican từ thất bại này đến thất bại khác… “Hội nhập văn hóa” chẳng phải là cái gì quá mới mẻ… Roberto de Nobili, Matteo Ricci được xem là “người hùng”, kẻ tiên phong trong việc đưa văn hóa Kitô giáo hội nhập vào nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa từ thế kỷ 16, nhưng cũng trớ trêu khi chính Vatican công kích, khiển trách họ về tội “dám” hội nhập văn hóa không theo truyền thống của Giáo hội. Chính Giáo hoàng Bênêđitô XIV kết án phương pháp truyền đạo của Roberto de Nobili ở Ấn Độ. Matteo Ricci cùng chung số phận với lời cáo buộc phá hoại việc truyền giáo tại Trung Hoa. Đến năm 1939, Giáo hoàng Piô XII mới thừa nhận và “tuyên dương công trạng” cho họ khi xét thấy suốt bốn thế kỷ công cuộc truyền giáo tại Châu Á vẫn trong tình trạng “dậm chân tại chỗ”. Một trong những nét độc đáo nhất của văn hóa Phương Đông là truyền thống xem trọng lễ nghĩa, gia đình dòng tộc là nền tảng của xã hội. Đạo Hiếu được xem là đặc trưng văn hóa của các dân tôc Phương Đông. Nhưng khi đến truyền đạo, các thừa sai Công giáo theo lệnh của Vatican buộc Kitô hữu Phương Đông phải triệt phá bàn thờ tổ tiên! Hành động “phi lễ nghĩa” buộc Vatican phải trả giá, văn hóa Kitô giáo bị tẩy chay. Trước thực tế đó, buộc Vatican phải áp dụng chính sách “xét lại”. Ngày 8/12/1939, Giáo hoàng Piô XII ban hành Huấn dụ Plane Compertum thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên ở Trung Hoa. Ngày 14/6/1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã chính thức công bố thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên với sự duyệt y của Vatican. Huấn dụ Plane Compertum của Giáo hoàng Piô XII thực ra chỉ là biện pháp “chữa cháy”. Nội dung vẫn phản ánh tinh thần “đạo phiệt” với những ngôn từ như: “cho phép” giáo hội Trung Hoa và các giáo hội lân cận “được phép” thờ cúng tổ tiên! Người Kitô hữu Phương Đông phải tự hỏi Vatican lấy quyền gì? và vì sao việc thờ cúng tổ tiên của mình lại phải được Vatican “cho phép” mới “được phép” thực hiện? Văn hóa Kitô giáo trở nên xa lạ với các dân tộc Châu Á không phải vì người Châu Á cố chấp, hẹp hòi, không muốn chấp nhận văn hóa Kitô giáo, nhưng vì thái độ áp đặt, tự phụ, kêu căng, trịch thượng của Vatican.
Trước những thất bại liên tục, buộc Giáo hội phải nhìn lại và thừa nhận “Hội nhập văn hóa” là con đường tất yếu để có thể tồn tại trước một thế giới đa văn hóa… Từ Công đồng Vatican II đến nay, “Hội nhập văn hóa” được xem là một trong những tiêu chí mà Giáo hội phải đạt được nhằm thực hiện tham vọng “Công giáo hóa” Châu Á. Muốn thế Vatican “…Không thể xây dựng nước Chúa mà không vay mượn một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại…” (S21)
Trong quá trình hội nhập, các nền văn hóa tiếp thu tinh hoa của nhau để làm giàu nền văn hóa của mình đã trở thành một xu thế tất yếu. Nhưng đối với Vatican, họ “vay mượn một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại … thu dụng nhiều yếu tố tích cực tìm thấy được từ các nền văn hóa khác nhau ấy…” chỉ nhằm mục đích “xây dựng nước Chúa”. Tất nhiên, Vatican có quyền làm như vậy, có điều “Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới. Giáo hội truyền đạt các chân lý của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong…” là điều các dân tộc Châu Á không bao giờ chấp nhận, nó phơi bày lộ liểu tham vọng đồng hóa các nền văn hóa Châu Á thành văn hóa Kitô giáo bằng những ngôn từ hoa mỹ: “đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong…”
Lợi dụng hội nhập văn hóa để Công giáo hóa Châu Á càng lộ liễu hơn khi Tông huấn viết tiếp: “các nền văn hóa khác nhau ấy một khi đã được tinh lọc và đổi mới lại dựa vào Tin Mừng sẽ trở thành những cách biểu đạt rất chính đáng đức tin duy nhất của Kitô giáo…”. Người Châu Á có thể khẳng định: Vatican chưa đủ tư cách để “đổi mới và tinh lọc các nền văn hóa” Châu Á, bất chấp Vatican sử dụng lá bùa hộ mệnh “Chúa Thánh Thần” vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu của mình để “hù dọa” các dân tộc Châu Á: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô giáo hội nhập văn hóa vào Châu Á…Thánh Thần tạo điều kiện cho cuộc đối thoại với các giá trị văn hóa và tôn giáo của các dân tộc ấy một cách nào đó rồi, ban cho những ai thiện chí nghị lực cần thiết để thắng vượt sự dữ và mưu mô của Thần Dữ, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người được tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ có Chúa biết?…” Tôi có cảm tưởng tác giả bản Tông huấn đang “mộng du” trên con đường “hội nhập văn hóa” của mình. “Chúa Thánh Thần” đã “tạo điều kiện” cho cuộc đối thoại của Vatican với các nền văn hóa Châu Á bằng “một cách nào đó rồi… chỉ có Chúa biết?” mà chính tác giả dù được “thông ban sự sáng” cũng mù mờ không thể biết!? Đã thế, từ chỗ “mù mờ không biết…” đi đến chỗ miệt thị các nền văn hóa đủ mạnh để kháng lại sự áp đặt “văn hóa đức tin” của Vatican bằng những ngôn từ nghe rất buồn cười: “sự dữ…, mưu mô thần dữ…”. Tóm lại hành trình văn hóa của Vatican ở Châu Á chỉ là dự phóng không tưởng.
Từ dự phóng không tưởng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Tông Huấn mang “văn hóa đức tin Kitô giáo” ra để “…thách thức mọi nền văn hóa dám vươn tới những đỉnh cao mới của sự hiểu biết và diễn đạt…”(S20). Quyết tâm của Vatican đã quá rõ ràng và trở nên quyết liệt hơn khi muốn tầt cả các nền văn hóa Châu Á phải được định vị từ “Đức tin Kitô giáo”. Và vì thế, “trái tim giáo hội sẽ không bao giờ nghỉ ngơi bao lâu toàn bộ Châu Á chưa tìm được sự nghỉ ngơi trong Đức Kitô, Đức Chúa Phục Sinh” (S10). Nói cách khác, bằng mọi cách, Vatican không bao giờ tự cho phép mình “nghỉ ngơi” chừng nào toàn bộ nền văn hóa của các dân tộc Châu Á chưa được định vị từ văn hóa kitô giáo.
Văn hóa, như có người ví là “món ăn tinh thần”, món ăn rất đa dạng, phong phú, có thể hợp với khẩu vị người này, nhưng không hợp khẩu vị với người khác. Có món giàu chất này lại cũng có món giàu chất khác. Hương vị của chúng lại cũng rất khác nhau, nhưng tất cả chúng đều có một đặc tính chung là “bổ dưỡng”. Nếu tất cả những “món ăn tinh thần” đó được bày trên “bàn tiệc văn hóa” để mọi người cùng lựa chọn thưởng thức, “thực khách” có cơ hội tự do chọn lựa món ăn hợp khẩu vị với mình. Điều quan trọng là chúng ta phải ăn chứ không phải chỉ nhìn để bình phẩm về món ăn, Tuy nhiên, không loại trừ khả năng vì một lý do nào đó (có thể là vô tình hoặc cố ý) mà những món ăn bổ dưỡng kia lại bị lẫn lộn sạn, cát… làm cho món ăn mất ngon, thậm chí không thể dùng được. Trong lĩnh vực văn hóa cũng thường thấy có những yếu tố phản văn hóa mà những nhà bảo vệ văn hóa cần phải loại bỏ. Người viết tập sách này tự xác định mình không làm công việc của một nhà phê bình văn hóa, nhưng cảm thấy có trách nhiệm phải “nhặt sạn” (nếu có) trong những “món ăn tinh thần” hầu trả lại giá trị vốn có của chúng.
Hội nhập văn hóa là một vấn đề không phải mới, nhưng chúng trở nên ngày càng quan trọng trong xã hội loài người. Khi đời sống vật chất được nâng cao thì nhu cầu hưởng thụ tinh thần cũng được nâng cao theo tỷ lệ thuận với đời sống vật chất… Trong một thế giới đa chủng tộc, đa văn hóa, xu thế giao lưu, hội nhập văn hóa đang ngày càng phát triển, các thực thể văn hóa không thể tự đóng khung, tự cô lập mình để chấp nhận quy luật tự đào thải. Khẩu hiệu “hòa nhập mà không hòa tan” giữa các nền văn hóa đã và đang được cổ vũ mạnh mẽ, khuynh hướng giao lưu, giới thiệu bản sắc văn hóa giữa các nền văn hóa của các quốc gia trên thế giới ngày càng được các nhà làm văn hóa quan tâm ủng hộ tích cực. Hội nhập văn hóa là cách tự giới thiệu tinh hoa văn hóa mình với thế giới đồng thời tiếp thu văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa mình phong phú hơn.
Ngày nay, khi trình độ con người đã phát triển cao về mọi mặt, giao thông thuận tiện, công nghệ thông tin đã chứng tỏ ưu thế của minh trong lĩnh vực thông tin liên lạc với thế giới bên ngoài, “Toàn cầu hóa” không chỉ có ý nghĩa trong lãnh vực kinh tế mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề giáo dục, văn hóa, xã hội, thậm chí cả lĩnh vực được xem là tế nhị, nhạy cảm như lĩnh vực tôn giáo. Trong viễn cảnh ấy vấn đề “hòa nhập” được xem như là một xu thế tất yếu. Hòa nhập mà không hòa tan là một khẳng định của nhiều nền văn hóa, nhờ không hòa tan mà văn hóa ngày càng phát triển, nhưng vẫn giữ được bản chất, sắc thái đặc thù của mỗi nền văn hóa.
Nếu hội nhập văn hóa đã là khuynh hướng chung của mọi quốc gia trên hành tinh này, thì “quốc gia Vatican” cũng không thể ngoaị lệ nếu không muốn tự cô lập, tự đào thải. Vì vậy, hội nhập văn hóa là một trong những nội dung quan trọng được Vatican vạch ra từ Công đồng Vatican II. Nhưng Vatican đã “hội nhập” với thái độ nào? Đó là điều mà hiện nay nhiều người đang quan tâm.

CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”

Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán

Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com

9. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”
Arius “đảo chánh Ngôi Hai”
Năm 321, Linh mục Arius khởi xướng học thuyết mới, đẩy Kitô giáo vào cuộc khủng hoảng nặng nề. Cuộc tranh biện về “Thiên Tính của Giêsu” giữa Arius và các giáo phụ Rôma đã khiến nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù đày.
Giáo thuyết của Arius khởi đi từ việc thừa nhận một Thiên Chúa duy nhất, tự hữu. Nhưng Thiên Chúa của Arius không thể thông đồng bản tính của mình cho ai kể cả Giêsu. Arius mượn một câu trong phúc âm của Gioan “Cha ta cao trọng hơn ta…” (Ga 14:28) để chứng minh rằng: Giêsu không phải là Thiên Chúa, không cao trọng, ngang bằng Thiên Chúa, không đồng bản tánh với Thiên Chúa. Giêsu chỉ là người được Thiên Chúa chọn làm con, làm nhiệm vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Học thuyết của Arius được nhiều Giám mục và tín đồ ở các giáo hội Đông phương hưởng ứng. Để vấn đề được rõ ràng, Công đồng Alexanđria được triệu tập có khoảng 100 Giám mục tham dự trong đó có cả Arius. Kết quả Công đồng phi bác học thuyết và kết án Arius phải đi đày. Nhưng Arius được sự hậu thuẫn của Giám mục Eusebiô, từ đó cuộc “chiến tranh tín lý” ngày càng dữ dội hơn. Constantine là một kẻ “hộ giáo” đầy quyền lực của giáo hội Rôma. Ông quyết định triệu tập một đại Công đồng tổ chức tại Nikêa. Công đồng Nikêa bắt đầu làm việc từ ngày 20/5/325 dưới sự chủ trì của chính hoàng đế La Mã Constantine. Một văn kiện được đưa ra buộc mọi người phải tin và ký nhận: Nội dung văn kiện được tóm tắt vài điểm chính như sau :
“Tin một Thiên Chúa toàn năng là Cha, ngài là Đấng tạo dựng. Tin Giêsu là con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, Giêsu cũng là Thiên Chúa, được sinh ra nhưng không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, từ trời xuống thế để cứu rỗi con người… Giáo hội Rôma sẽ tuyên án những ai nói rằng: Giêsu không có từ trước muôn đời. Trước khi Ngài sinh ra Ngài chưa có. Ngài bởi không hoặc bởi bản thể khác mà được tạo dựng…”
Với một văn kiện có tính áp đặt như thế nên nhiều người đã không ký, tất nhiên Arius cũng không ký, ông bị trục xuất khỏi giáo hội và lãnh án lưu đày đến tận Ba Tư. Có nhiều người ký vào văn kiện chỉ vì sợ bị tù tội. Một số người đã ký, sau đó xin rút lại chữ ký như Giám mục Eusebiô, Giám mục Theognis, Giám mục Maris. Cả ba ông này lập tức bị bắt và bị lưu đày.
Năm 337, hoàng đế Constantine băng hà, quyền lực đế quốc thuộc về hai người con: Constant và Constanciô. Năm 350, Constant băng hà, Constanciô nắm trọn quyền điều hành đế quốc. Năm 351 Constanciô triệu tập Công đồng Sirmium đưa ra một văn kiện mới: “Tin một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng và con một Người, Chúa Giêsu Kitô sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, bởi người mà mọi vật được tạo thành…” Nhưng lần này thì chính những người có uy tín nhất của giáo hội Rôma là Giám mục Athanasiô và Giáo hoàng Liberiô không ký văn kiện. Những người chống lại công đồng đều phải bị tù đày kể cả Giáo hoàng Liberiô.
Công đồng Sirmium II (357) lại đưa ra một văn kiện nhằm hạ thấp vai trò của Giêsu: “… Chúa Cha cao trọng hơn chúa con, người vượt lên trên chúa con về danh vọng, quyền bính, vinh quang và cả danh hiệu làm cha của người…” Công đồng này hoàn toàn phủ nhận sự “đồng bản tính” giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Nhưng công đồng Sirmium III lại công bố: “Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha…”
Nestorius “phẩu thuật Ngôi Hai”
Nestorius(380-440), Giáo chủ Constantinopoli chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua Thiên Tính trong con người của Giêsu. Với chủ trương như vậy, Nestorius đã đưa lên bàn mổ “phẩu thuật” Ngôi Hai Thiên Chúa của Công giáo “Ngôi Lời” và “Giêsu” ra làm hai mảnh riêng biệt. Từ đó đi đến một hệ luận: Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Hoàng đế La Mã lúc đó là Theođosiô II triệu tập Công đồng Ephesô. Ngày 22/6/431, cách chức và tuyên án Nestorius đồng thời khẳng định: Maria chính là mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Chính tại công đồng này là nơi khai sinh ra kinh Kính Mừng: “…Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử…” Công đồng Ephesô kết thúc với sự nhìn nhận : “Giêsu có hai bản tính. Đồng bản tính với Đức Chúa Cha về Thiên Tính và với loài người về Nhân Tính…” Điều trớ trêu là sự nhìn nhận còn nóng hổi chưa kịp nguội thì một giáo thuyết mới xuất hiện: Phủ nhận Nhân Tính, Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất, tức Thiên Tính. Tác giả của giáo thuyết mới này là Eutikê (378-454). Giáo thuyết này được sự ủng hộ của Đioscorô, Giáo chủ Alexanđria. Nhưng điều lạ là khi Eutikê bị Giáo Hoàng Leô (440-461) tuyên án thì chính Hoàng đế Lamã Theođosiô lại bênh vực cho Eutikê. Một công đồng mới lại được triệu tập. Một đội vệ binh tinh nhuệ được điều đến làm nhiệm vụ. Giáo chủ Dioscorô chủ trì công đồng. Ông lệnh cho binh sĩ bắt hết tất cả các Giám mục chống đối và tuyên bố : “Giết chết ngay những kẻ dám tuyên bố Giêsu có hai bản tính”. Giám mục Flavian là nạn nhân đầu tiên của bi kịch, ông bị đánh chết tại chỗ, về sau ông được giáo hội “phong thánh”.
Về Chúa Thánh Thần cũng thế. Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Năm 381, Hoàng đế Theođosiô (379-395) triệu tập Công đồng Constantinopoli để bổ túc những thiếu sót của Công đồng Nikêa về Chúa Giêsu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô…” đồng thời phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… : “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…” Tất nhiên chỉ có những kẻ “điếc không sợ súng” mới dám chống lại Công đồng!
Thái độ của người Châu Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” - “Ngôi Vị”
Người Châu Á phi Kitô giáo ngày nay không hiểu Thiên Chúa của Công giáo La Mã “quan phòng” kiểu gì mà nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù tội, tra tấn, lưu đày chỉ vì họ đã tham gia vào cuộc tranh biện “Đồng Bản Tính” (homoousios), “Ngôi Vị” (hypostasis) của Thiên Chúa!
Công giáo La Mã ngày nay đã kết án những người có chủ trương đi ngược lại tinh thần công đồng Nikêa được đúc kết lại trong kinh Tin Kính là “lạc giáo”. Nhưng đối với người Châu Á phi Kitô giáo, chuyện “lạc” hay “không lạc” là chuyện nội bộ của của các hệ phái Kitô giáo. Người Châu Á phi Kitô giáo chỉ nhìn vấn đề với một thái độ bàng quan để nhận định: “Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, có tính phổ quát cho toàn nhân loại” là cái lõi của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á mà Vatican muốn tất cả các dân tộc Châu Á phải thừa nhận, lại cũng chính là cái lõi gây ra cuộc “chiến tranh tín lý” đã cướp đi bao sinh mạng ngay trong nội bộ giáo hội.
Trước những sự kiện lịch sử không thể phủ nhận, buộc người Châu Á ngày nay phải nghĩ rằng: Giêsu là một con người tội nghiệp bị lợi dụng, là nạn nhân của những thế lực núp bóng tôn giáo. Vì thế, cần phải “Cứu Độ Giêsu”, phải trả lại cho Giêsu những gì ông có và đừng bắt ông phải nhận lấy những gì mà ông không có…
10. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
Nhiều học giả nghiên cứu Kitô giáo cho rằng “Chúa Thánh Thần” chẳng qua là sản phẩm của công đồng Nikêa. Theo các nhà nghiên cứu, cái mà ngày nay Kitô giáo gọi là “Chúa Thánh Thần” không hề có trong thời Giêsu và các tông đồ. Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế Ký mô tả “Thần Khí” bay là là trên mặt nước (St 1,2) … làm ta hình dung đến một hiện tượng vật lý rất tự nhiên mà ngày nay khoa vât lý học gọi là sự bay hơi (bốc hơi), chúng tạo nên một màn sương mờ mờ ảo ảo… Sự nhân cách hóa một hiện tượng tự nhiên thành một vị thần như: thần sông, thần biển, thần gió, thần núi v.v… là sinh hoạt tín ngưỡng thời sơ khai của con người trong xã hội nguyên thủy. “Thần Khí” của con người thời sơ khai trong Cựu Ước cũng không ngoại lệ.
Trong Tân Ước, “Thần Khí” còn được biết đến dưới một tên khác: “Thánh Linh” (Holy Ghost, Holy Spirit) được biểu thị bằng một con “chim bồ câu” (xuất hiện khi Giêsu chịu phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên sông Giôđan), hoặc biểu tượng “đốm lửa” (xuất hiện trên đầu các tông đồ khi các ông đang hội họp trong nhà Tiệc Ly). Có học giả cho rằng: “chim bồ câu” hoặc “đốm lửa” là vết tích của tín ngưỡng Tôtem, bái vật trong thời kỳ tiền Kitô giáo…
Dấu ấn của Tôtem giáo
Tôtem giáo là một hình thức tín ngưỡng quan trọng vào bậc nhất của xã hội nguyên thủy. Khoa khảo cổ học đã chỉ ra ý nghĩa của những bức tranh khắc trên vách đá được tìm thấy trong các hang động thời kỳ đồ đá, mô tả lễ hội tín ngưỡng Tôtem. Nét độc đáo của lễ hội này là ăn thịt Tôtem (vật tổ) sau khi đã thực hiện nghi thức cúng bái Tôtem. Người nguyên thủy tin rằng: ăn thịt vật tổ là cách để vật tổ có thể tồn tại mãi trong mỗi con người. “Ăn” không phải để giải quyết “vấn đề bao tử” mà ăn trong một trạng thái tâm linh hưng phấn, một nghi thức vô cùng thiêng liêng. Nghi thức ăn thịt Tôtem (vật tổ) mang một ý nghĩa triết lý sâu xa trong tâm thức người nguyên thủy. Thông qua nghi thức ăn vật tổ mà con người thực hiện việc chuyển hóa quan hệ huyết thống họ hàng sang quan hệ thiêng liêng với Tôtem, vật tổ. Niềm tin vào sự hóa thân của vật tổ vào tất cả mọi thành viên trong cộng đồng đã khiến cho người ta tin rằng: Khi một phụ nữ mang thai thì chính Tôtem đã tạo ra cái thai đó…
Dấu ấn của Tôtem giáo còn khá rõ nét trong Kitô giáo nguyên thủy. Chim bồ câu chính là Tôtem vật tổ, Khi Maria mang thai thì chính Tôtem đã “phủ” lên bà. Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cũng có nghĩa là bởi Tôtem vật tổ, tức chim bồ câu… Nghi thức “ăn thịt vật tổ” trong tín ngưỡng Tôtem cũng lại được tìm thấy trong “Bí tích Thánh Thể” của Kitô giáo. Trước ngày “chịu nạn”, Giêsu họp các môn đồ lại, cầm bánh bẻ ra và chia cho các môn đồ nói: “Đây là thịt ta, các con hãy ăn…”. Sau đó ông lấy rượu và chia cho môn đồ rồi nói: “Đây là máu ta các con hãy uống…” Dù đó chỉ là một nghi thức tượng trưng với bánh và rượu chứ chẳng có “máu thịt” gì cả! Nhưng nó đã minh chứng ảnh hưởng của tín ngưỡng Tôtem trong giáo thuyết Kitô giáo. Tín điều “Ba Ngôi” xác định: Chúa Cha, Chúa Con (tức Giêsu) và Thánh Thần (biểu tượng chim bồ câu) chỉ là một. “Ăn thịt, uống máu” Giêsu cũng có nghĩa là của Chúa Thánh Thần, mà Thánh Thần lại chính là “con chim bồ câu”, tức Tôtem vật tổ…
“Chúa Thánh Thần” Sản phẩm của công đồng Nikêa
Chương ba của Tông huấn nói về “Chúa Thánh Thần”. Đoạn số 15,18 trong chương này viết : “…Chúa Thánh Thần là mặc khải riêng của Tân Ước…”. “Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?), rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai (?),…” (S15,18). Đây là lối nói khoa trương, phóng đại, hoàn toàn không có căn bản từ Thánh Kinh. Thật vậy, nếu trong Cựu ước, “Thần khí” được nhắc đến hơn 300 lần thì trong Tân ước, “Thánh Linh” được nhắc đến rất ít, cụ thể là Gioan nhắc đến 5 lần (Ga 1:32,33 , 3:5,6,8,34 , 7:39, 14:26, 20:22). Matthêu 7 lần(Mt:1:18,20, 3:11,16, 4:1, 10:20, 12:18,28,31,32, 22:43, 28:19).Luca 6 lần (1:15,35,41,67, 2:25,26,27, 3:16,22, 4:1,14,18, 10:21, 11:13). Và ít nhất là Máccô, vỏn vẹn có bốn lần trong toàn bộ Phúc Âm của ông. Lần thứ nhất: lúc Giêsu chịu phép báptêm của Gioan tại sông Giođan (Mc 1:8,10,12). Lần thứ hai: Giêsu trả lời các kinh sư khi họ cho rằng ông bị quỷ ám (Mc 3:29). Lần thứ ba: Đa-vít cảm nhận Đức Thánh Linh (12:36) Lần thứ tư: lúc Giêsu giảng dạy môn đồ (Mc 13:11). Còn “Chúa Thánh Thần” thì hoàn toàn “vắng bóng” cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tất nhiên, người Kitô hữu sẽ nói rằng: “Thần Khí” hay “Thánh Linh” chính là “Chúa Thánh Thần” tức “Ngôi Ba Thiên Chúa”. Nhưng đó chỉ là tín điều của Giáo hội buộc tín đồ phải tin, hoàn toàn không có căn cứ….
Chúa Thánh Thần như người ta hiểu ngày nay là: Đấng thông ban sự sống, Đấng bảo trợ, hướng dẫn, dìu dắt, là ánh sáng, sức mạnh v.v… Vị Chúa này chỉ được biết đến từ công đồng Nikêa. Mãi 300 năm sau, kể từ ngày Giêsu qua đời, Chúa Thánh Thần mới được “sinh ra”, mà lại “sinh ra” trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Người “sinh ra” Chúa Thánh Thần chẳng ai xa lạ, chính là Constantine hoàng đế của đế quốc La Mã. Lịch sử ghi nhận rằng: năm 325 Hội nghị các Giám mục được hoàng đế La Mã là Constantine triệu tập tại Nikêa (Thổ Nhĩ Kỳ) gọi là Công đồng Nikêa-Constantinopoli. Trong công đồng này, người ta đưa ra một số tín điều buộc mọi người phải tin, trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng Trinh v.v… các tín điều trên được tóm tắt trong một văn bản mà ngày nay ta gọi là “kinh Tin Kính”. Chúa Thánh Thần được “khai sinh” từ đó.
Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Có nhiều chứng cứ từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để họ tin như thế. Ngay danh xưng “Thần Khí” cũng đã hàm xúc một cái gì đó được Chúa Cha tạo ra để ban lại cho con người: “Nhờ bởi Thần Khí mà Ngài đã ban cho ta…” (Rm 5:5) v.v… Tất nhiên, quan điểm xem Chúa Thánh Thành là tạo vật bị giáo hội bác bỏ.
Năm 381, Công đồng Constantinopoli được triệu tập bởi Hoàng đế Theođosiô (379-395). Công đồng đã phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… Văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” một lần nữa lại được bổ sung: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…”
“Chúa Thánh Thần” của Vatican ngày nay
Đặc điểm của Chúa Thánh Thần thời đó là: ban ơn, che chở, giữ gìn cho các tín đồ. Ngày nay khoa thần học đã “nâng cấp” Chúa Thánh Thần lên rất nhiều bậc… nào là sáng tạo lịch sử, hoạt động và hướng dẫn lịch sử v.v… Ngài là biểu tượng của sức mạnh và là sự khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, Vatican đã “bắt” Chúa Thánh Thần phải “khôn ngoan” đến mức “tinh quái”. “…Khi ban Thánh Thần Đức Kitô cho Giáo hội, là Chúa cũng đồng thời ban hoa trái sứ mạng cứu độ của Ngài cho mọi dân tộc qua mọi thời đại dựa vào việc Giáo hội công bố tin mừng và yêu thương phục vụ gia đình nhân loại… Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để đóng vai trò của mình trong việc hoàn thành chương trình của chúa”(S17). Dù “khôn ngoan tinh quái” nhưng Chúa Thánh Thần vẫn bị Vatican đánh lừa, xỏ mũi… Đọc đoạn trích dẫn trên ta có thể nhận ra ngay dù Chúa có “ban này, ban nọ…” cho mọi dân tộc qua mọi thời đại, nhưng phải “dựa vào việc giáo hội công bố…”. Nếu không “dựa vào” nghĩa là không được giáo hội “cho phép” thì Chúa muốn ban cũng đành “chào thua..” Nhưng “siêu” nhất là Vatican đã “bắt” Ngài phải “chui tọt” vào trong các tôn giáo như Phật giáo, Ấn giáo, để làm “gián điệp” cho Vatican… “Giáo hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo Á Châu này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn. Giáo hội trong chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta mới tìm được nước hằng sống đem lại sự sống đời đời, hay cụ thể hơn, cho họ hiểu biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai đến…” (S18).
Người đọc vô tư, khách quan, không thiên kiến khi đọc đoạn trích dẫn trên cũng phải tự hỏi: Chúa toàn năng hay Vaticăn toàn năng? Vì 97% dân chúng phi Kitô giáo ở Châu Á chưa hề biết Giêsu là ai! Chúa Thánh Thần là ai? Chúa không thể tự bộc lộ mình trước quần chúng Châu Á mà phải thông qua Vatican, phải được Vatican tạo điều kiện: “Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau…” Đó là chưa nói đến việc quần chúng Châu Á có “cần gặp” hay không.
Tuy nhiên với phong cách vốn có của mình Vatican cứ tiếp tục giọng điệu quen thuộc: “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ…”(S15) “…Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo, đều là sự chuẩn bị cho tin mừng và có thể hiểu đó cũng chỉ là quy chiếu về Đức Kitô…”(S16). Tuy nhiên, để không bị “hố” trước vấn nạn mà người Châu Á phi Kitô giáo có thể đặt ra là: Giải thích thế nào về con số 3% tín đồ Kitô giáo mà nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trong tổng số 3,3 tỷ người trên lục địa Châu Á? Chúa Thánh Thần ở đâu? Ngài đang làm gì? Nếu “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần” trên lục địa này chỉ mang lại một kết quả “quá ư khiêm nhường” như thế liệu Ngài còn được Vatican “tín nhiệm” không? Giáo Hoàng là người khôn ngoan, nên ông có thể đón trước vấn nạn: “Không được vin cớ Chúa Thánh Thần có mặt khắp nơi để bào chữa cho việc không thể công bố Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy nhất và có một không hai…”(S16). Nếu Chúa Thánh Thần nghe được, có lẽ Ngài cũng phải “phì cười” và khen ngợi sự thông minh của Giáo Hoàng…
Quyết tâm của Vatican đã đạt đến cao điểm trong tuyên bố của Giáo Hoàng: “Dù Giáo Hội sung sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật giáo, An Độ giáo và Hồi giáo đều là phản ánh sự thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là giáo hội phải bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức tuyên bố một cách dứt khoát Đức Giêsu Kitô là đường đi, sự thật và sự sống… Thật ra tín đồ trong các tôn giáo ấy vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết mọi người” (S31)

QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á

Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán

Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com
7. QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á.
Giáo hoàng: Nguyên thủ quốc gia hay chức sắc tôn giáo?
Nhận định về tình hình chính trị tại Châu Á, Giáo hoàng viết: “Tại Châu Á ngày nay tình hình chính trị vô cùng phức tạp, với đủ mọi ý thức hệ từ những hình thức chính phủ dân chủ đến những hình thức cai trị thần quyền, các chế độ độc tài quân sự và các ý thức hệ vô thần đang có mặt rất rõ… tại một số nơi Kitô hữu không được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được phép giới thiệu đức Giêsu cho người khác…. Tuy nhiên, khắp nơi tại Châu Á, càng ngày người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công ấy… ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ… Những tập thể thiểu số về văn hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động” nay đang tìm cách làm chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình. Thánh Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hổ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là được sống dồi dào hơn như chúa hằng mong muốn”(S8).
Luận điệu trên rõ ràng là luận điệu của một nhà chính trị chứ không phải của một lãnh tụ tôn giáo. Mà cũng đúng thôi khi chúng ta đã từng biết Vatican là một quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn của nó. Như tôi đã trình bày ở trên: Vatican là một quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và tất nhiên là có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Vatican đều được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng với Thụy sĩ, Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp Quốc là vì muốn giữ thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp Quốc chắc chắn phải có lý do riêng của nó. Chính cái nhà nước Vatican này đã một thời làm mưa làm gió trên lục địa Châu Âu. Toà án dị giáo và giàn hỏa là biểu tượng của quốc gia này. Ngày nay, tuy không còn những binh đoàn thập tự quân hùng hậu, nhưng thay vào đó là các hệ thống ngân hàng, các tập đoàn kinh tế đã mang về cho Vatican những món lợi nhuận khổng lồ mà đối với nhiều tôn giáo khác là “mơ không thấy nổi”. Ngoài ra, Vatican còn nắm trong tay các phương tiện truyền thông đại chúng, hệ thống kênh truyền hình, phát thanh phát đi khắp thế giới. Đây cũng là một thế mạnh mà đứng ở góc độ tôn giáo, không tôn giáo nào trên thế giới có thể sánh bằng: “Giáo hội Châu Á cần ý thức về sức mạnh và vai trò của truyền thông đại chúng và về những phương tiện thông tin xã hội đa dạng, để có thể vận dụng chúng như những khí cụ loan truyền sứ điệp tin mừng tại lục địa này” (Relatio Ante Disceptationem).
Sự kích động đức tin phục vụ tham vọng chính trị
Vì vậy khi Giáo Hoàng kêu gọi: “…khắp nơi tại Châu Á, càng ngày người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công ấy… ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ…” thì chúng ta phải hiểu rằng đó là lời hiệu triệu của một ông vua đứng đầu một nước, chứ không phải đó là một lời than vãn của chức sắc tôn giáo trước sự bất công xã hội… Lời hiệu triệu lại càng “dễ sợ” hơn khiến cho những nhà lãnh đạo của các quốc gia Châu Á không thể không dè chừng: “Những tập thể thiểu số về văn hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động” nay đang tìm cách làm chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình”.
Chúng ta biết rằng, dân số thế giới hiện nay khoảng 6,3 tỉ người, tại Châu Á, một lục địa mà dân số chiếm đến gần 2/3 dân số thế giới, Tỷ lệ tín đồ Kitô giáo bao gồm tất cả các hệ phái: Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo, Công giáo v.v… khoảng 3%, tuy nhiên Anh giáo không có mặt tại Châu Á, Chính Thống giáo lại là thiểu số ở các ở các quốc gia mới độc lập tách ra từ Liên xô cũ, còn lại là Tin Lành và Công giáo. Đấy! Cái thiểu số 3% này đang “án binh bất động” để chờ phát súng lệnh của Vatican. Điều khôi hài là “phát súng” này không phát ra từ những chiến binh kiêu hùng của đoàn quân thập tự chinh thời trung cổ, mà phát ra từ “Chúa Thánh Thần”, Ngài phát ra một “viên đạn bọc đường” mà từ đó Kitô hữu (cả Tin Lành lẫn Công giáo) cùng “xung phong!…, tiến!…”: “Thánh Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hỗ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là được sống dồi dào hơn như Chúa hằng mong muốn” (S8).
Tại Việt Nam, năm 1954, hàng triệu tín đồ Công giáo bỏ miền Bắc di cư vào Nam, định cư tại các vùng Gia Kiệm, Hố Nai… Họ rời bỏ quê hương tha phương cầu thực ở vùng đất lạ không phải là một chọn lựa mang tính ý thức hệ mà chỉ vì “Chúa Kitô đã bỏ Bắc Việt, Đức Mẹ đã di cư vào Nam…”. Chính quyền Thiên Chúa Giáo Ngô Đình Diệm (1955-1963) đã muốn biến Việt Nam thành một quốc gia Kitô giáo, lấy Công giáo làm quốc giáo… và gần đây nhất là sự kiện Đạo “Vàng Chứ” của dân tộc Mông ở biên giới phía Bắc và “Nhà nước Tin Lành ĐêGa” của các sắc tộc Giarai, Bana, Eđê… ở cao nguyên miền Trung là một bài học mà bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng phải đề phòng….
8. VỀ MỘT VẤN ĐỀ “GÂY KHÓ CHỊU” CỦA VATICAN NHƯNG KHÔNG PHẢI CHO NGƯỜI CHÂU Á
Sự xung đột thần học giữa những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô giáo.
Đoạn số 12, Tông huấn viết: “Điều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người” (S12). Thực ra, chẳng ai “khó chịu” khi Kitô giáo tin rằng Chúa của họ là “Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tinh con người…” ngoại trừ Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nhưng cả hai tôn giáo này cùng với Kitô giáo đều cùng một gốc, cùng tin nhận chúa của Abraham. Chúng ta biết rằng, Giêsu là một con người bình thường như mọi người, người gốc Nazaret, năm ba mươi ba tuổi bị kết án tử hình treo trên thập giá… chính con người này mà hành trạng của ông đã được những người theo ông (môn đệ) kể lại, về sau được các ông Luca, Matthêu, Maccô, Gioan ghi chép, tập hợp thành một bộ sách mà ngày nay người ta gọi là Tân Ước, Phúc Âm hay Tin Mừng… Bản thân của Giêsu chưa bao giờ tự nhận mình chính là Thiên Chúa, ông chỉ nói ông là “con Đấng Tối Cao” (Lc 1:32) người mà ông tôn thờ là Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha. Ông nói: “không thể đến với Cha ta mà không qua ta”(Ga14:6), “Cha ta ở trong ta và Ngài đang làm việc” (Ga14:10)…v.v… ông chỉ tự xưng mình là Thầy với môn đồ của ông, tuyệt nhiên chưa bao giờ tự nhận mình là Thiên Chúa trước bất kỳ một môn đệ nào… Ngay cả những giờ phút sau cùng của cuộc đời mình, ông cũng không hề nhận mình là Thiên Chúa, nhưng chỉ một mực hướng về vị Chúa của Do Thái giáo mà ông gọi thân mật là Cha. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23:34), trong giờ phút sau cùng của đời ông có lúc ông phải kêu cứu: “Cha ơi! Sao cha bỏ con…” (Mc 15:3). Và trước khi trút hơi thở sau cùng: “Lạy Cha! Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha!”(Lc 23:46) v.v… Giáo phái Arius mượn câu Phúc Âm của Gioan: “Cha ta cao trọng hơn ta” (Ga 14:28) để chứng minh: Giêsu không phải là Thiên Chúa…
Đối với Do Thái giáo, dựa vào Cựu ước, kinh thánh của Do Thái giáo, sẽ có một “Đấng Cứu Thế” (Messia) được Thiên Chúa sai xuống để cứu độ tín đồ Do Thái giáo. Nhưng vị đó chắc chắn không phải là nhân vật Giêsu ở Nazaret. Đây chính là điểm mâu thuẫn giữa Kitô giáo và Do Thái giáo.
Đối với Hồi Giáo, Thiên Chúa của tôn giáo này cũng chính là Thiên Chúa được Abraham giới thiệu trong cựu ước, tức kinh thánh của Do Thái Giáo. Chính Mahomet, giáo chủ Hồi giáo khẳng định Sứ Thần Gabriel đã khải thị cho ông viết kinh Coran. Điều này thật rõ ràng khi ta lấy vài đoạn nhỏ trong kinh Coran của Hồi Giáo đối chiếu với Cựu Ước. Kinh Coran kể lại câu chuyện Thiên Chúa quyết tâm trừng trị dân thành Sôđôma. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành ấy. Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông việc gì mà Thiên Chúa đã quyết định thì không thể thay đổi. Kết quả là thành Sôđôma bị Thiên Chúa hủy diệt. Cùng câu chuyện trên, nhưng tình tiết câu chuyện lại khác trong cựu ước. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành và “Chúa của cựu ước” đã không quyết đoán như “Chúa của Coran”. Nếu Chúa trong kinh Coran “đã quyết định thì không thể thay đổi” thì Chúa của Cựu ước tỏ ra dễ dãi hơn, đã cho phép Abraham “trả giá”: Nếu có năm mươi người nhơn đức thì Ngài sẽ tha không trừng phạt thành Sôđôma. Rồi bốn mươi người…?, ba mươi người…?, hai mươi người thôi…? Cuối cùng chỉ cần mười người…? Chúa đã nói với Abraham: Chỉ cần có mười người nhơn đức trong thành thôi, ta sẽ không huỷ diệt thành đó…
Nhưng điểm mâu thuẫn lớn nhất giữa Kitô giáo và Hồi giáo lại không phải là những tiểu tiết đó mà chính là sự thừa nhận nhân vật Giêsu. Hồi Giáo chỉ công nhận Giêsu là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Chính việc “Thiên Chúa hóa” nhân vật Giêsu của Kitô giáo đã đẩy Hồi giáo, Do Thái giáo vào thế đối đầu. Hiện nay Do Thái giáo vẫn đang mong đợi một Messia nào đó chứ không phải Giêsu. Trong khi đó thì Hồi giáo lại cho rằng khi Kitô giáo “Thiên Chúa hóa” Giêsu, bắt một con người “làm Chúa” là đã cố tình xúc phạm, nhục mạ Thiên Chúa.
Tóm lại, khi nói đến thần học, không nên hiểu chỉ có một loại thần học chung nhất, mà phải phân biệt rạch ròi thần học Kitô giáo, thần học Do Thái giáo, thần học Hồi giáo. Ngay trong nền thần học Kitô giáo cũng có những thần học mâu thuẫn, đối lập nhau. Chính các nền thần học này đã nhào nặn ra “các Thiên Chúa” khác nhau từ một Thiên Chúa của Abraham. Vì thế, khi thần học Kitô giáo khởi xướng học thuyết “Mầu nhiệm nhập thể” thì bị nền thần học Do Thái giáo và nhất là thần học Hồi giáo công kích, phủ nhận. Điều này giải thích tại sao có những cuộc xung đột tôn giáo triền miên xảy ra giữa ba tôn giáo vốn được xem là có cùng một gốc. Sự xung đột do mâu thuẫn về các quan điểm thần học giữa Kitô giáo và Hồi giáo dẫn đến sự tiêu diệt lẫn nhau đã được lịch sử ghi nhận và Tông huấn nhắc lại: “Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo một lần nữa cho những người Mông Cồ, Thổ và người Trung Quốc. Nhưng Kitô giáo rất mau biến mất tại các vùng này vì nhiều lý do, trong số đó phải kể tới sự xuất hiện của Hồi Giáo” (S9). Kitô giáo “rất mau biến mất” tại Châu Á ở thế kỷ 13 chỉ vì người anh em Hồi giáo của mình. “Chúa Thánh Thần” đôi khi thích làm những việc trái khoáy đẩy Vatican vào thế bất lợi.
“Sự khó chịu” (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo
Đối với các tôn giáo đông phương như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo v.v…. các quan điểm thần học dù là của bất ký ai, Do Thái giáo, Kitô giáo hay Hồi giáo. Tất cả đều không ảnh hưởng gì đến các tôn giáo này, nên không có chuyện “khó chịu” trước các quan điểm thần học Kitô giáo. Các tôn giáo cùng một gốc như Hồi giáo, Do Thái giáo, Kitô giáo thuộc về một hệ quy chiếu. Các tôn giáo đông phương lại thuộc về một hệ quy chiếu khác. Vì thế, sự “khó chịu” (nếu có) ở các tôn giáo đông phương đối với Kitô giáo chỉ có thể có trong trường hợp học thuyết của các tôn giáo bị xuyên tạc, bóp méo với mục đích “đồng hóa”. Nói cách khác, nó chỉ xảy ra trên bình diện “giao tế”, thái độ ứng xử trong từng trường hợp cụ thể, chứ không phải do mâu thuẫn trên quan điểm thần học. Điều này dễ hiểu vì các tôn giáo đông phương như Phật – Lão - Khổng không có thần học, nên không có chuyện xung đột về các quan điểm thần học giữa các tôn giáo này với Kitô giáo. Ví du: Đối với Phật giáo. Thiên Chúa, dù là của Kitô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo tuyệt nhiên không có chỗ đứng trong tôn giáo này. Tuy nhiên, họ vẫn tôn trọng các quan điểm thần học như “vị cứu tinh duy nhất” của Kitô giáo. Cũng có nghĩa là họ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo. Nhưng nếu Kitô giáo quy chụp giáo chủ của họ thành “ngôn sứ” của Thiên Chúa Kitô giáo, tôn giáo của họ là “cơ hội quan phòng” của Thiên Chúa Kitô giáo thì rõ ràng đó là một sự khiêu khích, thách thức, xúc phạm trắng trợn buộc họ không thể bỏ qua… và tất nhiên, cái “khó chịu” ở đây chính là cách hành xử thô bạo, kém tế nhị, thiếu tinh tế chứ không phải vì các quan điểm thần học… Tiếc rằng điều này đã trở thành chiêu thức mà Vatican vận dụng trong hành trình văn hóa của mình tại Châu Á.
Qua những điều vừa trình bày trên, cho thấy: “Điều gây khó chịu…” chỉ thực sự “khó chịu” đối với những người anh em của Kitô giáo là Hồi giáo và Do Thái giáo, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các nền văn hóa và tôn giáo Đông Phương. Theo thiển ý của tôi, nếu Vatican muốn thuyết phục để người ta tin rằng “Đức Giêsu Kitô là đấng cứu độ duy nhất” thì nên thuyết phục những người anh em của mình trước, hãy “Phúc âm hóa” Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nếu không làm được việc này, khoan nói đến chuyện “Phúc âm hóa Châu Á”. Đó chỉ là ảo tưởng, đừng nói đến thiên niên kỷ thứ ba, sang thiên niên kỷ thứ tư, thậm chí thứ năm, thứ sáu… Thánh giá cũng chẳng bao giờ trồng được trên mảnh đất Châu Á này !
Trong câu: “Điều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người” (S12). Cụm từ “Điều gây khó chịu nhất..” ám chỉ “sự khó chịu” (có thể có mà cũng có thể không) của các dân tộc Châu Á ngày nay, thực sự chỉ là nỗi lo sợ vu vơ, không có căn cứ… vì các dân tộc Châu Á chẳng bao giờ quan tâm đến những gì mà tín đồ Kitô giáo gọi là “đức tin”. Họ chỉ phản ứng trong trường hợp bị xúc phạm, điển hình là vụ Giáo Hoàng cho xuất bản quyển “Bước vào hy vọng”… Tuy nhiên, cụm từ “mang lấy bản tính con người của chúng ta..” làm gợi nhớ đến một quá khứ lịch sử kinh hoàng đã xảy ra ngay trong lòng giáo hội vào thời mới thành lập. Đó chính là cuộc chiến tranh “bản tính” và “ngôi vị” đã cướp đi sinh mạng của nhiều người.

VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI TRUNG HOA

Note: do bài gốc quá dài nên mạn phép cắt để bạn đọc có thể theo dõi mà cũng đỡ ngán

Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com

6. VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI TRUNG HOA
Trong phần nhập đề của văn kiện “Tông huấn giáo hội tại Châu Á”. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có nhắc đến sự kiện Hội nghị đặc biệt cho Châu Á của Thượng hội đồng Giám mục diễn ra từ ngày 18/4 đến ngày 14/5/1998. Giáo Hoàng “cảm thấy buồn khi không thấy các Giám mục Trung Hoa lục địa đến dự…” (S3). Sự kiện này được nhắc lại ở chương một - “Bối cảnh Á Châu” – phần: “Các thực tế chính trị”. Giáo Hoàng viết : “Tại một số nơi, các Kitô hữu không được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được phép giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho người khác. Họ bị bách hại và không được dành cho một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội. Các nghị phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị em Công giáo tại Trung Quốc sẽ được phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với Tòa Thánh”. (S8)
Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần quay lại một chút về quá khứ lịch sử. Có thể nói Kitô giáo đến với Trung Hoa bằng hai con đường, con đường chính thức và con đường không chính thức
Con đường chính thức
Kitô giáo có mặt tại Trung Hoa rất sớm, từ năm 578, nhưng không phải thừa sai Công Giáo La Mã, mà là các giáo sĩ thuộc giáo phái Nestorius. Giáo phái này chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua thiên tính trong con người của Giêsu. Giáo phái này cho rằng: “Ngôi Lời” và “Giêsu” hoàn toàn khác biệt. Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Các giáo sĩ thuộc giáo phái này đã đến Trường An và được vua Đường Thái Tông cho phép chính thức truyền đạo. Sau đó ít lâu (khoảng TK VI-VII), một giáo phái khác cũng không thuộc Vatican là giáo phái Manikeus cũng đã đến. Cả hai giáo phái này được xã hội Trung Hoa thời đó chấp nhận vì họ trình bày một thứ giáo thuyết mang màu sắc của đạo Kitô nguyên thủy, giáo thuyết này mặc dù còn xa lạ nhưng cũng không quá mâu thuẫn với với văn hóa bản địa, ví dụ khái niệm Thiên Chúa cũng gần với khái niệm Thượng Đế hoặc Thiên của Khổng - Lão. Hoàn toàn không có khái niệm về Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh, thánh giá chỉ là thập tự trơn, nghĩa là không có hình tội nhân trần truồng bị hành quyết, một hình ảnh mà đối với một dân tộc xem trọng lễ giáo như dân tộc Trung Hoa khó chấp nhận…
Công giáo La Mã, người tự nhận là “giáo hội tông truyền” chỉ là kẻ đến sau. Khâm sứ tòa thánh Vatican là Giám mục Montecervino có thể xem là đại diện đầu tiên của Vatican đến Trung Hoa năm 1294, nhưng họ đến Trung Hoa không phải để truyền đạo cho người Trung Hoa mà là để khuyên dụ tín đồ của hai giáo phái Nestorius và Manikeus mà họ gọi là “lạc giáo” trở về với Công giáo La Mã… Nhưng thật không may cho họ, năm 1380, tất cả đều bị tàn sát sạch bởi bàn tay của Hồi giáo Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Công giáo La Mã chỉ thực sự có mặt tại Trung Hoa từ cuối thế kỷ 16. Năm 1583, Linh mục dòng Tên Matteo Ricci đến Trung Hoa với nhiệm vụ biến Hoàng đế Trung Hoa thành Constantine. Ý đồ đó được thể hiện rõ nét qua việc chọn lựa đối tượng để truyền đạo.
Bức họa của Matteo Ricci trong đó ông đang khoác một bộ áo choàng của Trung Quốc, năm 1611. Ảnh http://vi.wikipedia.org/wiki/Matteo_Ricci
Nếu hai giáo phái “lạc giáo” Nestorius và Manikeus chọn đối tượng truyền giáo là quần chúng nhân dân mà tuyệt đại đa số là quần chúng vô học, họ thích ứng với xã hội Trung Hoa bằng cách “nhập gia tùy tục”, nghĩa là cách ăn mặc hành xử theo đúng phong tục của dân bản địa và đặc biệt là lối truyền đạo của họ với căn bản giáo lý của đạo Kitô nguyên thuỷ, không có các tín điều áp đặt được sáng tác từ Rôma như lý thuyết về Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh v.v biểu tượng về giáo lý cứu độ được họ giới thiệu cũng chỉ là một thập giá trơn, không có hình Giêsu trần truồng mình đầy máu me, một hình ảnh không được “bắt mắt” lắm đối với dân bản địa, một dân tộc vốn coi trọng lễ giáo. Đặc biệt thập giá được trình bày trên nền một hoa sen, một loài hoa tượng trưng cho sự thanh khiết trong tâm thức văn hóa phương đông. Điều này đã được nhà thám hiểm người Ý Marco Polo ghi nhận trong cuộc hành trình đến miền viễn đông của ông thế kỷ 13.
Ngược lại, dù là kẻ đến sau, nhưng Công giáo La Mã đến Trung Hoa với một thái độ trịch thượng, kẻ cả. Việc đầu tiên là họ khuyến dụ “hai kẻ lạc giáo” Nestorius và Manikeus trở lại với Công giáo La Mã. Đối với dân bản địa, đối tượng truyền giáo của họ không phải là quần chúng vô học mà là giới trí thức, tầng lớp nho sĩ, quan lại triều đình… ý đồ biến hoàng đế Trung Hoa thành Constantine đã được khởi động từ giới sĩ phu.
Matteo Ricci, người Ý, Linh mục dòng Tên, là một trong những nhân vật nổi bật của Rôma tại Trung Hoa, ông đến Trung Hoa năm 1583, đối tượng mà ông nhắm đến để truyền đạo không phải là giới nông dân vô học là những người có thế có quyền và có tri thức, đó chính là tầng lớp sĩ phu, quan lại. Ông viết cuốn “Thiên Chủ thực nghĩa” để giới thiệu giáo lý Kitô giáo với giới trí thức Trung Hoa, ông đã dùng các thực tại văn hóa sẵn có của Nho giáo như những ý niệm về Thiên (trời), Thượng đế… để giải thích về ý niệm Thiên Chúa của Kitô giáo. Matteo Ricci đã sáng tạo ra một từ mới: “Thiên Chủ” để chỉ Thiên Chúa của Kitô giáo. Nhưng nỗ lực của Matteo Ricci chỉ mang lại một kết quả quá khiêm tốn. Một chặng đường gần 20 năm (1583-1600) mà số tín đồ theo đạo không quá 1000 người. Vatican không thể hài lòng với kết quả này. Vì vậy Vatican quyết định tăng cường, thúc đẩy việc truyền giáo tại Trung Hoa lên một tầm mức cao hơn.
Nicolò Longobardo (1559-1654). Ảnh http://en.wikipedia.org/wiki/Nicolò_Longobardo
Niccolo Longobardi là người được phái đến. Ông này mang theo cả cái mà Vatican gọi là “Công đồng Tridentino” vào Trung Hoa. Với tinh thần Tridentino, ông buộc tất cả các tin đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với Tam giáo (Phật, Lão, Khổng), tín ngưỡng truyền thống của cha ông họ, đều mà người tiền nhiệm Matteo Ricci chưa thể làm được. Niccolo Longobardi đã ra lịnh buộc tín đồ bản địa triệt phá bàn thờ, ảnh tượng thuộc tín ngưỡng truyền thống, cấm thờ Khổng Tử, cấm thờ cúng ông bà tổ tiên. Lệnh cấm này được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm đối với dân tộc Trung Hoa, một dân tộc mà hai chữ “trung-hiếu” được đặt lên hàng đầu trong đời sống tinh thần của họ.
Sự kiện này buộc triều đình phải can thiệp. Triều đình đã đặt Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng ngoài vòng pháp luật. Năm 1617 lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Phương Tây ra khỏi Trung Hoa được ban hành. Công giáo La Mã mất đi cơ hội bành trướng tại Trung Hoa.
“Ý Chúa” tỏ ra quá vụng về khi Ngài để cho Vatican “sáng tác” ra cái “Công đồng Tridentino” lại đem áp dụng vào Trung Hoa, trong đó có điều khoản cấm thờ kính tổ tiên, một điều khoản mà đối với dân Trung Hoa thời đó là quá ngu muội không thể tưởng tượng được. Nếu “ý Chúa” đã quyết như thế thì các thừa sai chỉ cắm đầu mà làm như một cái máy, vì nói theo kiểu Mục sư Choan Seng Song, tác giả quyển “Thần học Kitô giáo theo cung cách Châu Á”: “…Thượng trí của Thiên chúa ai mà dò biết được…”. Vatican không thể “dò biết thượng trí của Thiên Chúa”, nhưng triều đình Trung Hoa thì có thể dò biết được ý của người dân Trung Hoa muốn gì. Họ muốn bàn thờ tổ tiên của họ phải được tôn trọng. Vì vậy, triều đình đã đặt “Ý Dân” trên trên “Ý Chúa”. Kết quả là lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Tây Phương được ban hành.
Trở lại sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng nổi bật phải kể đến hai nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là: Thái độ trịch thượng, kêu căng, tự phụ của Vatican khi lệnh cho Linh mục Niccolo Longobardi thực hiện các điều khoản của Công đồng Tridentino mà trong đó có điều khoản không thể nào chấp nhận được đối với dân tộc Trung Hoa là cấm thờ cúng tổ tiên, tôn kính Khổng Tử.
Năm 1692, vua Khang Hy với chính sách mềm dẻo đã ban chiếu chỉ cho phép các thừa sai Vatican hoạt động truyền giáo. “Được đằng chân lân đằng đầu”, họ đã cấm các tín đồ bản địa không được thờ cúng ông bà tổ tiên và đặc biệt là không được tôn kính Khổng Tử. Trước thực tế trên, vua Khang Hi vẫn tỏ ra ôn hòa, ông đã gởi thư cho Vatican. Năm 1701 Vatican nhận được thư của Khang Hy. Nội dung thư nhằm giải thích cho Vatican hiểu Khổng Tử không phải là Thượng Đế, Ngài chỉ là một vị Thầy được nhân dân Trung Hoa tôn kính mà thôi. Bất chấp sự nhượng bộ mềm dẻo của hoàng đế Trung Hoa. Năm 1704, Giáo Hoàng Clemant XI chính thức ban hành lệnh cấm tín đồ Công giáo Trung Hoa thờ cúng tổ tiên và Đức Khổng Tử. Sáu năm sau (1710), lệnh cấm này được Vatican nhắc lại phải thi hành một cách triệt để, dứt khoát. Năm 1717, triều đình Trung Hoa không thể nhượng bộ được nữa, nên đã quyết định giáng trả một đòn chi tử: trục xuất tất cả các thừa sai Vatican, đốt phá nhà thờ, buộc tín đồ Công giáo Trung Hoa bỏ đạo, cấm đạo. Nhưng với bản chất kêu căng vốn có của Vatican, năm 1742, Vatican ban hành văn bản “Ex quy singulari” nhắc lại lệnh cấm tuyệt đối những điều nêu trên. Thế là Vatican tự đặt dấu chấm hết cho con đường truyền giáo của mình trên đất nước Trung Hoa.
- Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa là sự tranh dành ảnh hưởng giữa các thừa sai với nhau. Sự tranh chấp quyết liệt giữa các thừa sai dòng Phanxicô, Đaminh và các thừa sai dòng Tên mà nguyên nhân tranh chấp là quyền lợi chính trị, óc kỳ thị chủng tộc giữa các thừa sai gốc Bồ Đào Nha và thừa sai gốc Tây Ban Nha và vì muốn lập công với Vatican. Các quan điểm về thần học vốn là sản phẩm của Vatican lại tỏ ra không nhất quán trong chủ trương truyền giáo của các thừa sai gốc Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha…Các thực tại thần học nhằm mô tả vị thần tối cao trong Kitô giáo được Matteo Ricci (thuộc dòng Tên) dịch ra ngôn ngữ Trung Hoa là “Thiên Chủ” lại không được Longobardi chấp nhận. Longobardi chủ trương không được dùng những ý niệm sẵn có như Thiên (trời) hoặc Thượng đế vốn là những ý niệm của Khổng-Lão để chỉ Chúa (Deus) của Công giáo La Mã (chứ không phải của đạo Kitô nguyên thủy, vì Kitô nguyên thủy dùng các khái niệm của Do Thái giáo như El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… để chỉ về Chúa, còn Deus, Dieu… là sản phẩm triết học Hy Lạp được Vatican cải biên…). Longobardi phản đối dùng từ “Thiên Chủ” mà chỉ muốn phiên âm từ Deus hay Dieu theo kiểu Phanxicô Xavie đã làm ở Nhật Bản hay Đắc Lộ làm ở Việt Nam. Tại Nhật Bản, Deus được phiên âm ra tiếng Nhật là “Deusu”, còn tại Việt Nam phiên âm thành “Dêu”. Nhưng đều trớ trêu khôi hài là trong khi những từ nguyên thuỷ chỉ về vị thần tối cao của Do Thái giáo như El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… được Vatican biến chế lại theo kiểu Latin là Deus, Dieu, Theos... thì không có vấn đề gì, nhưng từ những từ đã được La Tinh hóa này khi dịch ra các ngôn ngữ đông phương như Hán, Việt, Nhật lại sợ mất đi ý nghĩa ban đầu của nó, mà điều mâu thuẫn khó hiểu ở đây là ý nghĩa ban đầu chính là tiếng Do Thái: El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… chứ không phải mấy tiếng Deus, Dieu, Theos… Những bất đồng về quan điểm giữa các thừa sai với nhau được lịch sử giáo hội gọi là “cuộc tranh chấp lễ nghi” đã góp phần đưa công cuộc truyền giáo của Vatican đến bờ vực phá sản.
Chuyện phiên âm cũng là chuyện cười ra nước mắt. Tại Nhật Bản khi Phanxicô Xavie phiên âm từ “Deus” thành “Deusu” thì người Nhật lại đọc trại ra thành “Daiusu” nghĩa là “bịp bợm”. Còn tại Việt Nam, từ “Deus” phiên âm thành “Dêu”, “Đức Chúa Dêu” nghe rất tếu, ngang phè, mà “dêu” trong tiếng Việt chẳng có nghĩa gì cả… Do sự đối nghịch của các thừa sai dòng Phanxicô, Đaminh và dòng Tên, sự thiếu nhất quán về quan điểm thần học, sự tranh dành ảnh hưởng của họ đối với Vatican cộng thêm thái độ “kẻ cả” của Vatican đã góp phần làm phá sản ý đồ Công giáo hóa Trung Hoa, biến hoàng đế Trung Hoa thành Constantine.
Con đường không chính thức hay con đường chui con đường của súng đạn và á phiện!
Lịch sử truyền giáo của Vatican vào Trung Hoa bằng con đường chính thức đã bị sụp đổ, Nhưng Vatican là kẻ không chịu khuất phục. Vì vậy khi con đường chính thức (mà họ tự chặt đứt chứ không phải do triều đình Trung Hoa) không còn sử dụng được, họ đã mon men theo con đường thứ hai, tức con đường của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Năm 1842, chiến tranh nha phiến bùng nổ giữa Trung Hoa và thực dân Anh. Thế lực quân sự hùng hậu của đế quốc Anh buộc Trung Hoa phải nhượng bộ bằng những hiệp ước bất bình đẳng. Hiệp ước Nam Kinh 1842 có điều khoản Trung Hoa phải nhường Hồng Kông cho Anh và phải mở 5 cảng cho thừa sai Công giáo La Mã vào truyền đạo.
Lần này thì Vatican không đơn thương độc mã mà còn có bạn đồng hành bất đắc dĩ là hai giáo phái Tin Lành: Pietism và Fondamentalism cùng vào Trung Hoa dưới sự bảo vệ bằng súng đạn và thuốc phiện của thực dân Anh. Tin Lành và Công giáo vốn là hai anh em không ưa nhau lại cùng cặp kè nhau vào đất nước Trung Hoa dưới sự bảo vệ của thực dân Anh kể cũng lạ… 150 năm trước với chiếu chỉ “được tự do truyền đạo” của vua Khang Hy, đường đường chính chính vào đất nước Trung Hoa không chịu, lại chịu đi bằng con đường thuốc phiện, súng đạn, đi chung với người anh em không mấy ưa thích Tin Lành ! kể cũng lạ! Âu đó cũng là “ý Chúa”!
“Ý Chúa” thường rất oái oăm và thường đẩy Vatican vào những tình thế dở khóc dở cười… Lịch sử đã chứng minh Vatican luôn dùng mọi thủ đoạn để có thể đạt được mục tiêu “mở mang nước Chúa” của mình. Khi cuộc cách mạng vô sản Trung Hoa do Mao Trạch Đông lãnh đạo thành công. Vấn nạn Công giáo La Mã được nhà cầm quyền giải quyết dứt điểm. Năm 1950, toàn bộ thừa sai Vatican bị trục xuất đồng loạt kể cả Công sứ Tòa Thánh. Tài sản Vatican bị tịch thu. Chính quyền buộc Linh mục và giáo dân bản xứ không được quan hệ với Vatican. Năm 1957, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nuớc được thành lập, tổ chức này hoạt động độc lập không lệ thuộc vào Vatican, họ tự chọn và thụ phong Giám mục. Sự kiện này khiến Vatican tức giận “dứt phép thông công” hàng loại các Giám mục mới được thụ phong. “Giáo Hội Công Giáo Yêu Nước” cùng với nhân dân toàn Trung Hoa bắt tay xây dựng đất nước. Một bộ phận khác trung thành với Vatican gọi là “Giáo Hội Thầm Lặng” thực hành các chỉ thị của Vatican: bất hợp tác với chế độ.
Và giờ đây, lời kêu gọi “thống thiết” của đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được truyền đi qua Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á (Ecclesia in Asia): “…Họ bị bách hại và không được dành cho một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội. Các nghị phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị em Công Giáo tại Trung Quốc sẽ được phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8).
Thực sự thì như ta đã biết, Vatican là một quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn của nó. Nghĩa là quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và tất nhiên là có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Vatican đều được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng với Thụy sĩ, Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp Quốc là vì muốn giữ thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp Quốc chắc chắn phải có lý do riêng của nó. Ngoài ra, người ta còn biết đến Vatican dưới một danh nghĩa khác, danh nghĩa một tôn giáo: Công giáo La Mã. Từ nhận định trên ta có thể khẳng định việc truyền giáo của Công giáo La Mã và các lợi ích về chính trị, kinh tế, giáo dục, xã hội … của nhà nước Vatican chỉ là một, chúng vận hành hữu cơ, quan hệ mật thiết không thể tách rời được…. Sự đồng hành của nhà nước Vatican với các thế lực thực dân, đế quốc Phương Tây đã được lịch sử chứng minh trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của chúng. Tuy nhiên, bài viết này chỉ giới hạn trong một diễn biến nhỏ của lịch sử, đó chính là sự có mặt của của Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng tại Trung Hoa lục địa.
Khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi “Công Giáo Trung Quốc được phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8) là bản thân Giáo Hoàng đã quên lịch sử. Chính Giáo Hoàng cũng thừa nhận: “… Người Châu Á ham học hỏi, truy tầm triết lý… quý trọng sự sống, từ bi với mọi loài… Các dân tộc Châu Á thường được tiếng là có tinh thần bao dung tôn giáo, sống chung hòa bình…” (S6). Vậy hà cớ gì mà người Châu Á lại đi “bách hại” Kitô giáo? Tín đồ Kitô giáo nếu thực sự bị “bách hại” thì lỗi thuộc về nhà nước Vatican. Chính thái độ trịch tượng, kêu căng, tự phụ của Vatican đã đẩy Kitô hữu Châu Á vào thế khó xử. Xuất phát từ tâm lý ưu thế của “kẻ cả, người ngồi chiếu trên”, Vatican luôn đánh giá thấp các tôn giáo và các nền văn hóa khác… Hành xử của Vatican luôn đẩy đối phương vào thế đối đầu. Thế nhưng khi có phản ứng ngược lại thì Vatican lại kêu lên “bách hại…!?”. Tình hình thực tế ở Trung Hoa đã chứng minh điều đó. Tín đồ Công giáo trong tổ chức “Công giáo yêu nước” vẫn tự do hành đạo, họ vẫn sống Phúc Âm “ra phết”, nhà nước chẳng những không ngăn cấm mà còn khuyết khích họ… vậy sao có thể gọi là mất tự do, bị bách hại?… Chính Vatican “dứt phép thông công” của họ thì sao lại kêu gọi họ “hiệp thông trọn vẹn với tòa thánh” được?… Sự thật lịch sử đã phơi bày, Kitô hữu Trung Hoa vẫn tự do hành đạo, tự do “tuyên xưng đức tin”, có điều họ đặt quyền lợi của nhà nước Trung Hoa lên trên quyền lợi của nhà nước Vatican. Vì vậy họ vẫn “hiêp thông trọn vẹn với chúa”. Còn việc họ không được “hiệp thông” với Vatican là do chính Vatican “dứt phép thông công” của họ chứ không phải lỗi của nhà nước Trung Hoa. Nhưng nếu cho rằng Vatican là “nhiệm thể của Chúa Kitô”, nên không thể hiệp thông với chúa mà không hiệp thông với Vatican thì chẳng qua đây chỉ là sản phẩm của khoa Thần học được hiệu lực hóa từ “tín điều Vô Ngộ” vốn là một sáng tạo của Giáo Hoàng Pio IX từ năm 1870. Tín điều này thừa nhận sự “không thể ngộ nhân, sai lầm” của Giáo Hoàng trong những tuyên bố của mình, nhằm thần thánh hóa “Đức Thánh Cha”, tức ông vua của nhà nước Vatican, đồng thời biến tín đồ Kitô giáo thành những con chiên ngoan ngoãn, dễ dạy để phục vụ “hội thánh”. Tự thân của “tín điều Vô Ngộ” đã bộc lộ nhiều điều vô lý và hoàn toàn không có căn bản từ Thánh Kinh. Chính vì vậy, tín điều này hoàn toàn không có giá trị và bị các hệ phái Kitô giáo khác như Tin Lành, Chính thống… lên án, phủ nhận. Vậy nên, khi Giáo Hoàng kêu gọi “… hướng lòng trí về với giáo hội Công giáo Trung Hoa lục địa và cầu xin cho sớm tới ngày anh chị em Trung Hoa thân yêu của mình được tự do hoàn toàn để thực hành đức tin trong sự hiệp thông trọn vẹn với Tông Tòa Phêrô…” (S28) khiến nhiều Kitô hữu chân chính vừa ngậm ngùi chua xót vừa thầm trách Vatican trong động thái của mình đã đẩy Công giáo La Mã vào thế phải đối đầu với nhiều nền văn hóa Châu Á. Hành xử của Vatican đôi khi đến “Chúa Thánh Thần” cũng phải lắc đầu ngao ngán…
“Tông tòa Phêrô” và vấn nạn “Giáo hội tông truyền”
Nhân đây cũng xin nói thêm về cái gọi là “Tông tòa Phêrô”. Vấn đề này cho đến nay vẫn còn là một vấn nạn. Phêrô là một trong những môn đồ đầu tiên của Giêsu. Phêrô xuất thân là ngư dân. Ông theo Giêsu khi đang đánh cá tại hồ Galiêa. Sau khi Giêsu chịu án tử hình. Phêrô bị bắt và vượt ngục. Sách Tông đồ Công vụ viết: “Sau khi thoát khỏi ngục, Phêrô đã đi nơi khác…”. “Nơi khác” là nơi nào không ai biết. Phêrô đi đâu? và làm gì? Cũng chỉ là những phỏng đoán. Công giáo La Mã ngày nay khẳng định rằng Phêrô đến Rôma để thành lập giáo hội đầu tiên và trở thành Giáo hoàng đầu tiên của giáo hội. Một số học giả phủ nhận việc Phêrô đến Rôma thành lập giáo hội, họ cho rằng Phêrô chưa từng đến Rôma. Marsilio trong cuốn Defensor Pacis (1324) đã đưa ra nhiều dẫn chứng cho thấy sự kiện “Phêrô đến Rôma lập giáo hội” là ngụy tạo. Luther và Cavin cũng phủ nhận sự kiện trên. Riêng Công giáo La Mã bằng nhiều lý lẽ quyết bảo vệ luận điểm: Phêrô là Giáo Hoàng đầu tiên của giáo hội đầu tiên tại Rôma, nhằm mục đích khẳng định giáo hội Công Giáo chính là “giáo hội tông truyền”. “Bảo vệ đức tin” là việc cần thiết bắt buộc phải thực hiện, vì văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” của công đồng Nikêa khi đúc kết lại thành kinh Tin Kính, người ta đã thòng thêm một câu: “…Tôi tin Hội Thánh Công giáo thánh thiện duy nhất, tông truyền…” Do đó, nếu thả nổi vấn đề, đồng nghĩa với việc chấp nhận phá sản kinh Tin Kính. Những nhà hộ giáo của giáo hội Rôma sử dụng các văn bản của các giáo phụ đầu công nguyên như: “Thư Clemantê gởi dân thành Corintô”, “Thư Inhaxiô gởi giáo dân La Mã” v.v… để chứng minh sự kiện Phêrô đã đến Rôma. Nhưng phe chống đối trong giáo hội phủ nhận, họ cho rằng có sự ngụy tạo về thời gian và địa điểm trong các văn bản trên nhằm chứng minh yếu tố “tông truyền” của giáo hội Công giáo tại La Mã. Đằng khác, muốn che đậy một sự kiện lịch sử: Công giáo La Mã là sản phẩm của Constantine. Tất nhiên, các nhà hộ giáo phải tìm cách bảo vệ luận điểm của họ. Họ lập luận: Sự mặc nhiên thừa nhận Phêrô là vị giáo hoàng đầu tiên của giáo hội trong suốt 13 thế kỷ kể từ ngày giáo hội được thành lập, đã minh chứng tính xác thực của sự kiện này. Nhưng họ quên rằng: trong 3 thế kỷ đầu, các nhóm Kitô nguyên thủy hoạt động độc lập, bí mật dưới hình thức “hội kín”. Trong thời gian này, chỉ có chức danh cao nhất là “Giám mục” điều hành ở mỗi tổ chức giáo hội sơ khai. Chức danh “Giáo hoàng” chỉ mới có sau khi Constantine thành lập giáo hội Công giáo. Nói cách khác, có hai vấn đề cần làm rõ. Một là: Giáo hội Công giáo La Mã là giáo hội của chúa Giêsu, do tông đồ trưởng của Giêsu là Phêrô sáng lập tại Rôma. Hai là: Đế quốc La Mã đã lợi dụng “chiêu bài Giêsu” nhằm thực hiện tham vọng đế quốc của mình. Khi La Mã thấy các nhóm Kitô nguyên thủy “đủ mạnh” để có thể tập hợp thành một lực lượng thống nhất phục vụ đế quốc Rôma. Hoàng đế La Mã Constantine (306-337) đã bãi bỏ lệnh cấm hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy bằng chiếu chỉ Milan (313). Lệnh cấm vốn được thực hiện gắt gao từ thời hoàng đế Nêron (54-68). Constantine vốn không hiểu biết nhiều về giáo thuyết của đạo Kitô nguyên thủy. Vì thế, ông sử dụng nhiều tu sĩ giỏi trong các cộng đoàn Kitô nguyên thủy là cố vấn cho triều đình. Để thống nhất các nhóm Kitô nguyên thủy, Constantine đã triệu tập công đồng Nikêa (325). Mục đích công đồng là tổ chức lại giáo quyền, định ra các nguyên tắc căn bản về hàng giáo phẩm. Công bố những giáo thuyết mới vốn không hề có trong các cộng đoàn Kitô nguyên thủy như: Giáo thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh v.v… các giáo thuyết này được tóm gọn trong một văn kiện: “Niềm tin tông đồ”, tiền thân của kinh Tin Kính sau này. Một sự kiện không thể không nhắc đến trong thời kỳ này: Sự xuất hiện của Công giáo La Mã. Một tôn giáo hoàn toàn mới với một giáo thuyết mới, một kết quả tất yếu của công đồng Nikêa. Với quyết tâm “Công giáo hóa” Rôma, Constantine từng tuyên bố trước các giám mục: “Các vị là Giám mục bên trong giáo hội, còn tôi là Giám mục bên ngoài giáo hội”. Sự tích cực “Công giáo hóa” đế quốc Rôma của Constantine được phản ánh khá đầy đủ trong câu nói bất hủ của Augustin: “Khi Rôma đã quyết định một vấn đề gì thì vấn đề đó phải được coi là giải quyết xong!”. Tóm lại: Công giáo La Mã là một sản phẩm của hoàng đế La Mã Constantine, chỉ mới được thành lập từ công đồng Nikêa, cách thời Giêsu đến 3 thế kỷ rưỡi… Vấn đề “tông truyền” của giáo hội Công Giáo hiện nay vẫn còn là vấn nạn: “Tông truyền từ Giêsu thông qua Phêrô?” hay “Tông truyền từ Hoàng đế La Mã Constantine đến đương kim giáo hoàng Gioan Phaolô II ?” Đây là đề tài lý thú cho nhiều người trong thế kỷ 21.