Trần Chung Ngọc
* * *
Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000, trong một cuộc “Thánh lễ”
công cộng tại "Thánh
đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ
Chiên, Giáo hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II), đại diện cho
"hội Thánh" Công Giáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có
khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, cùng vài chức sắc trong bộ
tham mưu thần học của ông ta, trong đó có Hồng y Nguyễn Văn
Thuận
, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại
của Công Giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy
nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương
quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”
v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những hành động ác ôn đặc
thù Công Giáo, của những con cái giáo hội Công Giáo "thánh
thiện". Những hành động này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến
những thảm họa to lớn cho nhân loại như Thánh Chiến, Tòa
Hình Án xử Dị Giáo, kỳ thị phái nữ, xâm lăng văn hóa, ý muốn
thống trị và thái độ thù nghịch đối với những tôn giáo khác,
bách hại dân Do Thái, gây chia rẽ trong cộng đồng Ki Tô,
liên kết với những thế lực thực dân, phát xít v...v... như
đã được nhắc tới hết sức đại cương trong những lời xưng thú
7 núi tội lỗi của Công Giáo.
Vài Lời Nói Đầu:
Những người chống đối [hay người Công giáo] có biết rằng
trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản
[hay chống Công giáo] thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá
lỗi thời và chứng tỏ rõ ràng là các người thiếu học vấn.
(Do you protestors (or Catholics) realize how ignorant it
sounds to utilize and accuse someone of being a communist
[or anti-catholic] in today's world? It's outdated and
clearly demonstrates your lack of education.)
(OCRegister.com)
Những người Công giáo thường lên án tôi là “Chống Công
Giáo”, làm như “Chống Công Giáo” là một cái gì không được
phép làm, hay không có đạo đức tôn giáo, hay chia rẽ tôn
giáo v..v.., và nhất là sẽ mang tội với Chúa của họ. Tôi
không phủ nhận là tôi “Chống Công Giáo”, không phải là chống
lơ tơ mơ, mà chống triệt để. Tại sao? Vì tôi cho đây là
điều cần thiết trong thời đại ngày nay.
Những người lên án tôi là “Chống Công Giáo” nên tự hỏi,
Công giáo có đáng chống không? Và tại sao không? Nhưng họ
cần biết rõ một điều: tôi “Chống Công Giáo” nhưng không
chống người theo Công Giáo. Nghe ra thì có vẻ nghịch lý,
nhưng thật ra thì tôi “Chống Công Giáo” với mục đích “giúp
người Công giáo”, giúp để ngưởi Công giáo hiểu biết rõ
thêm về chính tôn giáo của họ mà vì ở trong một cấu trúc
quyền lực của giới giáo sĩ tiếm danh Chúa, và bị “bề trên”
bưng bít, họ không có khả năng hoặc cơ hội để biết đến những
sự thật về đạo Công giáo của họ, nhất là để giúp họ nhận
thức được rằng: chẳng có ai “chống Công Giáo” như họ nghĩ
cả, mà chính Công Giáo đã chống Công Giáo.
Thật vậy, chính cái lịch sử ô nhục, đẫm máu của Giáo hội
Công Giáo trong 2000 năm nay mà Giáo Hoàng John Paul II đã
phải lên tiếng xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội ngày
12.3.2000 tại Vatican; chính những triều đại dâm loạn của
một số không ít Giáo hoàng; chính cái định chế độc tài buôn
thần bán thánh của Giáo hội; chính cái chính sách liên kết
của Giáo hội với các chế độ thực dân để đi truyền đạo ở các
nước nghèo yếu; chính sự suy sụp đạo đức của giới chăn
chiên, điển hình là các vụ đồi bại như Linh mục cưỡng bức
tình dục một số nữ tu trong 23 quốc gia trên thế giới, rồi
cưỡng bức họ đi phá thai, vụ một số không nhỏ Linh mục ở Mỹ,
khoảng hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục trẻ em và
nữ tín đồ, bắt đầu nổ ra ở Boston năm 2002 v..v.., đã là
những thực tế “chống Công Giáo” mạnh mẽ nhất mà người Công
Giáo không bao giờ nhìn thấy và chấp nhận vì đầu óc đã bị
điều kiện hóa từ khi còn nhỏ, và những kẻ hoạt đầu chính trị
dựa hơi Công Giáo cũng không nghĩ đến.
Điều
đáng buồn là, vì hoàn cảnh đất nước từ khi Pháp, với sự hỗ
trợ đáng kể của Công Giáo Việt Nam, xâm chiếm được Việt Nam,
trí thức Việt Nam đã đi sau những trí thức Âu Mỹ cả nhiều
thế kỷ trong nhiệm vụ “chống Công Giáo”, hay nói đúng hơn,
“giải hoặc” Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng.. Bài
viết này chỉ có mục đích trình bày cho độc giả biết “chống
Công Giáo” trong thế giới Âu Mỹ ngày nay không phải là
chuyện vô đạo đức hay gây chia rẽ tôn giáo, mà là bổn phận
của giới trí thức trước những sự thực về Công Giáo do chính
Công Giáo đã thú nhận. Gần
đây, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Quang đã có cả một thiên khảo cứu
về nhiều quốc gia trên thế giới đã chống Công giáo như thế
nào.
Bài viết này chỉ muốn nói lên một điều: Trong thời đại này,
cái mũ “Chống Công Giáo” của những người Việt có đầu mà
không có óc đã không còn một giá trị trí thức, nhất là khi
những luận điệu chụp mũ này thường chỉ là sự suy diễn từ
những đầu óc của những con bò mộng Tây Ban Nha trước mảnh
vải đỏ, không có bất cứ một bằng chứng nào, không dựa trên
bất cứ cơ sở nào.
*
Lloyd
Graham: "Chúa
Ki Tô cầu nguyện (Chúa
Cha): "Cha
hãy tha thứ cho họ vì họ không biết là họ đang làm gì"…
Nếu cái tên Ki Tô không biết gì về siêu hình học này (Giê-su) mà
có chút kiến thức nào về luật nhân quả, thì lời cầu nguyện
của hắn phải đọc ngược lại – “Con người, hãy tha thứ cho
Thiên Chúa [God], vì
ông ta không biết là ông ta đã làm gì.” Tất
cả cuộc sống đều chứng tỏ cái sự kiện thê thảm này, cho nên
vấn đề không phải là Thiên Chúa có tha thứ cho tội lỗi của
con người hay không, mà là con
người có thể tha thứ cho sự độc ác của Thiên Chúa hay không?
(Christ prayed: "Father
forgive them for they know not what they do."…
Had this metaphysically ignorant Christ possessed any
knowledge of Causation, his prayer would read in reverse – “Man,
forgive God, for he knows not what he does.” All
life attests this tragic fact, so the question is not, will
God forgive man for his sins? but can man forgive God for
his cruelty? )
TCN:
Giáo hội Công Giáo đã xưng thú 7 núi tội ác của Công giáo
đối với nhân loại và xin được tha thứ. Nhưng khác với Thiên
Chúa của Công Giáo, không biết là mình đã làm gì, Giáo hội
Công giáo biết rất rõ những việc Giáo hội làm. Cho nên, vấn
đề của chúng ta ngày nay là : Chúng
ta có thể tha thứ cho 7 núi tội ác của Giáo hội Công giáo
hay không?
* * *
Ngày
Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000, trong một cuộc “Thánh lễ” công
cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con
chiên, người Chủ Chiên, Giáo hoàng Gion Pôn Hai (John Paul
II), đại diện cho "hội Thánh" Công Giáo gồm gần một tỷ tín
đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, cùng vài
chức sắc trong bộ tham mưu thần học của ông ta, trong đó có
Hồng y Nguyễn Văn Thuận
, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với
nhân loại của Công Giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên
khải”, “duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông
truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng
của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những hành
động ác ôn đặc thù Công Giáo, của những con cái giáo hội
Công Giáo "thánh thiện". Những hành động này, qua gần 20
thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như
Thánh Chiến, Tòa Hình Án xử Dị Giáo, kỳ thị phái nữ, xâm
lăng văn hóa, ý muốn thống trị và thái độ thù nghịch đối với
những tôn giáo khác, bách hại dân Do Thái, gây chia rẽ trong
cộng đồng Ki Tô, liên kết với những thế lực thực dân, phát
xít v...v... như đã được nhắc tới hết sức đại cương trong
những lời xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo.
Đây không phải là lần đầu tiên Giáo hoàng xưng thú tội
lỗi của Công Giáo. Người ta ghi nhận, trong thời gian 21
năm ở ngôi vị giáo hoàng, Ngài đã xin lỗi hơn 100 lần về
những tội lỗi rõ ràng là Giáo hội đã phạm. (Chicago
Tribune, March
13, 2000: By some counts he has already apologized for
specific sins linked to the church on more than 100
occasions during his 21- year pontificate). Nhưng lần này,
sự xưng thú tội lỗi của giáo hoàng có tầm mức rộng lớn hơn
những lần trước rất nhiều, vì nó bao quát, tuy không đầy đủ,
7 núi tội lỗi chính của giáo hội Công Giáo đối với nhân loại
trong suốt 2000 năm qua, đặc biệt là trong thiên niên kỷ thứ
hai, theo Thường Lịch.
Các tín đồ Công Giáo, nhất là tín đồ Công Giáo Việt Nam,
bèn tung hô hành động của Gion Pôn Hai là một hành động can
đảm chưa từng có trong giáo hội, theo luận điệu diễn giải
của giới chăn chiên dạy các con chiên có đầu nhưng không có
óc. Một kẻ cướp, một sát nhân …, khi bắt buộc phải thú tội
thì đó không phải là một hành động can đảm. Huống chi, giáo
hội Công giáo, trong lịch sử, đã là một tập đoàn kẻ cướp
[trong các cuộc thánh chiến, hay toa rập với thực dân đi
cướp chùa để xây nhà thờ, thí dụ như ở Việt Nam], một tập
đoàn sát nhân [trong các tòa án xử dị giáo, săn lùng và
thiêu sống phù thủy v..v…], vậy thì làm sao có thể coi những
lời xưng thú tội lỗi là can đảm hay là hành động thống hối.
Ngoài giáo hội, ai cũng biết đây là một bước đi chính
trị bắt buộc của giáo hội trong một thế giới mà ý niệm về đa
nguyên tôn giáo đã được chấp nhận rộng rãi. Trong thế giới
này, nhãn hiệu tự phong của Công Giáo như là một tôn giáo
“thiên khải”, “thánh thiện duy nhất” v..v.. thực chất chỉ là
những lời huênh hoang hợm hĩnh tự đề cao, hoàn toàn vô giá
trị đối với hơn 5 tỷ người phi- Công Giáo trên tổng số trên
6 tỷ người trên thế giới. Học Hội Đức Giêsu Ki Tô Phục Sinh
(Hội Ki Tô Học) của một nhóm tín đồ Công Giáo Việt Nam ở
Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã vạch rõ: “Roma
chọn con đường cáo thú tội lỗi của mình là có những lý do
thầm kín đã suy nghĩ lâu dài và nát óc để có quyết định
này. Trong những con đường xấu (nghĩa
là có ảnh hưởng tai hại đến giáo hội. TCN), chọn
con đường ít xấu hơn, là con đường “xưng tội trống với Thiên
Chúa và với đồng loại”.
Hơn nữa, có xưng thú tội lỗi hay không thì cả thế giới cũng
đã biết rõ bản chất của Công Giáo La Mã là như thế nào rồi,
bằng chứng ở trong sự hiện hữu của hàng trăm, hàng ngàn tác
phẩm nghiên cứu về lịch sử Công Giáo.
Hành động xưng thú tội lỗi của Vatican không phải là một
hành động can đảm. Đó chẳng qua chỉ là sự thú nhận những
điều mà thế giới đã biết rõ từ lâu, và vì trước công luận
thế giới, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội
Công Giáo không có cách nào có thể bưng bít, che dấu sự thực
được nữa. Để vớt vát uy tín của Công Giáo qua việc xưng thú
tội lỗi này, Giáo hoàng phán: “Người
ngoài sẽ khó mà hiểu được ý nghĩa tôn giáo linh thiêng của
hành động thống hối”,
trong khi thực sự có gì là linh thiêng và khó hiểu đâu, vì
hành động thống hối này không phải là một hành động đặc thù
Công Giáo, chỉ riêng Công Giáo mới có, và thực chất chỉ là
những lời nói trên đầu môi chót lưỡi “xưng tội trống với
Chúa”, không chút nào thành thật, như nhiều người đã nhận
xét.
Bức tranh Galileo đối mặt với Toà án dị giáo La Mã năm 1857 của Cristiano Banti,
link : http://vi.wikipedia.org/wiki/Galileo_Galilei
Không ai lấy làm lạ vì tại sao cho tới thời điểm gần
đây mới có một giáo hoàng công khai xưng thú tội lỗi và xin
được tha thứ cùng thế giới. Chúng ta đã biết, 359 năm sau
khi kết án Galileo Galilei và sau 13 năm nghiên cứu của một
ủy ban gồm những nhân vật thượng thặng trong Tòa Thánh, giáo
hội mới chính thức công nhận sự sai lầm của giáo hội trong
vụ án này, trong khi cả thế giới đã biết là Galilei đúng,
còn Kinh Thánh và Giáo hội đã sai, từ mấy thế kỷ nay. Chúng
ta cũng đã biết, Giáo hội đã kết tội oan một nữ anh hùng cứu
quốc của Pháp, Jeanne d’Arc, là phù thủy và đưa bà lên giàn
hỏa thiêu sống năm 1431, rồi gần 500 năm sau (1920), mới
thống hối bằng cách truy phong chức Thánh cho bà.
Jeanne d’Arc bị thiêu sống;
Sự kiên trì che dấu tội lỗi của Giáo hội Công Giáo đã nổi
tiếng trên hoàn cầu, cực chẳng đừng giáo hội mới công khai
hóa những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng không tốt cho giáo
hội, vì những sự kiện lịch sử này đối ngược hẳn với những
nhãn hiệu “thánh thiện” v..v.. tự tôn của giáo hội.
Dù giáo hội có ngụy biện để giải thích hành động xưng thú
tội lỗi của giáo hoàng như thế nào đi chăng nữa, là hành
động can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống
hối của Công Giáo, là để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới sự
hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Công Giáo vẫn không thể
nào giải đáp được thỏa đáng những câu hỏi như:
Tại
sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là
"thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về
"công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v...
lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt
2000 năm nay đối với nhân loại như vậy? trong khi các đạo
khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo chụp cho cái
mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc
gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá
trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo
hơn 500 năm? Vậy
vô thần so với hữu thần, đằng nào thánh thiện hơn? Tại sao
cho tới ngày nay mà những người Công Giáo Việt Nam ngu ngơ
vẫn luôn luôn mở miệng ra là lên án vô thần, làm như vô thần
đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong khi, xét theo
lịch sử, chính cái tôn giáo của họ, Công giáo, là vô đạo
đức và vô tôn giáo vào bậc nhất thiên hạ.
Những câu hỏi này sẽ luôn luôn ám ảnh những tín đồ Công
Giáo có đầu óc, còn đôi chút lương tri và liêm sỉ. Vì
một tôn giáo mà gây ra nhiều tội đại ác như tra tấn, tù đầy,
thiêu sống v..v.., giết hại hàng chục triệu sinh mạng vô
tội, nếu không muốn nói đến cả trăm triệu, gồm cả đàn bà và
trẻ con, bất cứ vì lý do nào, thì không thể được coi là một
tôn giáo, theo bất cứ nghĩa nào.
Đó chẳng qua chỉ là một tổ chức núp sau bình phong tôn giáo
để duy trì những quyền lực thế tục. Lương tâm trí thức của
họ bắt họ phải trực diện với sự thực này. Phải chăng họ đã
bị lừa dối từ bao thế kỷ nay bởi một cái bánh vẽ trên trời
mà không cần đếm xỉa gì tới vấn đề đạo đức, luân lý? Phải
chăng họ đã bị nhào nặn từ nhỏ để có một tâm cảnh vô cùng
ích kỷ, chỉ ham hố một sự “cứu rỗi” tưởng tượng cho riêng
mình mà không cần biết đến cái cộng đồng tôn giáo của mình
ra sao? Phải chăng họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ đến độ chỉ còn có
thể tin một cách mù quáng, không còn khả năng suy nghĩ để
tìm ra lẽ thật? v..v..
Tín đồ Công Giáo muốn tôn vinh quyền năng của Chúa Cha,
Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và Giáo hoàng thế nào thì tôn
vinh, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được những sự
thực lịch sử về Công Giáo, những sự thực đã làm cho cả thế
giới phải ghê sợ, những sự thực đã bị phanh phui đến mức độ
giáo hội không thể làm gì khác là đưa giáo hoàng và bộ tham
mưu của ông ta ra xưng tội cùng thế giới loài người về những
tội ác của Giáo hội Công Giáo để xoa dịu dư luận thế giới.
Những tội lỗi của Công Giáo đối với nhân loại, qua lời xưng
thú tội lỗi của tập đoàn Vatican, sẽ ám ảnh lương tri của
người Công Giáo suốt đời, không phải vì họ phải chịu trách
nhiệm về những việc làm của giáo hội trong quá khứ, mà vì dù
muốn dù không, họ cũng thuộc một đoàn thể có một lịch sử quá
đen tối, trái ngược với những lời tuyên truyền giả dối đã
tạo thành niềm tin của họ.
Từ nay, họ không còn có thể tự đề cao mà không ngượng miệng
những điều họ được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ để biến họ
thành những kẻ cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh và
huênh hoang, ví dụ như Công Giáo là một tôn giáo thánh
thiện, duy nhất thiên khải, cao quý hơn tất cả các tôn giáo
khác, hoặc như, người trong đạo là những người lành thiện,
đạo đức hơn tất cả những người “ngoại đạo” v.v…
Thế giới đã thấy rõ từ lâu, tất cả những lời tự tôn, tự ca
tụng, tự tôn vinh v..v.. của Giáo hội Công Giáo chỉ là những
lời tự nhận tuyên truyền huênh hoang giả dối cho đám tín đồ
thấp kém, trái hẳn với bản chất mê tín, hoang đường, thấp
kém, tàn ác v..v.. của giáo hội Công Giáo. Sau đây, tôi xin
đi vào phần phân tích vài vấn đề liên quan đến hành động
“xưng thú 7 núi tội lỗi” và “xin được tha thứ” của "hội
Thánh" Công Giáo.
Giáo hoàng xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Công
Giáo bằng những lời lẽ rất đại cương, cho nên không mấy
người biết rõ những tội ác của Giáo hội là những tội ác nào.
Lewis Weinstein viết trong tờ Chicago
Tribune ngày
16 tháng 3, 2000, như sau:
"Hầu
hết các tín đồ Công
Giáo không
biết đến cái lịch sử (chứa
đầy tội ác củaCông Giáo. TCN) mà
Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John
O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ Công
Giáo phải
"được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như
thế nào."
(Most Catholics are unaware of the history to which the
pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor,
archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by
the truth", then they must know what that truth is.)
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của
Công Giáo và những gì Công giáo đã gây ra cho nhân loại,
chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong một câu ngắn gọn:
Tội ác của Công Giáo đối với nhân loại có
thể mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình
Ngô Đại Cáo:
Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm
già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh
cái gọi là “phúc âm, chân lý” của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù
đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu
sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu
mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu
diệt các nền văn hóa phi Công Giáo v..v… Đây
là những sự kiện bất khả phủ bác đã được ghi rõ trong sử
sách.
Đi vào chi tiết, sự thật đó nằm trong những lời xưng thú
tội lỗi, dù rất đại cương, liên quan đến 7 “núi tội ác” của
giáo hội, được 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục long trọng tuyên
đọc tại Thánh đường Phê-rô ngày 12 tháng 3, 2000. Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận được hân hạnh đọc lên những lời xưng thú
tội lỗi trong mục chống
lại công lý và hòa bình v.v...
của “hội Thánh” Công Giáo.
Giáo hoàng và ban tham mưu thần học của ông đưa ra những lời
xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:
1. Xưng thú “tội
lỗi chung”.
2. Xưng thú “tội
lỗi trong khi phục vụ “chân lý””.
3. Xưng thú “tội
lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.
4. Xưng thú “tội
lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.
5. Xưng thú “tội
lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với
thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn
trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ,
kém phát triển”.
6. Xưng thú “tội
lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng
thú “tội
lỗi trong việc vi
phạm những quyền căn bản của con người”.
Vậy mà các con chiên Việt Nam vẫn rêu rao là những quan
niệm về tự do, nhân quyền v..v.. đều bắt nguồn từ Công Giáo
[sic], trong khi bản chất Công giáo là một định chế tôn giáo
độc tài thần trị phi nhân quyền vào bậc nhất thiên hạ. LS
Trần Lê Nguyên trên trang nhà VietCatholic viết: “Tự do
Ngôn Luận hay Tự Do Phát Biểu là một trong những quyền căn
bản tự nhiên do Thượng Đế ban cho con người được hưởng,
không phải do cá nhân, tổ chức hay Chế Độ Chính Trị nào ban
phát cho người dân.” Nhưng thử hỏi trong định chế Công
giáo, những quyền căn bản này có được tôn trọng hay không?
LS Nguyên đã có bao giờ nghe đến những tên như Linh mục
Leonardo Boff, nhà thần học Công giáo nổi tiếng ở Ba Tây;
Hans Kueng, nhà thần học Công giáo Đức; Bà giáo sư người Đức
Uta Ranke-Heinemann; Linh mục Charles E. Curran, giáo sư
thần học Đại Học Công giáo Hoa Kỳ; Tổng Giám Mục Raymond
Hunthausen ở Seattle v..v… Tất cả những chức sắc này trong
Công Giáo đã đều bị Vatican bịt miệng vì có những ý kiến
không thuận tai những tên độc tài trong Vatican. Mà họ bị
ai bịt miệng, chính là Hồng Y Ratzinger, Bộ Trưởng Thánh Bộ
(sic) Truyền Giáo, nay lên làm Giáo hoàng Benedict XVI.
Có phải là những con chiên Việt Nam, từ những bậc trí thức
như LS Trần Lê Nguyên cho tới các con chiên bình thường đều
đã bị nhồi sọ tẩy não kỹ đến độ chỉ có thể lập lại những
điều “giáo hội dạy rằng…”, không hề biết đến thực chất độc
tài thần trị của Giáo hội Công giáo không? Hơn nữa, thời
buổi này mà nói đến những quyền do Thượng Đế ban cho mà
không sợ người ta cười cho hay sao? Đọc Thánh Kinh thì thấy
Thượng Đế hiện thân là một ác quỉ, vi phạm tất cả mọi quyền
tự do của con người. Và đọc lịch sử Công Giáo thì chúng ta
cũng thấy, giáo hội Công giáo đã vi phạm mọi quyền tự do của
con người, những quyền do sự tiến bộ trí thức của con người
nằm trong định luật Tiến Hóa hình thành, chứ chẳng phải do
một Thượng đế của người Do Thái ban cho. Ai phủ nhận điều
này xin mời lên tiếng.
Học Hội Đức Giêsu KiTô Phục Sinh đã viết trên trang nhà,
www.kitohoc.com, ngày 5 tháng 4, 2000, một bài phê bình, gọi
7 núi tội lỗi trên là “sa
mạc tội lỗi dàn trải hàng ngàn năm trên một địa bàn rộng lớn
toàn cõi Âu Châu, và các thuộc địa của Âu Châu trên khắp thế
giới”, và
gồm “15 Lời Bàn” về việc Giáo Hoàng “xưng thú tội lỗi” và
“xin được tha thứ”. Lời bàn thứ 6 nguyên văn như sau:
“Giáo
hội dạy giáo lý nhồi sọ giáo dân rằng Tội là Quỷ Satan, và
Quỷ Satan là Tội, người phạm tội là người của Quỷ Satan,
người có Tội là người bị Satan bắt linh hồn, nắm đầu nắm cổ
và chịu sai khiến như tù nhân khổ sai…Giáo hội Công giáo
Rôma Latinh ôm ấp 7 mối tội to như 7 trái núi hàng ngàn
năm. Và 7 chương tội là 7 đàn quỷ có sừng có đuôi hàng
triệu đứa, Giáo hội nằm gọn trong tay 7 đàn quỷ và bị 7 đàn
quỷ này thống trị. Nhưng ngày xưng thú ngàn năm hi hữu này,
Giáo hội còn thiếu một chương thứ 8 “về tội trong hoàng cung
và triều đình Giáo hoàng”. Ví dụ Giáo hoàng Tây Ban Nha
dòng Borgia là Alexander VI (1492-1503) hiện nguyên hình là
một “con quỷ râu xanh” loạn luân 3 đời trực hệ đàn bà, con
trai hắn là Cesare và con gái là Lucrezia lộng hành đến nỗi
thay cha cai trị Giáo hội, có lần Lucrezia ngồi trên Tòa
Phêrô và các triều thần, các thầy dòng xúm vào hôn chân
nàng…
Đây là chuyện “thất tình lục dục” của ngàn năm thứ hai, nếu
ngược lên ngàn năm thứ nhất, có chuyện cổ kim Đông Tây độc
nhất vô nhị là “Phiên Tòa Đại Hình Khai Quật Xác Giáo Hoàng
Formosus (891-896) chết đã mục xương ngồi vào ghế bị cáo”,
sử gọi là “Cadaver Synod”, một phiên tòa Giáo hoàng xử tội
Giáo hoàng mà người đời mường tượng ra cảnh dưới âm ti cắt
lưỡi móc mắt chặt từng ngón tay, tùng xẻo phân thây ra trăm
mảnh ném xuống sông Tiber. Năm sau, Giáo hoàng Stephen VI
và người bố trí phiên tòa xử xác chết này bị lật đổ, bị tù
và bị thắt cổ cho chết. Hàng trăm cuộc phế lập, tranh
quyền, thanh trừng, cướp ngôi Giáo hoàng cực kỳ hung bạo,
tàn nhẫn, vô luân, y hệt thời Xuân Thu Chiến Quốc.”
Dù trong bản văn xưng tội giáo hoàng và ban tham mưu của
ông chỉ đưa ra những lời hết sức đại cương, tránh né chi
tiết và nhiều trường hợp trọng đại trong lịch sử Công Giáo
và trong nội bộ Giáo hội, hành động xưng tội này cũng có một
ảnh hưởng trên toàn thế giới. Ảnh hưởng như thế nào, đó là
tùy theo sự nhận định của mỗi người.
Đối với dân tộc Việt Nam, những lời xưng thú tội lỗi của
Giáo hội Công Giáo như trên đã bạch hóa nhiều sự kiện lịch
sử. Những tác phẩm ngụy sử để biện bác, bào chữa cho Công
Giáo Giáo ở Việt Nam của những tín đồ Công Giáo Việt Nam như
Phan Phát Huồn, Vũ Đình Hoạt, Bùi Đức Sinh v..v.. đã trở
thành vô giá trị. Vì sự bách hại đạo Công Giáo ở Việt Nam
không bắt nguồn từ lý do tôn giáo mà vì ý muốn thống trị của
Công Giáo, vì thái độ thù nghịch của Công Giáo đối với các
tôn giáo truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì sự liên kết
của Giáo hội Công Giáo với những thế lực thực dân đưa đến sự
đô hộ Việt Nam của Pháp, vì sự coi thường, không tôn trọng
nền văn hóa và luật pháp Việt Nam, vì đã đào tạo một lớp
giáo dân cuồng tín, sẵn sàng phản bội quốc gia, vì đã khích
động gây nội loạn trong đất nước Việt Nam v.v…
Tất cả những điều này đã được sử sách ghi rõ. Những lý do
cấm đạo mà những tín đồ cuồng tín Công Giáo bịa ra như các
Vua Triều Nguyễn thù nghịch Công Giáo vì đạo này đối nghịch
với Nho Giáo, giới Văn Thân “Bình Tây Sát Tả” vì Công Giáo
làm cho họ mất thế đứng trong xã hội hay mất nồi cơm, vì đạo
Công Giáo chủ trương công bằng, bác ái v..v… nay đã không
còn một giá trị nào, vì toàn bộ những luận cứ này đã bị Giáo
hoàng phủ bác dứt khoát qua những lời xưng thú tội lỗi
trên.
Mặt khác, những lời xưng thú tội lỗi của giáo hội đã bảo
đảm giá trị của những tác phẩm nghiên cứu về Công Giáo trên
thế giới, và của một số tác giả Việt Nam: ví dụ như cuốn Đạo
Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của
Cao Huy Thuần, cuốnThập Giá và Lưỡi Gươm của
LM Trần Tam Tĩnh, cuốn Công
Giáo Chính Sử của
Trần Chung Ngọc, cuốn Thực
Chất Của Giáo Hội La Mã của
Nguyễn Mạnh Quang, cuốn Công
Giáo Trên Bờ Vực Thẳm của
giáo dân tỉnh ngộ Charlie Nguyễn. cuốn “Ki
Tô Giáo: Những Khuyết Điểm” của
Bác sĩ Trần Quý Nhu, cuốn “Công
Giáo: Nhận Định Mới về Tín Lý và Giáo Lý ” của
Bác sĩ Công giáo tỉnh ngộ Nguyễn Văn Thọ v..v.. vì trong
những cuốn này, các tác giả không làm chuyện gì khác hơn là
đưa ra phần nào chi tiết sự thật về thực chất và những tội
lỗi của Công Giáo đối với nhân loại nói chung, đối với Việt
Nam nói riêng, những sự thật mà Giáo Hoàng, đại diện cho
Công Giáo, đã thừa nhận qua những lời xưng thú tội lỗi tổng
quát và xin được tha thứ ở trên.
Vì giáo hoàng đã công khai xưng thú tội lỗi của Giáo hội
Công Giáo đối với nhân loại, những tác phẩm vạch trần những
sự thực và những tội lỗi của Công giáo ngày nay đã được bảo
đảm giá trị trí thức. Giáo hội và các tín đồ Công Giáo Việt
Nam cuồng tín không còn có thể tiếp tục theo sách lược vu
khống từ trước tới nay của giáo hội, lên án các tác phẩm
nghiên cứu sự thật trên là chống Công Giáo, hay là chụp mũ
Cộng Sản chống tôn giáo, hoặc là tác phẩm của những kẻ thù
của Công Giáo v..v...
Theo lời diễn giải của giáo hội thì hành động xưng thú
tội lỗi này là để thanh tẩy ký ức (purification of memory)
có tác dụng cất bỏ mặc cảm tội lỗi của giáo hội qua hành
động ăn năn thống hối và thú nhận tội lỗi. Một ký giả đã
nhận xét như sau: Nhưng
nếu Giáo hoàng cho rằng, với những lời xưng thú tội lỗi của
giáo hội, đọc lên trong vài mươi phút, là có thể xóa bỏ cái
lịch sử 2000 năm chứa đầy tội ác của giáo hội thì Ngài đã
lầm. (If
the pope thinks that he can wipe out the criminal record of
the Church in the last 2000 years in a 15-minute sermon,
he’s wrong.) Tờ Newsweek ngày 20 tháng 3, 2000 cũng viết: Nhưng
làm sao mà Giáo hoàng nào có thể giải thích được, đừng nói
đến thống hối, mọi tội lỗi mà giáo hội đã phạm nhân danh đức
tin Công Giáo trong
ngàn năm qua? (But
how can any pope account for, much less repent for, all the
sins committed in the name of the Catholic faith over the
past thousand years?) .
Kết luận: "Xin được tha thứ" chỉ là một bước đi chính trị
để xoa dịu dư luận quần chúng trong một thế giới mà sự tiến
bộ trí thức không cho phép giáo hội hành xử như trước, vì
như học giả John Remsburg đã viết: bó
củi (để
thiêu sống người) và
cây gươm (để
giết người) đã
bị tước đoạt khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội (The
fagot and the sword have been wrested from her bloody
hands...), hoặc che dấu sự thực lâu hơn nữa. Học Hội Đức
Giêsu Ki Tô Phục Sinh cũng viết trong lời bàn thứ 7 như sau:
“Hàng
ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngoại - và
một chương tội đối nội là 8 - nghệ thuật tuyên truyền của
Giáo hội Roma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến
vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ
thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo hội là Thánh,
Giáo hội là Mầu Nhiệm, Giáo hội là Bí Tích, Giáo hội là Hiền
Thê đức Giêsu, Giáo hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo
và Tông Truyền, Giáo hội là Vương Quốc của Thiên Chúa… Giáo
hội tự nhận cho mình tất cả những khái niệm (sic) cao cả
thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế
tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên
truyền, Giáo hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin”
và buông bức “màn sắt thần học” lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa
giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù
phép, ảo thuật “núi tội thành con chuột”, “kẻ cướp mặc áo
thầy tu”, và “quỷ Satan có diện mạo ông thánh.”
Không ai hiểu rõ đạo mình hơn nhóm Ki Tô Học và khó ai có
thể phủ bác được những lời bàn của nhóm này.
Mặt khác, giáo hoàng có thể tự ban cho mình cái quyền đại
diện cho giáo hội để xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ,
nhưng ai là người đại diện cho hàng chục triệu nạn nhân của
giáo hội Công giáo trong suốt 2000 năm qua, những nạn nhân
đã bị giáo hội nhân danh "tình yêu thương" của Chúa, nhân
danh chương trình "cứu rỗi" của Chúa, nhân danh "chân lý"
của Chúa, nhân danh sự "mạc khải" của Chúa v..v.., chà đạp
nhân phẩm, bắt bớ, giam cầm, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống,
thiêu sống, tàn sát tập thể trong sách lược diệt chủng
v..v.. để mà tha thứ cho giáo hội?
Giáo hoàng và 5 hồng y cùng 2 tổng giám mục của ông đã
xưng thú tội lỗi của giáo hội Công giáo trước công chúng và
xin được tha thứ. Nhưng, một ủy ban các nhà Thần học do
Vatican bổ nhiệm, đã tung ra một văn kiện dài 30 trang, giải
thích căn bản triết lý và thần học của việc xưng thú tội lỗi
và xin được tha thứ của giáo hoàng và viết rõ là sự xưng tội
trong toàn thể giáo hội là xưng
tội cùng Chúa.
(Steve Kloehn in Chicago
Tribune,
March 13, 2000: Last week, a panel of Vatican-appointed
theologians released a 30-page document laying out the
philosophical and theological basis for the pope’s apologies
and repentance - the document makes it clear that churchwide
confession is addressed to God). Trong bản văn này, Giáo
hội cũng trốn trách nhiệm, đổ tội lên đầu các tín đồ, vài
(sic) con cái của Giáo hội gây ra tội ác, chứ còn giáo hội
thì vẫn “thánh
thiện bởi vì Chúa Ki Tô là Thủ Lãnh và là vị hôn phu của
giáo hội; Chúa Thánh Thần là linh hồn linh động giáo hội
v..v..” (Báo Dấn
Thân số
35, trang 4).
Dù văn kiện này chỉ có mục đích vớt vát mặt mũi và uy tín
của giáo hội nhưng không có cách nào giáo hội có thể hòa hợp
một tín lý chính thức của giáo hội: rằng giáo hội là nhiệm
thể của Chúa Ki Tô (the mystical body of Christ), do đó
không thể nào gây ra tội lỗi (incapable of sin), với thực tế
hiển nhiên là giáo hội như một định chế (institution), đã
gây ra nhiều tội lỗi. Linh mục Thomas Reese, một sử gia
Công giáo, cũng phải thú nhận rằng: “Cần
phải nhấn mạnh rằng, con
cái của giáo hội gồm những giáo hoàng, hồng y, giám mục và
linh mục chứ không phải chỉ có những tín đồ thông thường
ngồi trên ghế nhà thờ.” (It
should be emphasized that the “children” of the church
include popes, cardinals, bishops, clergy and not just the
people in the pews.)
Giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục là những người quyết
định và thi hành đường hướng hoạt động của giáo hội, còn đám
con chiên ngu ngơ ở dưới thì “bề trên” bảo sao nghe vậy,
tuyệt đối tuân phục không có ý kiến. Điều này có nghĩa là,
những tội ác của Công Giáo đối với nhân loại không phải là
do “một
vài (sic) anh
em chúng ta đã sa ngã”(some
of our brothers have fallen) gây nên, mà chính là trách
nhiệm của giáo hội, như tôi sẽ trình bày với vài chi tiết
trong phần sau. Vả chăng, nếu chỉ cần xưng tội với Chúa thì
cứ đóng kín cửa thánh đường Phê-rô mà xưng tội, việc gì phải
làm công khai để quảng cáo trước quần chúng?
Thủ đoạn vớt vát uy tín này đã gây nhiều bất mãn trong dư
luận thế giới. R. J. Weissman viết trong tờ Chicago Tribune
ngày 16 tháng 3, 2000:
“Sự xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ của giáo hoàng
không đặc biệt làm tôi khó chịu vì ông ta không nhắc gì tới
những Lò Thiêu Sống của Đức Quốc Xã. Nó thực sự làm tôi khó
chịu vì giáo hoàng không xin được tha thứ từ những kẻ đã
phải đau khổ gánh chịu những sự tàn bạo ác độc. Con người
là phần sống quan trọng nhất trên trái đất.. Tại sao giáo
hoàng không nhận ra điều này? Tôi là một người không chấp
nhận lời xin lỗi của giáo hoàng đối với Chúa. Có thể đó là
một bước đi đúng đường. Nhưng tôi nghĩ rằng đó là sự trốn
tránh trách nhiệm.”
(It doesn’t particularly bother me that the Holocaust was
not mentioned. It does bother me that the pontiff has not
ask forgiveness from the people who suffered the
atrociries. People are the most important part of life on
Earth…Why doesn’t the pontiff recognize this. I, for one,
do not accept his apology to God. Perhaps it is a step in
the right direction. But I think that it is an avoidance of
responsibility.)
Thật vậy, Chúa, một sản phẩm do óc tưởng tượng của con
người tạo ra, không phải là nạn nhân của giáo hội, mà nạn
nhân chính là những con người bằng xương bằng thịt, máu cùng
đỏ, nước mắt cùng mặn, như Giêsu khi còn sống, như các giáo
hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, và như tất
cả mọi người chúng ta. Chúa đã chết trên thập giá từ lâu.
Chúa không bị giáo hội Công Giáo tù đầy, tra tấn cực hình,
thiêu sống, giết chóc v…v…, mà chính là con người, hàng chục
triệu con người. Phạm tội đối với con người mà lại xưng tội
cùng Chúa, một nhân vật đầy huyền thoại tính và không có một
căn bản thuyết phục nào, về hiện thực cũng như về khoa học,
để chứng tỏ rằng Chúa có thể chuộc tội hay tha thứ tội lỗi
của con người, một nhân vật đã được một số đệ tử dựng lên
với nhiều chi tiết mâu thuẫn và sai lầm như được viết trong
Thánh Kinh, thì chuyện “xưng tội cùng Chúa” đúng là chuyện
phi lý, chỉ có giáo hội Công Giáo mới có thể làm như vậy.
Giáo hội vẫn giữ thái độ kiêu căng tự tôn của thời Trung Cổ:
cho rằng chỉ có Chúa là có quyền tha tội cho giáo hội.
Đây cũng là điều mà khi xưa giáo hội đã từng áp dụng ở bất
cứ nơi nào giáo hội có quyền hành và ở thế mạnh: những linh
mục, giám mục v..v.. của giáo hội, bất cứ họ làm điều ác ôn
nào, không ai có quyền phán xét họ ngoài Giáo hội. Nói
tóm lại, Chúa chỉ là cái bung xung mà giáo hội đưa ra để tha
hồ làm điều ác, vì làm xong chỉ việc xưng tội với Chúa, xin
Chúa tha tội là ký ức đã được thanh tẩy, là mặc cảm tội lỗi
đã được cất bỏ, là lương tâm lại yên ổn để tiếp tục làm ác,
nếu ở vị thế có quyền hành và có cơ hội thuận tiện.
Chúa chỉ là cái bình phong giáo hội đưa ra để che đậy, bảo
vệ và duy trì định chế độc tài của chính giáo hội chứ thật
ra chẳng làm gì có chuyện Chúa tha tội hay không tha tội.
Chúng ta cũng biết, ở Việt Nam, khi các con chiên phàn nàn
về mấy ông linh mục làm bậy thì giám mục “bề trên” cũng
khuyên rằng: “các
con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”.
Điều này có nghĩa là “cha cũng như Chúa”, đưa Chúa ra làm
bung xung che đỡ cho những hành động bậy bạ của các cha “bề
trên”. Nhưng ở Bắc Mỹ thì tín đồ Công Giáo tiến bộ hơn
nhiều. Tín đồ đã đưa hơn 5000 ông “cha cũng như Chúa” can
tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ vị thành niên ra tòa,
và kết quả là nhiều ông “cha cũng như Chúa” vào tù ngồi đếm
lịch, chờ ngày lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa, và
giáo hội đã phải bỏ ra gần 2 tỷ đô la để trả tiền tòa phạt
bồi thường cho các nạn nhân. Tiền ở đâu mà giáo hội có
nhiều thế? Chắc chắn một phần là do giáo dân đóng góp “để
giáo hội làm việc thiện xã hội.”
Nhưng xét cho cùng thì vấn đề chính là: Nếu chúng ta
không thể tha thứ cho những sự độc ác của Thiên Chúa, thì
chúng ta cũng không thể tha thứ cho 7 núi tội ác của Giáo
hội Công giáo La Mã. Tại sao chúng ta không thể tha thứ cho
Thiên Chúa? Bởi
vì đọc trong Thánh Kinh, người ta đã đếm số người mà Thiên
Chúa giết bừa bãi là 2,270,365+[hơn
2 triệu 2 trăm 70 ngàn 3 trăm 65 người, Posted by Steve
Wells at 8/02/3006] gồm
cả đàn bà và trẻ con, đó là chưa kể số người chết trong nạn
Hồng Thủy, trong thành Sodom và Gomorrah v..v.. hay trong
các bệnh truyền nhiễm như dịch hạch mà Thiên Chúa gây nên
không thể đếm được, trong khi Satan chỉ giết có 10 người. [No
attempt was made to include the victims of Noah's flood,
Sodom and Gomorrah, or the many plagues, famines, fiery
serpents, etc., with which the good book is filled.] Về
Công giáo, trong giòng lịch sử, Giáo hội Công giáo đã giết
nhiều người hơn Thiên Chúa của họ gấp bội. Do đó
những người có lương tâm của con người như chúng ta làm sao
có thể tha thứ cho những tội ác của giáo hội Công giáo?
Không tha thứ cho Giáo hội Công giáo không có nghĩa là bắt
giáo hội phải đền tội, chúng ta không có khả năng như vậy.
Không tha thứ cũng không có nghĩa là chúng ta phải mang lòng
hận thù và có những hành động bạo hành đối với giáo dân Công
giáo. Chúng ta không muốn như vậy, người Việt Nam chúng ta
văn minh tiến bộ không như người Công giáo, tàn bạo đối với
những người khác đạo. Nhưng điều mà chúng ta có thể làm để
tỏ thái độ không tha thứ của chúng ta, đồng thời có tính
cách xây dựng, là thường xuyên nhắc lại 7 núi tội ác của
Công giáo để giáo dục những người Công giáo cho đến khi mọi
người Công giáo và người ngoại đạo đều ý thức được cái lịch
sử ô nhục đẫm máu của Công Giáo để mà sửa mình, giữ mình,
chọn cho mình một con đường tâm linh lành mạnh hợp lý, đầu
óc không mang gánh nặng tỳ vết của sự bạo tàn, vô luân, phi
dân tộc hay phản dân tộc.
Nhìn kỹ vào vấn đề xưng tội cùng Chúa và xin Chúa tha thứ,
chúng ta thấy có nhiều điều không ổn, và việc xưng tội cùng
Chúa không hợp với lôgic thông thường, không có căn bản vững
chắc, thực chất chỉ là một thủ đoạn của giáo hội trước đám
tín đồ thấp kém bị huyễn hoặc bởi những luận điệu đầy tính
chất mê tín dị đoan. Tại sao? Vì giáo hội đã theo đúng
những lời trong Thánh Kinh, được coi là chứa những lời mạc
khải không thể sai lầm của Chúa, nên mới có những hành động
dã man tàn bạo đối với nhân loại. Chúa
không thể tha thứ cho giáo hội, vì chính Chúa là nguồn cảm
hứng và cũng là nguồn chỉ đạo tâm linh cho giáo hội, hướng
dẫn giáo hội. Mọi
tín đồ Công giáo, từ Giáo hoàng trở xuống, đã được Thánh
Linh hay Chúa Thánh Thần vào ngự trong người, mà Chúa
Thánh Thần là linh hồn linh động giáo hội [theo
báo Dấn Thân của Công Giáo]. Vậy
nếu giáo hội phạm tội, thì theo một nghĩa nào đó, tội của
Chúa Thánh Thần, alias Chúa Cha, alias Chúa Con (Giê su),
theo thuyết Chúa Ba Ngôi của Công giáo, nặng hơn tội của
giáo hội, vì giáo hội chỉ là cấp thừa hành. Đây không
phải là những lời vô căn cứ, có tính cách phỉ báng Chúa, mà
dựa trên sự kiện như được chứng minh qua những luận cứ sau
đây.
Đọc Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta thấy rõ ràng
là những hành động tội lỗi của Giáo hội Công giáo trong 2000
năm qua bắt nguồn từ những luật lệ, những điều Chúa Cha
cũng như Chúa Con dạy trong Thánh Kinh. Trích dẫn tất cả
những điều này từ Thánh Kinh ra để chứng minh luận cứ trên
thì chiếm quá nhiều chỗ trong bài, cho nên tôi chỉ đưa ra
vài tài liệu của một số học giả trong xã hội Âu Mỹ:
David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New
Mexico State University), trong cuốn "Cuốn
Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The
Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết về
nội dung tổng quát của cuốn Tân Ước như sau :
"Vấn
đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có
những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì.
Hầu hết đều lầm, họ chỉ quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã
được giáo hội chấp thuận, và họ
sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Thiên Chúa trong Cựu Ước
khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn (nghĩa
là Giê-Su; TCN) trong
Tân Ước cũng còn ở dưới mức hoàn hảo khá xa. Thông
điệp của Giê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường
nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn. Xét về toàn bộ
thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu."
(The problem is that people think they know what's in the
Bible, or at least what kind of material it contains. Most
of them are wrong: they are only familiar with a few
church-approved extracts, and are astonished not just how
awful God is in the Old Testament, but also at how much less
than perfect his son seems in the New. The message of Jesus
isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at
best. Taken as a whole, it could well be The Bad News
Bible.)
Tiến sĩ Madalyn O’Hair, trong cuốn Tất
Cả Những Điều Mà Bạn Muốn Hỏi Những Người Mỹ Vô Thần (All
The Questions You Ever Wanted To Ask American Atheists), đã
viết về ảnh hưởng của điều răn thứ nhất trong Cựu Ước và
điều Giêsu truyền các tông đồ phải đi cải đạo người khác
(ngày nay các học giả nghiên cứu Tân Ước đã chứng minh rằng
đây chỉ là câu được ngụy tạo và thêm vào Thánh Kinh về sau
để biện minh cho sự bành trướng của Công giáo trên thế giới,
vì câu này mâu thuẫn với nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh
nói về sự tái giáng trần của Giêsu và ngày phán xét đã gần
kề, ngay trong thế hệ của những người sống đồng thời với
Giêsu. TCN) như sau:
“Cái
tiền đề căn bản của Ki Tô Giáo là không khoan nhượng các tôn
giáo khác. Tín đồ Ki Tô không thể chỉ theo tín ngưỡng của
mình và để cho mọi người khác tự do theo tín ngưỡng của họ.
Giê-su đòi
hỏi rằng các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo người khác (nghĩa
là cưỡng bách người khác phải tin vào đạo Giê-su, thực ra
điều này chỉ là sự ngụy tạo của giáo hội Công
giáo) và
điều này đã gây nên nhiều sự đau khổ cho nhân loại hơn bất
cứ tôn giáo nào khác. Những Thần của tôn giáo đa thần sống
hòa bình với nhau. Nhưng khi Ki Tô Giáo xuất hiện với tính
cách duy nhất của nó, dựa trên điều thứ nhất của mười điều
răn, “Ngươi không được có Thần nào khác ngoài Ta”, thì sự
giết chóc bắt đầu.”
(The basic premise of Christianity is intolerance. The
Christian cannot just have his belief and permit everyone
else to have theirs. Jesus Christ demanded that the
Christian convert and this has caused more grief to mankind
than any other religion. The old pagan gods lived side by
side. But when Christianity came with its exclusivism,
based on the first of the Ten Commandments, “Thou shalt have
no other god before Me,” the killing began.)
Mục sư Ernie Bringas viết về ảnh hưởng của sự tin mù
quáng vào Thánh kinh như sau trong cuốn Những
Thảm Họa Trong Quá Khứ và Hiện Tại Do Sự Sùng Tín Thánh Kinh (Going
by the Book: Past and Present Tragedies of Biblical
Authority) trg. 17-18:
"Trải
qua nhiều thế kỷ, sự
sùng tín Kinh Thánh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin
mù quáng, trong
sự khủng bố, ngược đãi người Do Thái và những người phi
Ki-Tô, giết hại và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục
tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý tôn sùng, và nhiều lầm lạc
khác. Những
mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể
thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền năng
tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh…
Ki Tô Giáo đã để lại một dấu vết kinh khoàng, khổ sở và
chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm máu. Và
những biến cố tàn ác, lố bịch trong sử sách đã được gây ra
dưới ảo tưởng (đôi
khi là cái cớ): đó là sự chỉ đạo của Thiên Chúa của Ki Tô
Giáo, là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn."
(Over the past centuries, bibliolatry has led Christians
in bigotry, the persecution of Jews and other
non-Christians, murder and terrorism, the oppression of
women, the suppression of sexuality, censorship, cult
mentality, and other aberrations. The destructive
behavior patterns can be easily traced to the unchallenged
authority accorded biblical writing.
Christianity has left an appalling trail of misery and
death as recorded in the bloodstained pages of history. And
the cruel, grotesque events they record are prime examples
of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometime
pretext) of divine guidance.)
Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia lỗi lạc của Mỹ vào
cuối thế kỷ 19, đã đưa ra một thách đố: ông sẽ tặng một
giải thưởng là $100 (năm 1890) cho vị linh mục hay mục sư
nào dám lên bục giảng, giảng những đoạn mà chính
Ingersoll trích dẫn từ Thánh kinh. Trong nhiều năm, không
có một người nào nhận lời thách đố này cả. Một người có óc
suy luận tối thiểu có thể mường tượng ngay ra là nội dung
những đoạn đó trong Thánh Kinh nó như thế nào. Ông viết về
những tác hại của Thánh Kinh và của niềm tin vào Chúa trên
nhân loại:
" Nhân
danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và
giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân
danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là
những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu
của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng
cả ngàn năm. Trong phúc âm của hắn chúng ta thấy cái tín
lý về sự đau khổ vĩnh viễn, và những lời của hắn đã gia thêm
sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Phúc
âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi
sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi
đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu
như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin,
tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân
loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết
ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được
sinh ra."
(In Christ name millions and millions of men and women
have been imprisoned, tortured and killed. In his name
millions and millions have been enslaved. In his name the
thinkers, the investigators, have been branded as criminals,
and his followers have shed the blood of the wisest and the
best. In his name the progress of many nations was stayed
for a thousand years. In his gospel was found the dogma of
eternal pain, and his words added an infinite horror to
death. His gospel filled the world with hatred and revenge,
made intellectual honesty a crime, made happiness here the
road to hell, denounced love as base and bestial, canonized
credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.
It would be far better had the New Testament never been
written - far better had the theological Christ never
lived.)
Nhưng rõ ràng hơn cả là những đoạn sau đây của Jack Bays
viết trong cuốn Hình
Bóng Của Quỷ (The
Shadow Of The Demon), trg. 6-7, về những điều độc ác phi lý
trong Thánh Kinh, những điều đã làm nguồn cảm hứng cho những
hành động của Giáo hội Công giáo sau này:
“Theo
Thánh Kinh, hơn 99% những sự trừng phạt của Chúa Cha là đổ
lên đầu những người vô tội - những người không hề dính líu
gì tới những trường hợp để Chúa phải trừng phạt.
Vì Adam ăn một trái táo mà cả nhân loại bị đày đọa: “Vì
sự xúc phạm của một người, cả nhân loại bị kết án và luận
phạt” (Rom: 5:18). Những
tư tưởng như vậy là từ đầu óc của một người man rợ không hề
có một mảy may ý niệm nào về công lý.
Chúng ta được biết Thiên Chúa mang 10 tai họa đến cho dân
Ai Cập vì tim của Vua Ai Cập (Pharaoh) trai
cứng (nghĩa
là tàn nhẫn. TCN). Những người dân này không liên quan
gì tới việc Pharaoh có trái tim trai cứng. Tuy
vậy, gia súc của họ bị chết hết, mùa màng hư hại, vườn tược
suy sụp, nhà cửa đổ nát, và tất cả những đứa con sinh đầu
lòng đều bị giết. Nếu
là lỗi của Pharaoh thì chỉ mình Pharaoh phải gánh chịu tai
họa mà thôi. Và chúng ta cũng biết, chính Thiên Chúa đã làm
cho trái tim của Pharaoh trai cứng.
Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa đã dạy dân mà Ngài đặc biệt
chọn (Do
Thái)làm tội ác và giúp dân này thực hiện những tội ác.
Thiên Chúa giúp Jacob lừa dối cậu của hắn ta (Gen:
30: 27-43), và
Thiên Chúa dạy dân ngài chọn đi lừa dối dân Ai Cập trong một
cuộc lừa đảo lớn nhất trong lịch sử (Exo:
11: 2-4). Dân Ai Cập không trả công đủ cho dân Do Thái (đang
làm nô lệ ở Ai Cập. TCN), cho
nên, bài học luân lý vĩ đại của Thiên Chúa là: nếu chủ ngươi
không trả công xứng đáng cho ngươi thì ngươi hãy ăn cắp của
chủ để bù vào sự thiệt hại này.
Những
chuyện này trong Thánh Kinh chứng tỏ những người viết Thánh
Kinh có đầu óc của những dân man rợ, không có một ý niệm nào
về công bằng và bác ái.
Trong những cuộc chiến tranh chiếm đất phát động bởi “dân
được Thần chọn”, lệnh truyền ra là phải giết sạch mọi người,
già hay trẻ. Ít ra là trẻ thơ không có tội tình gì và tội
lỗi duy nhất của những người lớn tuổi là họ có đất đai và
con gái mà những kẻ man dại, liều lĩnh, muốn chiếm hữu.
Những nạn nhân này cũng là người có tín ngưỡng khác, và sự
khoan nhượng tín ngưỡng của người khác là điều mà Thiên Chúa
quyết định cấm, theo như Thánh Kinh. Dân
“thánh Chúa” được lệnh phải tiêu diệt tất cả những ai không
cùng tín ngưỡng. Thánh Kinh dạy chúng ta là phải giết ngay
cả con trai, con gái, cha, mẹ chúng ta nếu những người này
không theo tôn giáo của chúng ta. (Phục Truyền 13: 6-10).”
(More than 99% of all the punishment meted out by God,
according to the Bible, was upon innocent people - people
not even accused of having anything to do with the incidents
that brought on the punishment.
Because Adam ate a certain apple all mankind is doomed:
“By the offense of one, judment came upon all men to
condemnation” (Rom: 5:18). Such thoughts came from the mind
of a savage who never had the slightest conception of
justice.
We are told that God brought the ten scourges upon the
Egyptians because Pharaoh’s heart was hardened. These
people had nothing to do with the hardening of Pharaoh’s
heart. Yet their stock was killed, their crops ruined, their
orchards destroyed, their buildings broken down, and their
first born killed. If it was Pharaoh’s fault then he alone
should have suffered. As the story goes it was God who
hardened his heart..
According to the Bible, God taught his chosen people
crime and aided them in it. He helped Jacob cheat his uncle
(Gen: 30: 27-43), and he taught and helped his chosen people
defraud the Egyptians in the largest con game in history
(Exo: 11: 2-4). The Egyptians did not pay the Israelites
enough, so the great moral lesson seems to be that if your
boss does not pay you enough you are supposed to steal from
him to make up for it.
These stories show that the Bible writers had the minds
of barbarians with no conception of mercy or justice. In
the wars of conquest waged by the “chosen people of God”,
the command was for slaughter of old and young. At least
the children were innocent of anything wrong and the only
sin for which adults were being punished was that they had
lands and young daughters that these wild, ruthless
barbarians wanted. The victims had different religious
ideas, too, and religious tolerance was positively forbidden
by God according to the Bible. The “holy people” were to
exterminate all who had a different religion. The Bible
commands that son, daughter, father or mother be killed if
they differ with us in religion. (Deut: 13: 6-10)).
Từ vài tài liệu nêu trên, đây chỉ là một số nhỏ trong số
rất nhiều tài liệu khảo cứu chính xác về Ki Tô Giáo hiện hữu
ngày nay, và đọc lịch sử Công giáo, chúng ta đã hiểu tại sao
“hội thánh” Công giáo lại phạm quá nhiều tội ác đối với nhân
loại. Chúng ta đã hiểu tại sao, trong cuộc Thánh Chiến
Albigense, khi một sĩ quan hỏi đại diện của Giáo hoàng đương
thời: “Làm
sao phân biệt được ai là tín đồ Công giáo (catholics) và
ai là kẻ lạc đạo(heretics)”
thì câu trả lời là: “Giết
hết đi, Thiên Chúa sẽ nhận biết ai là tín đồ của Người”
(Kill them all. God will recognize His own.). Vì
câu trả lời này mà trên 15000 người trong thị trấn Béziers,
không phân biệt già trẻ lớn bé, đàn ông, đàn bà, con nít đều
bị tàn sát không nương tay.
Ngày xưng 7 tội lỗi 12/3/2000,
link : http://biblelight.net/pope_to_seek_forgiveness.htm
link : http://biblelight.net/pope_to_seek_forgiveness.htm
Chúng ta đã hiểu tại sao giáo hoàng Paul IV lại có thể tuyên
bố:“Nếu cha tôi lạc đạo (nghĩa
là không tin Chúa như tôi tin) thì
tôi sẽ đích thân đi lượm củi để thiêu sống ông ta.” (If
my own father were a heretic, I would personally gather the
wood to burn him.); tại sao
chính quyền Công giáo của Ante Pavelic ở Croatia trong kỳ đệ
nhị Thế Chiến, trong đó có các linh mục, giám mục làm trưởng
trại giam, làm cấp chỉ huy trong tổ chức Ustashi, đã tàn
sát, cắt cổ, thiêu sống khoảng 700000 người “ngoại đạo” theo
Chính Thống Giáo hoặc Do Thái; tại
sao chính quyền Ngô Đình Diệm, người được Hồng Y Spellman
đặt lên ở Nam Việt Nam, người đã bị gọi là một Phán Quan Tây
Ban Nha, đã giết trên 3 trăm ngàn người “ngoại đạo” sau cái
bình phong “chống Cộng”, đã dung túng cho các linh mục, giám
mục buôn lậu, chiếm đất công làm nhà thờ, dung túng cho
người em vô tài vô đức như Ngô Đình Cẩn tổ chức mật vụ miền
Trung, muốn giết ai thì giết, muốn cướp đoạt tài sản của ai
thì cướp v..v…; tại sao Công giáo tại Việt Nam đã làm tay
sai cho Pháp, phản bội dân tộc, và rồi dựa vào quan thầy
Thực dân Pháp để chiếm đất Chùa làm nhà thờ, ví dụ như nhà
thờ lớn ở Hà Nội, nhà thờ La Vang ở Quảng Trị, nhà thờ Đức
Bà ở Sài gòn v..v.. đều làm trên đất cưỡng chiếm của Phật
Giáo.
Thật là rõ ràng, nguồn gốc tội lỗi của Giáo hội Công giáo
là ở trong Thánh Kinh. Tất cả tội ác của Giáo hội Công giáo
đối với nhân loại là do sự tin tưởng của Công giáo vào những
lời “mạc khải” không thể sai lầm của Thiên Chúa (Christian
God) được viết trong Thánh Kinh. Từ những thế kỷ đầu, Giáo
hoàng đã ra lệnh đốt sách vở ngoại đạo. Giáo hoàng Urban II
phát động cuộc Thánh Chiến đầu tiên vào cuối thế kỷ 11; Giáo
hoàng Gregory IX ký sắc lệnh thiết lập những Tòa Hình Án xử
Dị Giáo vào thế kỷ 13 và sau đó, Giáo hoàng Innocent IV ký
sắc lệnh cho phép những Tòa Hình Án dùng cực hình tra khảo
để lấy những lời “thú
tội” của
những người mà giáo hội kết án là lạc đạo hay dị giáo; các
Giáo Hoàng Martin V, Callistus III, Alexander VI, trong thế
kỷ 15, ký sắc lệnh cho dân Chúa đi ăn cướp đất đai, chiếm
thuộc địa, và cưỡng bách dân thuộc địa phải làm nô lệ, phải
cải đạo.
Giáo hoàng là ai? Chính là đại diện của Chúa trên trần
(Vicar of Christ), không thể sai lầm trong những quyết định
về Đức Tin hay đạo đức (Infallible in matters of Faith or
Morals). Như vậy, xưng thú tội lỗi và xin Thiên Chúa tha
thứ cho những hành động bắt nguồn từ chính những luật lệ và
điều răn, điều dạy của Thiên Chúa trong Thánh Kinh là một
điều khôi hài đối với người ngoại đạo, những người đã hiểu
rõ Thánh Kinh và nguồn gốc những tội ác đối với nhân loại
của Công giáo.
Nhưng ít ra, hành động xưng thú tội lỗi và xin tha thứ này
cũng làm sáng tỏ một điều: những
lời mà Giáo hội cho là “mạc khải” không thể sai lầm của
Thiên Chúa trong Thánh Kinh chẳng qua chỉ là sản phẩm của
những đầu óc mọi rợ của thời bán khai, đầu óc của những
người viết Thánh Kinh, không có một ý niệm nào về đạo đức và
công bằng, như
Jack Bays đã viết ở trên. Do đó, những lời “mạc khải” này
không còn một mảy may giá trị trong ánh sáng của khoa học,
hoặc theo tiêu chuẩn luân lý và đạo đức của chúng ta ngày
nay. Đây chính là những sự thật mà tín đồ Công giáo cần
phải biết qua việc xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ của
Giáo hoàng để mà tự đó họ có thể được giải phóng.
Xin xem phim tài liệu “La Maitresse du Pape” (Người tình của
Đức Giáo hoàng) sau đây để biết đời sồng dâm loạn của Giáo
hoàng:
http://www.dailymotion.com/video/k12CHqRLTAo7qdOUF5
(Nhấn vào để xem Video Clip)
Người Công giáo tin rằng, sau khi được rửa cái gọi là
“tội tổ tông” hay “nguyên tội” dù rằng ngày nay Giáo Hoàng
John Paul II đã dứt khoát thú nhận không làm gì có cái gọi
là “tội tổ tông”, thì họ đã được Thánh Linh hay Chúa Thánh
Thần vào ngự trong người họ, do đó họ chính thức là giáo hữu
của một “hội Thánh”. Họ được nhồi sọ để tin tưởng rằng cái
hội Thánh của họ là thánh thiện, thiên khải, cao quý
v…v…Nhưng họ sẽ nghĩ sao trước những lời xưng thú 7 núi tội
ác của “tòa thánh” Vatican? Họ có tin rằng với vài lời xưng
thú tội lỗi và xin được tha thứ là lịch sử đen tối của Công
giáo trong suốt 2000 năm trở thành trong sạch không còn
chút tì vết nào? Họ có tin rằng thế giới sẽ quên đi tất cả
những tội lỗi của Công giáo đối với nhân loại, hoặc các tác
phẩm nghiên cứu về những tội lỗi này sẽ biến mất trên thế
gian?
Hơn nữa, đi sâu vào mọi vấn đề trong xã hội, ngay cả trong
những hoạt động mà giáo hội thường thổi phồng phô trương như
mở nhà thương, trường học, viện tế bần, hay các công cuộc từ
thiện, chúng ta cũng có thể thấy mặt trái của chúng khác hẳn
với những điều giáo hội thường tuyên truyền. Vậy
làm sao họ còn có thể hãnh diện về tôn giáo của họ? Hãnh
diện về cái gì, so với những tôn giáo khác?
Trong lịch sử nhân loại, không có một tín đồ tôn giáo Đông
phương nào, ví dụ như Phật Giáo, nhân danh Giáo chủ hay tôn
giáo mình đi giết người để truyền đạo. Nếu chỉ vì một chiếc bánh
vẽ trên trời (từ
của Linh mục Ernie Bringas chỉ Thiên đường: A Pie-in-the
sky), hoặc vìmột viễn tượng không chắc chắn (từ
của giáo sư đại học David Voas chỉ Thiên đường: Paradise is
an uncertain prospect at best), hoặc không có chỗ nào là
thiên đường ở trên các tầng mây (Giáo hoàng John Paul II) mà
họ phải nép mình trong một cộng đồng mà tiếng xấu trong mọi
lãnh vực không sao xóa sạch được, một cộng đồng mà bản chất
chỉ “là
một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người
có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (theo
định nghĩa của Thống Đốc Tiểu Bang Minnesota Jesse Ventura:
Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people
who need strength in numbers), thì quả thật là tội nghiệp
cho họ.
Trở lại vấn đề xưng thú tội lỗi của giáo hội: ngoài việc
đổ tội cho “vài con cái” của giáo hội chứ không phải là
chính giáo hội phạm tội, và chỉ “xưng tội cùng Chúa”, Giáo
hoàng còn đưa ra một luận cứ thần học có tính cách lừa dối
về ý nghĩa chuộc tội của Giêsu:
“Chúa
KiTô, bậc Thánh, tuy tuyệt đối không có tội, nhưng đã bằng
lòng gánh những tội lỗi của chúng ta. Người đã bằng lòng
hoàn thành sứ mệnh nhận từ Chúa Cha để chuộc tội cho chúng
ta.”
(Christ, the Saint, although absolutely without sin,
agreed to take our sins upon himself. He agreed, in order
to redeem us,..to accomplish the mission he received from
the father.)
Tiếng nói chính thức của Vatican, L’Osservatore Romano,
ngày 15 tháng 3, 2000, cũng đưa ra cùng một luận điệu:
“Đức
Ki Tô đã gánh hết những tội lỗi của mọi người, những tội lỗi
của chính chúng ta, để qua sự hi sinh cứu chuộc của Người,
chúng ta có thể hòa giải với Thiên Chúa.”
(Christ took upon himself the burden of the sins of all
people, the burden of our own sins, so that through his
saving sacrifice we might be reconciled with God).
Tôi cho đây là những luận điệu thần học méo mó, xảo
quyệt và mơ hồ, vì Giáo hội không giảng rõ những tội trên là
tội nào. Nhưng trong khuôn khổ một bản văn liên quan đến
hành động xưng thú tội lỗi của Giáo hội, chúng ta phải hiểu
rằng đó là những tội mà Giáo hội đang xưng thú. Chúng ta hãy
phân tích câu trên trong ánh sáng của lý trí và những sự
kiện bất khả phủ bác trong khoa học.
Trước hết, chúng ta thấy ngay rằng, về phương diện luân
lý và đạo đức, những câu trên đã khuyến khích con người phạm
tội, vì nếu hiểu rằng Chúa đã gánh hết tội lỗi, những tội
lỗi thế tục như giết người, cướp của v..v.. của giáo hội và
tín đồ từ trước tới nay, thì giáo hội và tín đồ vẫn có thể
tiếp tục phạm tội mà không còn phải e ngại điều gì. Thứ
đến, nếu“Đức Ki Tô đã gánh hết tội lỗi của mọi người” thì
trong “mọi người” này chắc chắn là có tôi, nhưng tôi đâu có
khiến ông ta gánh tội cho tôi đâu. Tuy nhiên, tôi vẫn thắc
mắc một điều. Nếu tôi, khi đọc Thánh Kinh, nhận thấy những
hành động Chúa Cha cũng như Chúa Con trong đó không đáng để
tôi kính trọng, đừng nói đến chuyện tôn thờ, vậy thì Chúa có
gánh cái tội đó, nếu có thể gọi là tội, cho tôi không? Hay
là Chúa vẫn giữ lập trường trong Tân Ước, Luke 19:27 : "Hãy
mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta
ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta" (Bring
here those enemies of mine who did not want me to reign over
them and slay them before me) hoặc sẽ đầy đọa tôi xuống hỏa
ngục vĩnh viễn? Tôi nghĩ rằng, theo giáo lý Công giáo, Chúa
kkông bao giờ gánh tội và tha thứ cho cái tội tự do tư
tưởng, tận dụng lý trí và suy tư của những người ngoại đạo,
không tin Chúa.
Thật ra thì Giáo hoàng và ủy ban thần học của ông ta đã
chơi trò nhập nhằng, đồng hóa “tội tổ tông” với 7 núi tội mà
giáo hội xưng thú để vuốt ve, an ủi, làm yên lòng tín đồ.
Đây chính là sự thiếu thẳng thắn của những luận điệu thần
học như trên của Công giáo vì những luận điệu này không phù
hợp với vai trò “chuộc tội” của Giêsu mà các nhà thần học đã
bày đặt ra để chiêu dụ tín đồ.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ nghĩa của danh từ
“redeem”: chuộc. Chuộc
có nghĩa là dùng cái gì đó có giá trị để mua lại cái đã mất
chứ không phải cái chưa xảy ra.
Chúa chết đã 2000 năm nay, không thể “chuộc” những tội của
tín đồ mà Chúa không thể biết là những tội đó như thế nào và
xảy ra khi nào sau khi Chúa chết. Nếu Chúa thực sự hứa hẹn
một cách vô trách nhiệm là sẽ gánh hết những tội lỗi của con
người, bất kể đó là những tội nào, theo như lời diễn giải
của giáo hội, thì Chúa đã là đồng lõa với tội lỗi, khuyến
khích sự phạm tội, do đó Chúa chính là nguồn gốc của tội
lỗi.
Sự thực là, vai trò “cứu chuộc” của Giêsu bắt nguồn từ
huyền thoại về sự sáng tạo của Chúa Cha, về sự sa ngã của
Adam và Eve được coi như là tổ tông của loài người do đó đã
gây ra cái gọi là “tội tổ tông”, về cái chết của Giêsu trên
giá gỗ hình chữ thập. Trong nhiều thế kỷ, nhiều nhà lãnh
đạo Công giáo đã vật lộn với cái mà họ gọi là “Thần học về
cây thập giá” (Theology of the Cross) để cố tìm chất liệu
biện minh cho vai trò cứu chuộc của Giêsu: Vì Adam và Eve
nghe theo lời xúi bậy của Satan (thực ra chính là lời khuyên
tốt để cho họ mở mắt ra, biết rõ phải trái, thoát khỏi cảnh
nô lệ ngu đần trí thức) nên đã cưỡng lời Thiên Chúa của Ki
Tô Giáo, ăn một trái trên cây hiểu biết (the tree of
knowledge).
Điều này làm cho Thiên Chúa giận dữ vì như vậy là trí tuệ
của con người trở thành ngang với của Thiên Chúa (thực ra
thì trí tuệ con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của Thiên
Chúa như được viết trong Thánh Kinh), cho nên Thiên Chúa
trừng phạt con người từ kiếp này sang kiếp khác cho đến vô
tận. [Đây là chuyện của những người trong thời bán khai.
Vì, truy nguyên gốc gác của sự sa ngã của Adam và Eve, lỗi
về phần Thiên Chúa chứ không phải là Adam và Eve. Thật vậy,
Thiên Chúa “sáng tạo” ra Adam và Eve theo hình ảnh của Thiên
Chúa và tự khen là tuyệt hảo (very good), nhưng hai người
này lại không đủ sức chống lại sự cám dỗ của một con rắn
biết nói.
Thiên Chúa là bậc “toàn năng” và “toàn trí”, nghĩa là làm gì
cũng được và cái gì cũng biết, nhưng Thiên Chúa lại thản
nhiên ngồi nhìn một tác phẩm sáng tạo khác của Thiên Chúa là
Satan, dưới dạng một con rắn, len lỏi vào vườn Eden để cám
dỗ Adam và Eve, rồi cứ để yên cho Adam và Eve nghe theo lời
khuyên tốt lành của con rắn ăn trái cây trên cây hiểu biết
để mở mang trí tuệ, mà không có một hành động nào ngăn cản,
tuy Thần đã biết trước việc gì sẽ xảy ra (toàn trí). Ngày
nay còn ai tin được những chuyện phi lý như trên không?] Vì
cái gọi là “tội tổ tông” trên, hình phạt nặng nhất của Thiên
Chúa dành cho loài người là con người ai cũng phải chết
(thực ra thì từ thời ông Bành Tổ, chẳng có ai sống mãi, nên
dân Do Thái mới cho rằng đó là hình phạt của Thiên Chúa mà
không biết đến 4 giai đoạn thành, trụ, hoại, diệt của các
pháp hữu vi trong đó có con người).
Trải qua 4000 năm (theo Thánh Kinh: Thiên Chúa sáng tạo ra
vũ trụ và muôn loài cách đây 6000 năm), Thiên Chúa không
nghĩ gì tới chuyện hòa giải với con người. Cho tới cách đây
2000 năm, Thiên Chúa mới hóa thân làm Thánh Ma (Holy Ghost),
xâm phạm tiết hạnh của một người đàn bà đã có chồng là Maria
(trong khi thiếu gì các trinh nữ khác chưa chồng) để sinh ra
“con một” của Thiên Chúa là Giêsu, rồi bắt Giêsu phải chịu
cực hình bị đóng đinh trên thập giá, lấy máu “rửa sạch tội
lỗi” của con người, tội đã cưỡng lời Thiên Chúa ăn đại một
trái trên cây hiểu biết từ 4000 năm về trước, để con người
có thể được Thiên Chúa tha tội và hòa giải lại với Thiên
Chúa. Đó chính là nhiệm vụ “cứu chuộc” của Giêsu. Giêsu
dùng máu của mình (tương tự như thời xưa con người dùng máu
của người hay của loài vật, để làm nguôi cơn giận của các
Thiên Chúa trong dân gian) để chuộc cái “tội tổ tông” của
con người và cứu con người khỏi sự trừng phạt của Thiên
Chúa Ki Tô.
Do đó, “Giáo hội dạy rằng”: người nào tin Giêsu thì sẽ không
còn bị luận phạt (nghĩa là bị đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh
viễn) và sẽ hưởng “sự sống đời đời”, lẽ dĩ nhiên là sau khi
chết, ở trên một thiên đường mà theo lời tuyên bố của giáo
hoàng Gion Pôn Hai gần đây, không ở trên các tầng mây mà
chính ở trong tâm con người. Theo thuyết này thì tất cả
những người trong những thời đại trước khi Giêsu sinh ra
đời, trong đó có cả tổ tiên, họ hàng Giêsu, vì không biết
đến một Giêsu sinh sau đẻ muộn để mà tin, nên bị luận phạt
hết.
Đó là sơ lược, vô cùng sơ lược, lý thuyết “thần học về
cây thập giá” của Công giáo. Còn chuyện Giêsu tình nguyện
“gánh hết những tội lỗi của mọi
người”
là chuyện thêm thắt về sau, với mục đích gì, chẳng phải là
một thần đồng mới đoán ra nổi.
Chỉ có điều, trong thời buổi này, chẳng còn ai, kể cả
nhiều người trong Giáo hội Công giáo, tin vào những chuyện
hoang đường như Giêsu “chuộc tội” và "tội tổ tông". Trọng
điểm của Tân Ước là vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của
Chúa Con, Giêsu. Nhưng vai trò này, như chúng ta đã biết,
đặt trên giả thuyết là con người có tội, cần đến một sự
"chuộc tội" và "cứu rỗI". Do đó, câu chuyện con người sa
ngã, phạm tội với Chúa Cha và bị Chúa Cha nguyền rủa, hành
hạ, đày ải, trừng phạt v...v...được đặt ra qua các nhân vật
của huyền thoại Adam và Eve như tôi vừa trình bày hết sức sơ
lược ở trên.
Ông Đỗ Mạnh Tri, một trí thức Công giáo, trong cuốn Ngón
Tay Và Mặt Trăng, đã
phủ nhận những lời "mạc khải" không thể sai lầm của Thiên
Chúa trong Cựu Ước, chấp nhận chuyện Adam và Eve ăn trái cấm
tạo thành tội tổ tông là một huyền thoại. Theo rõi thời
cuộc, chúng ta cũng biết rằng Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã
công nhận thuyết vũ trụ sinh ra từ một Big Bang cách đây
trên 13 tỷ năm, nghĩa là phủ nhận vai trò sáng tạo ra vũ trụ
của Thượng đế cách đây mới 6000 năm, và công nhận thuyết
Tiến Hóa của Darwin và những khai triển của thuyết này sau
Darwin, nghĩa là phủ nhận huyền thoại "tội tổ tông". Vậy
thì, vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Chúa Con có ý
nghĩa gì trong thời đại này ngoài việc trở thành một chuyện
hoang đường?
Tội tổ tông chỉ là một huyền thoại của dân Do Thái, vậy
thì ai cần ai "chuộc tội", và ai cần ai "cứu rỗi"? Điều này
kéo theo chuyện Chúa Con chịu đóng đinh trên Thập Giá để
"chuộc tội" cho nhân loại là chuyện hoang đường nhất trong
những chuyện hoang đường. Nói tóm lại, vai trò "chuộc tội"
và "cứu rỗi" của Chúa Con, Giêsu, đặt nền tảng trên huyền
thoại về các nhân vật Adam và Eve trong cuốn đầu trong Cựu
Ưóc, Sáng Thế (Genesis), và cùng sống hay cùng chết với
huyền thoại này. Nhưng, trong ánh sáng của khoa học và lý
trí, giá trị đích thực của huyền thoại về tội tổ tông trong
Cựu Ước đã được chứng minh rằng không hơn giá trị của một mớ
huyền thoại khác thuộc lịch sử của dân tộc Do Thái.
Cũng vì nhận rõ được tính chất hoang đường, vô hiệu, lỗi
thời của “bí tích rửa tội”, của vai trò “chuộc tội” và “cứu
rỗi” của Giê-su, mà trong cuốn Tại
Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why
Christianity Must Change or Die), Giám mục John Shelby Spong
đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su
Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus
as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong chương này,
Giám Mục Spong viết như sau, trang 98-99:
"Nhân
loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh
ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì
vết tội tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải là
những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không
rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình
trạng trước khi sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín
trước thời Darwin và một sự vô nghĩa sau thời Darwin."
(We human beings do not live in sin. We are not born in
sin. We do not need to have the stain of our original sin
washed away in baptism. We are not fallen creatures who
will lose salvation if we are not baptized... A savior who
restores us to our prefallen status is therefore
pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.)
Trong cuốn “Thiên
Chúa Vẫn Sống: Từ Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Tự Do Tâm Linh”(God
Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, Steven J.
Nash Publishing, IL., 1993), trang 114, Linh mục James
Kavanaugh cũng đưa ra nhận xét sau đây về tín điều “chuộc
tội” trong Công giáo :
“Đối
với bất cứ người nào trong thế giới cổ xưa đứng trước Thiên
Chúa của Ki Tô Giáo như là một nạn nhân bất lực, tin rằng
mình là một người có tội một cách vô vọng, coi Thiên Chúa
như là một ông quan tòa giận dữ không thể tới gần được, cái
chết có tính cách hi sinh của đức Ki Tô là một huyền thoại
với đôi chút thực tế.
Nhưng đối với con người hiện đại, nó chẳng còn ý nghĩa gì
mấy trừ khi hắn đã bị làm cho sợ hãi và tẩy não một cách
thích hợp từ khi mới sinh ra đời. Đối với hắn, hắn
là một nạn nhân tuyệt đối thụ động của sắc luật của Thiên
Chúa trong Thánh Kinh. Đối với tôi, đó là một huyền thoại
“cứu rỗi” thuộc thời sơ khai miêu tả một người cha lấy cái
chết của chính con mình để bớt đi cơn giận dữ. Đó
là một chuyện ác độc không thể tưởng tượng được…
Tôi chấp nhận sự kiện là đức Ki Tô đã chết, ngay cả
chuyện ông ta bị đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không
thể chấp nhận huyền thoại cho rằng cái chết của ông ta là để
chuộc tội cho tôi. Huyền thoại cứu rỗi như được viết trong
Tân Ước chỉ là một lối diễn giải. Đó là một huyền thoại của
thời sơ khai, bản chất của nó tương đương với nhiều huyền
thoại cứu rỗi của nhiều dân tộc trong thời sơ khai ở khắp
mọi nơi, nhưng nó lại độc
ác một cách không tưởng hơn là hầu hết các huyền thoại khác.
Nó phản ánh một thế giới mà con người có thể làm nguôi cơn
giận của những thần sấm sét trong một cơn giông tố. Ngày
nay, chó và mèo vẫn còn sợ sấm sét, nhưng con người thì ngồi
yên trong nhà và hiểu rõ cái hiện tượng thiên nhiên đang xảy
ra…
Tôi sẽ không chấp nhận cái huyền thoại về một Chúa Cha
khắt khe đối xử với chính con của mình, Giêsu, bằng một công
lý vô tình cảm, và đòi hỏi con mình phải chết trên thập giá
cho những tội lỗi của tôi. Cái huyền thoại này cũng chẳng
trở thành hấp dẫn hơn vì Chúa Cha đã làm cho con sống lại,
đội mồ mà lên một cách vinh quang. Tôi không thể yêu mến một
người cha như vậy hoặc phải biết ơn một người con như vậy
trong một câu chuyện mượn từ một câu chuyện truyền tụng của
nền thần học Do Thái cổ lỗ và thay đổi nó đi. Tôi
không hề yêu cầu Giêsu phải chịu khổ thay cho tôi và ngay cả
muốn ông ta làm như vậy…”
(To any man in the ancient world who stood before God as
a helpless victim, who believed himself a hopeless sinner,
who considered God an unapprochable and angry judge, the
sacrificial death of Christ was a myth of some substance.
But to modern man, it makes far less sense unless he has
been suitably frightened and brainwashed from birth. To
him, he is a voiceless victim of God’s decree in the Bible.
To me, it is a primitive ‘salvation” myth which portrays an
angry father appeased by the death of his own son. It is a
tale of unbelievable cruelty…
I accept the fact that Jesus died, even that he was
crucified. But I cannot accept the myth that his death was
an atonement for my sins. The salvation myth as it appears
in the New Testament is an interpretation. It is a
primitive myth, in essence parallel to the salvation myths
of primitive peoples everywhere, but it is more unbelievable
and cruel than most myths. It rings of a world in which man
could appease the gods of thunder during a storm. Now cats
and dogs are frightened during storms; man stays inside and
understands the natural phenomenon that is taking place…
I will not accept this mythical God-the-demanding-Father
Who could treat His own son Jesus in unfeeling justice and
demand his death on the cross to pay for my sins. Nor is
the myth more appealing because He brought His son
gloriously from the tomb. I cannot love such a Father or
even be grateful for such a son in this borrowed and
modified tale of archaic semitic theology. I did not ask
him to suffer for me or even want him to..)
Những nhận định như trên của Giám mục Spong và Linh mục
Kavanaugh cho chúng ta thấy trí tuệ của con người trong thời
đại này không còn tin vào những điều hoang đường, phi lý
trong Công giáo nữa, ít ra là trong giới trí thức hiểu
biết, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Tuy nhiên, điều
đáng nói là, không phải là giáo hội không biết đến những sự
kiện này, mà vì những quyền lợi thế tục về quyền lực cũng
như về kinh tế, giáo hội vẫn tiếp tục lùa đám giáo dân thấp
kém vào những ốc đảo ngu dốt (từ của linh mục Trần Tam
Tĩnh), bưng bít và dấu kín mọi tiến bộ của con người.
Tín đồ Công giáo quả là những người đáng thương chứ không
đáng trách. Họ bị nhào nặn từ nhỏ để tin vào những điều
không còn giá trị gì trong thế giới tiến bộ vì chúng cực kỳ
phi lý, phản khoa học, chỉ phù hợp với đầu óc của những tín
đồ Âu châu trong thời Trung Cổ. Cho
nên, theo tôi, mọi người chúng ta cần phải nỗ lực giải hoặc
cho họ, giúp họ theo kịp đà tiến bộ của nhân loại, giúp họ
biết rõ sự thật về bản chất của tôn giáo họ, để từ đó họ có
thể tự mình giải thoát ra khỏi mớ xiềng xích tâm linh vô
hình.
Trong thế giới Tây phương, không thiếu gì những bậc lãnh đạo
Công giáo, từ những nhà Thần học, các hồng y, giám mục, linh
mục, cho đến các học giả trí thức v..v.. đã làm công việc
này. Chính vì vậy mà giáo hội đã phải đi đến quyết định
xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ.
Trên đây tôi đã phân tích vấn đề giáo hoàng đại diện cho
Công giáo xưng thú tội lỗi của Công giáo đối với nhân loại
và xin được tha thứ. Tôi đã chứng minh rằng, những tội lỗi
của Công giáo bắt nguồn từ Thánh Kinh. Cùng lúc, tôi cũng
đã chứng minh rằng, những quyền phép có tính cách ảo thuật
của các giới chăn chiên trong Công giáo, từ giáo hoàng trở
xuống tới các linh mục mà nền Thần học Công giáo đã nhồi vào
đầu óc đám tín đồ thấp kém, xét trong ánh sáng của lôgic,
khoa học và thực tế, đều chỉ là ngụy tạo.
Thực tế là, từ giáo hoàng trở xuống cho tới các linh mục,
không ai có thể là đại diện của Chúa trên trần, để nắm giữ
chìa khóa Thiên đường, có quyền tuyệt thông tín đồ, có khả
năng đuổi quỷ Sa Tăng hoang đường ra khỏi con người, hay
biến chất mẩu bánh thành thịt Chúa v.v.., vì lịch sử đã
chứng tỏ, trong số các giáo hoàng và các hồng y, giám mục,
linh mục từ xưa tới nay, không thiếu những kẻ dâm loạn, sát
nhân, trí tuệ thấp kém, vô đạo đức, và tất cả những bí tích
của giáo hội đưa ra để kiểm soát đầu óc tín đồ đều thuộc
loại mê tín, không có một căn bản thuyết phục nào trước
trình độ hiểu biết của con người hiện nay. Nhưng vấn đề cần
bàn đến là, sau hành động xưng thú tội lỗi và xin được tha
thứ này, giáo hội sẽ có đường hướng hoạt động như thế nào.
Chắc chắn là không phải giáo hội chỉ cần đưa ra vài lời
“xưng thú tội lỗi” và “xin được tha thứ” suông, và coi như
vậy là xong, là ký ức đã được thanh tẩy, là mọi tội lỗi đã
được Chúa gánh hộ hết rồi. Thế giới không bao giờ chấp nhận
điều này. Điều quan trọng và thực tế nhất là, Giáo hội phải
chứng tỏ cho thế giới, qua những hành động thực tiễn điển
hình, là Giáo hội đã thành
thực sám
hối, ăn năn tội lỗi. Để chứng tỏ thành tâm trong việc này,
giáo hội cần công bố và phổ biến rộng rãi trước thế giới, và
nhất là trong mọi giáo hội địa phương, trong mọi giáo xứ, từ
thành thị đến thôn quê, trong mọi quốc gia, một đường hướng
mới, đoan quyết không
bao giờ tái phạm những
tội lỗi Giáo hội đã phạm trong quá khứ. Mặt khác, với một
tài sản của Giáo hội lên đến hàng ngàn tỷ đô la, Giáo hội có
nghĩ đến sự đền
bù phần
nào những sự tác hại mà giáo hội gây ra hay không?
Lịch sử đã chứng tỏ rằng, thế giới không thể tin vào
những lời Giáo hội nói mà cần phải nhìn kỹ vào những gì Giáo
hội làm. Do đó, thế giới sẽ luôn luôn quan sát những hoạt
động trong tương lai của giáo hội. Á Châu là lục địa cần
phải đề cao cảnh giác và kiểm soát cẩn thận, coi chừng thật
kỹ những hoạt động này, vì gần đây giáo hoàng đã nói rằng:“Cải
đạo là một nhân quyền. Cũng như cây thập giá đã cắm chắc
trên đất của Âu châu trong thiên niên kỷ thứ nhất, và ở Mỹ
Châu và Phi châu trong thiên niên kỷ thứ hai, thiên niên Ki
Tô thứ ba có thể sẽ được mùa lớn về đức tin ở trên lục địa
rộng lớn và cốt yếu này.” (The pope said that religious
conversion is a human right. “Just as the 1stmillenium
saw the cross firmly planted in the soil of Europe,
and, the 2nd, in America and Africa, so may the 3rd christian
millenium witness a great harvest of faith on this vast and
vital continent,” the pope said.)
Giáo hoàng nói vậy vì hiện nay Công giáo đang xuống dốc
một cách thê thảm ở phương trời Âu Châu, cái nôi của Gia Tô
Giáo trước đây, và ở cả Mỹ Châu và Phi Châu,. Tại sao Công
giáo lại có tình trạng suy thoái như vậy? Câu ngắn gọn sau
đây trong cuốn Missionaries, một cuốn sách nghiên cứu
về những thành quả truyền giáo của Ki Tô Giáo trên khắp thế
giới, đi kèm với một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, có
thể cho chúng ta rõ một trong nhiều nguyên nhân xuống dốc
của Công giáo :
“Đòi
hỏi những người Âu Châu tin vào thế giới của Thiên Chúa và
Satan có vẻ như là đòi hỏi họ phải từ bỏ sự thông minh của
chính mình. Quan trọng hơn nữa, những lợi khí của thương vụ
thừa sai: củ cà rốt “cứu rỗi” và cây gậy “đày đọa vĩnh viễn”
đã mất đi hiệu lực đe dọa rồi.”
(Asking the Europeans to believe in a world of God and
Satan, seems to be asking them to deny their own
intelligence. More importantly, the tools of the
missionaries’ trade, the carrot and stick of salvation and
damnation, have lost the power to frighten.)
Câu trên có nghĩa là, trong thời đại này, trí tuệ con
người đã tiến bộ, những người có đôi chút đầu óc đều không
còn tin vào những chuyện hoang đường cổ xưa như “cứu rỗi”
(tội ở đâu mà cứu rỗi?) và “đày đọa vĩnh viễn” (hỏa ngục ở
đâu mà đày đọa?). Ngay chính Gion Pôn Hai cũng phải thú
nhận là không làm gì có chỗ nào là hỏa ngục để mà đày đọa
những người không tin Chúa, Giám mục Spong coi chuyện “tội
tổ tông” với chuyện “cứu rỗi” là chuyện mê tín của thời
trước Darwin, và linh mục Kavanaugh nói thẳng là ông không
khiến và cũng không muốn Giêsu leo lên thập giá chịu khổ
thay cho mình hoặc chuộc tội cho mình. Những tư tưởng khai
phóng trên hiển nhiên đã soi sáng cho con người thoát ra
khỏi sự tối tăm của những tín lý đã lỗi thời. Bất hạnh
thay, đa số giáo dân Công giáo thấp kém trên thế giới, nhất
là giáo dân Việt Nam, kể cả một số trí thức Công giáo Việt
Nam, không hề biết đến những sự tiến bộ trí thức ngay trong
tôn giáo của họ, cho nên vẫn còn bám chặt vào những điều
hoang đường chỉ có giá trị phần nào trong thời bán khai.
Để bù đắp phần nào sự hao hụt tín đồ ở những nước văn
minh tiến bộ Âu Mỹ và ở những nước đang thức tỉnh ở Phi
Châu, Giáo hội Công giáo, qua lời tuyên bố của Giáo hoàng ở
trên, đang có sách lược truyền giáo sang các nước kém mở
mang ở Á Châu. Truyền Giáo là sự phát triển tự nhiên của
mọi tôn giáo. Tôn giáo nào cũng mong muốn đạo mình có thêm
tín đồ. Nhưng phương cách truyền giáo là cả một vấn đề và
thường phản ánh bản chất của tôn giáo đó. Chúng ta không
nên quên 7 núi tội lỗi mà giáo hoàng vừa xưng thú, những tội
lỗi trải dài suốt 2000 năm và ở mọi nơi Công giáo mang cây
thập giá tới. Chúng ta cũng không nên quên Công giáo đã giữ
một vai trò then chốt quyết định trong việc đưa Việt Nam vào
vòng nô lệ của Pháp.
Lịch sử đã chứng minh: Sách lược truyền giáo của Công giáo
La Mã là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi
Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để
lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để
chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn
hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Một sắc thái đặc biệt
nhất của Công giáo là, bất cứ tôn giáo này truyền tới đâu là
ở đó xảy ra những cảnh hỗn loạn, thù nghịch, chia rẽ v…v…
trong gia đình, trong xã hội, đúng như lời khẳng định của
Chúa Giê-su trong Thánh Kinh, Matthew 10: 34-36:
“Chúa Ki Tô Mang Đến Sự Chia Rẽ:
Đừng nghĩ rằng ta xuống trần để mang lại hòa bình trên
trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là
gươm giáo.
Vì ta xuống đây để làm cho con trai chống đối cha, con
gái chống đối mẹ, và con dâu chống đối mẹ chồng.
Và những kẻ thù của một người thì ở ngay trong nhà hắn.”
(Christ Brings Division:
Do not think that I came to bring peace on earth. I did
not come to bring peace but a sword.
For I have come to set a man against his father, a
daughter against her mother, and a daughter-in-law against
her mother-in-law.
And a man’s foes will be those of his own household.)
Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay
đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Công giáo còn
ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo
Công giáo đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình
nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân
tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Công giáo,
từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong
gia đình. Công giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi
kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ.
Chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận rằng, Cẩm
Nang Triết Việt,
trang 57:
“Sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến sự chia khối
dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo làm cho sự
liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ.
Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi,
nhưng xem ra không sao xóa sạch được”
Vì vậy, hơn ai hết, người Việt Nam cần phải đề cao cảnh
giác trước âm mưu truyền giáo sang Á Châu của Vatican.
Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng quyền tự do tôn giáo của
con người và quyền tự do truyền đạo bằng những phương cách
có tính cách xúc phạm đến mọi nền văn hóa phi- Công giáo của
Công giáo như Giáo hội đã thú nhận. Chúng ta cũng cần phải
ý thức được rằng, Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng,
đang lạm dụng và núp sau chiêu bài “Nhân quyền” và dựa vào
ưu thế kinh tế và quân sự của các cường quốc Âu Mỹ để truyền
đạo trong những quốc gia mà họ có thể ép được. Họ
không dám đụng tới khối Hồi Giáo hay Do Thái, những khối
tuyệt đối không nhân nhượng về vấn đề tự do truyền đạo. Họ
cũng không dám đụng tới Trung quốc, một quốc gia vĩ đại với
gần một tỷ rưỡi dân, có tiềm lực kinh tế và quân sự không
thể coi thường, và có một chính sách rõ rệt để ngăn chận và
kiểm soát sự tự do truyền giáo.
Nhưng họ lại khai thác sự yếu kém kinh tế của các nước nhỏ ở
Á đông và tính dễ dãi của những dân tộc trong vùng này,
trong đó có Việt Nam, để thực hiện ảo vọng Ki Tô hóa các
quốc gia này. Chính quyền Việt Nam cần phải ý thức được cái
hiểm họa Ki Tô nếu không muốn truyền thống dân tộc và văn
hóa của Việt Nam bị xóa sạch trong tương lai, rơi vào vòng
nô lệ Vatican.
Ngoài ra, để đối phó với sách lược đang được thi hành
hiện nay của Công giáo và Tin Lành: dùng bọn người trí thức
nô lệ mất gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn
hóa Việt Nam, nhất là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc
đánh đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật
Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu
bài như “Thần
học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”,
hoặc “quay
về với truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”,
nhưng vẫn khăng khăng bám chặt vào “chân
lý về Chúa KiTô đấng trung gian duy nhất, vẫn là và sẽ mãi
mãi là một tín điều, và không thể chấp nhận sự giàn xếp hay
dung hòa (compromis) nào
cả”,
chính quyền và người dân Việt Nam cần ý thức được tầm quan
trọng của sự mở mang dân trí.
Thật vậy, nữ học giả Gia Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn
thấy rõ chủ đích và những việc làm của giáo hội Công giáo từ
thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốnNgười Tín Đồ
Công giáo Tỉnh Ngộ (The
Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995), trang 288:
“Đạo Công
giáo chỉ
thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt.
Nó chỉ bị khắc phục bởi giáo dục (mở
mang dân trí. TCN) và
đời sống kinh tế thoải mái.”
(Catholicism thrives and grows among the poor and
ignorant. It is overcome by education and economic
well-being.)
Điều này đã xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ Âu
Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao,
và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo của
những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn
giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ
biến rộng rãi trong quần chúng. Đừng
bao giờ nên e ngại trước những sự phản đối vô căn cứ, lên án
việc mở mang dân trí là chống tôn giáo hay chia rẽ tôn giáo.
Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác nhau trong
những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên
cứu về tôn giáo được phổ biến tự do và rộng rãi, là một bằng
chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho
người dân biết rõ sự thật về các tôn giáo trong xã hội.
Ngoài
ra, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam,
nhất là các Phật tử, cũng cần phải biết đến những điều khác
biệt căn bản giữa hai tôn giáo lớn tại Việt Nam, Phật Giáo
và Ki Tô Giáo. Xin đọc bài “Phật giáo – Ki Tô giáo đối
chiếu qua những Nhận định của một số Danh nhân thế giới” [ http://sachhiem.net/TCNtg/TCN56.php].
Hi vọng những tài liệu này sẽ giúp cho người dân ít nhiều
vốn liếng trong bất cứ một cuộc đối thoại nào với các tín đồ
Công giáo, hoặc trước những lời tuyên truyền giả dối của Ki
Tô Giáo. Ngoài những nhận định của một số danh nhân trí thức
Âu Mỹ về Ki Tô Giáo và Phật Giáo trong bài trên, tôi muốn
nói đến vài điều khác biệt căn bản giữa Phật Giáo và Ki Tô
Giáo.
Thứ nhất, lịch sử truyền giáo của đạo Phật, một tôn giáo
có trước Công Giáo hơn 500 năm, đã cho thế giới thấy Phật
Giáo là một tôn giáo hòa bình, không hề làm đổ một giọt máu
trong quá trình truyền giáo và phát triển trong suốt hơn
2500 năm nay. Trái lại, lịch sử truyền giáo của Công Giáo
trên thế giới đã chứng tỏ rằng Công Giáo là một tôn giáo
hiếu chiến, sắt máu, tàn bạo v..v.., và trong quá trình
truyền giáo qua 16 thế kỷ, từ thời Constantine, đã làm cho
máu nhiều triệu người vô tội chảy thành sông, xương chất
thành núi. Đây chính là lý do khiến cho giáo hội Công Giáo
ngày nay phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được
tha thứ trước thế giới. Nhưng
dù giáo hội có làm gì đi chăng nữa thì núi xương sông máu
này cũng vẫn muôn đời tồn tại trên bờ vai lương tâm của giáo
hội và của những tín đồ còn đôi chút lương tri và đầu óc suy
tư.
Thứ nhì, Kinh Luận Phật Giáo gồm thiên Kinh vạn quyển, số
lượng nhiều gấp bội Thánh Kinh. Nguyên bộ Đại Phẩm Bát Nhã
do ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán đã gồm 600 quyển. Nhưng
chúng ta không hề thấy trong rừng kinh điển Phật Giáo bất cứ
một lời nói nào hay một hành động nào của Đức Phật, hay của
các đệ tử Phật, trái với những tiêu chuẩn luân lý và đạo đức
của con người xưa cũng như nay. Trái lại, trong Thánh Kinh
chúng ta thấy vô số những chuyện ác độc, thương luân, bại
lý, không của Chúa Cha thì cũng của Chúa Con, hoặc của các
bậc được gọi là Thánh trong Ki Tô Giáo, cùng những chuyện
dâm ô, loạn luân, thù hận, giết người tập thể v…v…
Cũng vì vậy, càng đi vào Kinh điển Phật Giáo chúng ta càng
thấy chân trời của chúng ta mở rộng, càng thấy những tư
tưởng Phật Giáo quả là siêu việt, vượt thời gian và không
gian. Đây chính là lý do Phật Giáo đang phát triển mạnh
trong thế giới, trong những nền văn minh Âu Mỹ, nhất là
trong giới trí thức. Trái lại, càng đi sâu vào Thánh Kinh,
chúng ta càng khám phá ra nhiều điều sai lầm, về thần học
cũng như về khoa học, ngoài những điều không thể chấp nhận
được vì chúng đối nghịch hẳn với những tiêu chuẩn luân lý
đạo đức của con người ngày nay. Đây chính là lý do làm cho
Công Giáo suy thoái khắp nơi trên thế giới.
Thứ ba, Phật giáo và Công Giáo đều là tôn giáo ngoại lai,
theo nghĩa từ ngoài du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên bản
chất của sự du nhập và ứng dụng của mỗi tôn giáo vào trong
xã hội Việt Nam hoàn
toàn khác nhau và đối ngược hẳn nhau.
Phật giáo đi vào dân tộc Việt Nam qua giới trí thức bằng
con đường tận dụng khả năng suy tư của con người, con đường
phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, không có những giáo
điều khô cứng, không có những hứa hẹn hão huyền có tác dụng
ru ngủ dân chúng, và nhất là không chống lại những truyền
thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân
bản, lấy con người làm gốc, phục vụ con người ngay trong đời
sống này, lấy trí tuệ làm căn bản, và qua những triết thuyết
cao siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp
ứng được những đòi hỏi suy luận trí thức của giới có học.
Từ giới trí thức, tinh thần Phật Giáo được phát huy qua
những giáo lý hòa bình, bao dung, bình đẳng, giản dị, đạo
đức, từ bi v..v.. cho nên Phật Giáo đã lan xuống mọi giới
bình dân, ít học trong xã hội Việt Nam. Từ đó, Phật Giáo đã
hội nhập trong dân gian, để tạo nên một tinh thần Phật Giáo
dính liền với tinh thần yêu nước cao độ cố hữu của người dân
Việt Nam. Phật Giáo chưa bao giờ phản bội dân tộc, liên kết
với kẻ ngoại xâm chống lại tổ quốc. Phật Giáo Việt Nam chưa
bao giờ nhận lệnh của bất cứ chức sắc ngoại quốc nào, lệ
thuộc bất cứ một tổ chức tôn giáo hay chính trị quốc tế
nào. Do đó, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân
tộc thực là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân
biệt được đâu là văn hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa dân
tộc. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ bác.
Trái
lại, Công Giáo du nhập vào Việt Nam qua giới cùng đinh thất
học bằng những phương pháp truyền đạo xảo quyệt, đượm màu mê
tín hoang đường, thí dụ như của thừa sai Alexandre de Rhodes
[Xin đọc bài Di
Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”: Nhân Đọc Cuốn “Hành
Trình Và Truyền Giáo” Của Alexandre de Rhodes” trênhttp://sachhiem.net/TCNtg/TCN50.php]
xuyên tạc sự thật, và mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín
ngưỡng, đạo đức và cấu trúc văn hóa của xã hội Việt Nam.
Ngoài ra nhiều thừa sai Công Giáo còn trắng trợn can thiệp
vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp
đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa trong xã
hội Việt Nam. Họ ru ngủ đám tín đồ thấp kém bằng những điều
mê tín hoang đường, bằng một đức tin vào những giáo điều tín
lý khô cứng, phi lôgic, phản khoa học, bằng những hứa hẹn vô
trách nhiệm vào một niềm tin “xác chết ngày sau sống lại” để
có “sự sống đời đời”, do sự “cứu rỗi” của một Thiên Chúa đã
chết trên cây thập giá cách đây 2000 năm và chưa bao giờ
xuất hiện để cứu bất cứ ai v.v...
Những giáo sĩ thừa sai đầu tiên có ảnh hưởng trong việc
truyền đạo không phải là những nhà tu hành đạo đức mà là
những tên gián điệp như Alexandre de Rhodes, Francois Pallu,
Lambert de la Motte v..v.., hoặc những tên lính đánh thuê
như Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), hoặc những tên thực dân
như Retord (thầy của Trần Lục), Gauthier (thầy của Nguyễn
Trường Tộ), Puginier, Huc, Pellerin v..v.. Nhưng bất hạnh
nhất cho Việt Nam là Nền
Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ của
Công giáo đã thành công trong việc đào tạo được một lớp tín
đồ trong những giới thấp kém nhất của xã hội Việt Nam (từ
của Toàn quyền Đông Dương de Lanessan: the lowest classes),
sẵn sàng phản bội dân tộc, tiếp tay với thực dân Pháp vì một
cái bánh vẽ trên trời cho riêng mình. Lời thú nhận của giám
mục Puginier “Không
có các thừa sai và giáo dân Công giáo thì
người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết
càng” về
vai trò quyết định của giáo dân Việt Nam trong sự hỗ trợ
đoàn quân xâm lăng của Pháp là một bằng chứng. Sự kiện linh
mục “Trần Lục mang 5000 giáo dân đến hỗ trợ quân Pháp để
hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình” là
một bằng chứng khác. (Xin đọc chi tiết những sự kiện trên
trong cuốn Công
Giáo Chính Sử, chương
VIII.) Bản chất của Giáo hội Công giáo Việt Nam chỉ là một
mớ tín đồ hạng hai. Công giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng
400 năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá
Tòng).
Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican
bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ
quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới
đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn
luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng nào mà
tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt
Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn.
Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm với những đòn phép của
Vatican. Việt Nam không thể không dè dặt khi đối diện với
một thế lực quốc tế đã có 2000 năm kinh nghiệm trong những
thủ đoạn thần học, chính trị, xã hội, kinh tế v..v.. để lạc
dẫn tín đồ vào con đường mê muội, tuyệt đối tuân phục và
theo lệnh của một thế lực thế tục ngoại quốc núp sau cái vỏ
tôn giáo. Với một tổ chức vô cùng chặt chẽ, với một tài sản
lên tới hàng ngàn tỷ đô la, với đa số tín đồ thấp kém cuồng
tín tạo thành một lực lượng hậu thuẫn khó lường, với những
phương tiện truyền thông bao trùm mọi lãnh vực v..v.., trước
đây, không có một quốc gia nào có thể coi thường thế lực của
Vatican. Tuy nhiên, trước sự tiến bộ trí thức của nhân
loại, và vì thanh
gươm (để
giết người) và
bó củi (để
thiêu sống người) đã
bị tước khỏi bàn tay đẫm máu của giáo hội Công giáo,
ngày nay, Vatican không còn khả năng để khuynh loát những
thế lực tôn giáo đối nghịch với Công Giáo. Những biện pháp
quyết liệt của Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan v..v..
và của các khối Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo,
Tin Lành Giáo đối với vấn nạn Công Giáo đã có thể ngăn chận
và giảm thiểu âm mưu thống trị tôn giáo của Vatican trên
hoàn cầu.
Những biện pháp ngăn chận này thực ra rất hợp lý và chính
đáng. Tại sao? Vì trong một bài diễn văn đọc tại Maribor,
Slovenia, ngày 19 tháng 5, 1996, giáo hoàng Công Giáo Gion
Pôn Hai đã kêu gọi các quốc gia phải bảo tồn nền văn hóa dân
tộc, nguyên văn như sau:
“Các
quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ như là một biểu thị
của phẩm cách quốc gia”
(Countries must preserve their culture as an expression
of national dignity).
Giáo hoàng thừa biết rằng, nền văn hóa Á đông nói chung,
Việt Nam nói
riêng, tuyệt đối không tương hợp (incompatible) với nền văn
hóa Công Giáo của Tây phương. Vậy có cách nào mà sách lược
truyền đạo của Công Giáo sang Á châu không đụng chạm tới
những nền văn hóa dân tộc của các nước Á Châu? Thật vậy,
như trên đã nói, nền văn hóa Việt Nam cũng
là nền văn hóa Phật Giáo. Phật Giáo, một tôn giáo nhân bản,
không chấp nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa, do đó không
chấp nhận huyền thoại sáng tạo của Công Giáo, một huyền
thoại mà tuyệt đại đa số người dân trên thế giới đã dứt
khoát bác bỏ, vì huyền thoại này không còn một căn bản
thuyết phục nào trước những bằng chứng tràn ngập trong khoa
học về sự sinh ra của vũ trụ, tuổi của vũ trụ, và sự xuất
hiện của loài người trong định luật tiến hóa.
Tất cả những bằng chứng này đều trái ngược với những điều
hoang đường phi thực tế, phản khoa học ở trong Thánh Kinh.
Mặt khác, Công Giáo là một tôn giáo thờ một vị Thần do con
người thời tiền sử tưởng tượng ra, và cho như vậy là có giá
trị nhất, mọi tôn giáo khác chỉ có giá trị nếu quy phục vị
Thần Công Giáo đó. Do đó, với chủ trương độc tôn này, thực
chất của sách lược truyền đạo sang Á Châu là một cuộc xâm
lăng văn hóa.
Để gìn giữ phẩm cách quốc gia, Á châu nói chung, Việt Nam
nói riêng, phải có bổn phận bảo vệ nền văn hóa của mình.
Giáo hoàng không thể nói một đàng: khuyên
mọi quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ,
rồi làm một nẻo: mưu
toan xâm lăng và dẹp bỏ các nền văn hóa phi Công Giáo của họ
ở Á Châu .
Cho nên, Giáo hoàng, hoặc bất cứ thế lực tôn giáo cũng như
thế tục nào khác, đều không thể lên án những biện pháp ngăn
chận sự truyền đạo của Công Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói
chung, ở Á Châu ngày nay là vi phạm nhân quyền, hay vi phạm
tự do tôn giáo.
Với kinh nghiệm qua những vụ tòa Khâm Sứ và ở Thái Hà gần
đây, Việt Nam chắc hẳn đã thấy rõ bản chất của những người
Công giáo Việt Nam như TGM Ngô Quang Kiệt và một số linh mục
khác, những người đã dẫn dắt đám con chiên ở dưới, kể cả bà
già và con nít, vào những hành động bất chấp luật pháp như
thế nào. Mong rằng Việt Nam cương quyết giữ vững lập trường
trong chính sách đối ngoại và đối nội phù hợp với sự mong
ước của tuyệt đại đa số người dân ngõ hầu có thể tránh cho
Việt Nam một hiểm họa mà hậu quả không sao lường được.
Trần Chung Ngọc
(bổ sung tháng 11-2011)