Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016

SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ 6

Trở lại với bài Kinh Cầu Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, sau khi truy tìm qua nhiều sách kinh bằng Anh Ngữ, tôi nhận thấy Phan-xi-cô tuy được coi là một cộng sự viên của Loyola lập ra Dòng Tên [Dòng Tên (Jesuit) là một trong những dòng giáo sĩ hung hản của Vatican, nhất là trong phong trào đi chiếm thuộc địa.] nhưng chỉ một mình Ignatius Loyola được Vatican lập lễ kính hàng năm vào ngày 31 tháng bảy. Phan-xi-cô không có cái vinh dự này. Trong các sách kinh Công Giáo bằng Anh ngữ đều có kinh cầu "thánh" Ignatius Loyola nhưng không có kinh cầu "thánh" Phan-xi-cô. Do vậy, tôi nghĩ rằng bài "kinh cầu ông thánh Phan-xi-cô" nói trên là sản phẩm riêng của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bài kinh này rất dài so với các bài kinh khác vì nó chiếm tới 10 trang trong sách Nhựt Khóa (782-791). Đọc bài kinh này, chúng ta sẽ thấy tác giả của nó là một kẻ có đầu óc u tối hẹp hòi và hoàn toàn mù tịt về tiểu sử của Phan-xi-cô Xa-vi-e (Francis Xavier). Tiểu sử của F. Xavier chứng minh rằng tu sĩ này đã thành công phần nào ở Ấn Độ là nhờ biết sống hòa mình với đám tiện dân vốn bị khinh rẻ trong xã hội theo Ấn giáo. Ông được dân địa phương có cảm tình đặc biệt vì ông đã liên tục lên án gay gắt sự vô đạo đức và thói tham lam tàn bạo của bọn thực dân Âu châu trên đất Ấn.



Phan-xi-cô sinh năm 1506 trong một gia đình quí tộc tại Tây Ban Nha. Khi lớn lên, y được cha mẹ cho đi du học Đại học Sorbonne – Paris. Tại đây vào năm 1530, y gặp tu sĩ Ignatius Loyola và đã cùng với tu sĩ này lập ra dòng Tên (có nghĩa là một dòng tu mang tên Jesus – The Jesuit Order) vào năm 1534. Từ năm 1540 đến 1548, Phan-xi-cô hợp tác với các tu sĩ Bồ Đào Nha giảng đạo ở Ấn Độ, đã dụ dỗ được trên 100.000 dân nghèo Ấn Độ theo đạo. Do công trạng này, Phan-xi-cô được Vatican tuyên dương là "tông đồ của Ấn Độ (Aspostle of India). Sau khi giảng đạo tương đối có kết quả tại Ấn Độ, Phan-xi-cô có tham vọng chinh phục Nhật Bản. Ngày 15 tháng 8 năm 1549, Phan-xi-cô Xa-vi-e đặt chân lên đất Nhật và cố gắng truyền đạo tại đây trong 27 tháng nhưng hoàn toàn thất bại vì tinh thần dân tộc của người Nhật quá cao. Phan-xi-cô Xa-vi-e quá chán nản nên đã viết thư gửi cho Ignatus Loyola như sau : "Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một dân tộc nào có thể sánh ngang với người Nhật. Họ là những người có phong độ tốt, hết sức tôn trọng danh dự là vật quí giá hơn bất cứ cái gì khác trên thế giới này. Họ chỉ nghe những điều được dẫn chứng bằng lý luận và khi ai lý luận với họ chứng minh được điều họ làm là xấu thì họ sẽ bị thuyết phục bởi lý luận đó". (It seems to me that we shall never find another race to equal the Japanese. They are a people of good manners. They are men of honor to a marvel and prize honor above all else in the world. They like to hear thing propounded according to reason and when one reasons with them, pointing out that what they do is evil, they are convinced by this reasoning – All Saints by Robert Ellsberg, The Crossroad Pub. NY - 1997, P. 528-529).



Năm 1552, sau khi để lại ở Nhật hai tu sĩ dòng Tên người bản xứ là Arima và Bungo do y đào tạo để tiếp tục truyền đạo, Phan-xi-cô một mình tìm cách nhập lậu vào Trung Quốc. Khi mới đến đảo Sancian ở ngài khơi Hồng Kông thì Phan-xi-cô đột nhiên bị bệnh và chết cô đơn tại đây ngày 3 tháng 12 năm 1552. Phan-xi-cô hiển nhiên là một nhân tài và là một tông đồ truyền giáo xuất sắc, nhưng không biết vì lý do gì, Chúa chỉ cho y được hưởng dương có 46 năm. Và dù cho Chúa có cho y được sống tới 460 năm chăng nữa chắc chắn y cũng chẳng bao giớ "phá tan đạo bụt thần ma qủy" như những tu sĩ cuồng tín Việt Nam ước mơ. Xa-vi-e được Vatican thương tình phong thánh năm 1662. Năm 1927, y được Vatican ban thêm cho tước hiệu "Thánh quan thầy của các đoàn truyền giáo hải ngoại" (Patron of foreign missions). Có lẽ vì tước hiệu này mà xứ đạo Công Giáo người Hoa ở cuối đường Đồng Khánh – Chợ Lớn đã nhận Phan-xi-cô Sa-vi-e làm thánh bổn mạng và dựng tượng Phan-xi-cô trên tháp chuông nhà thờ của họ. Dân Saigon thường quen gọi cái nhà thờ Công Giáo Ba Tàu Chợ Lớn này là nhà Thờ Cha Tam, một địa danh đi vào lịch sử Việt Nam với cái chết thê thảm đền tội xứng đáng của anh em Diệm – Nhu năm 1963. Tạ ơn Chúa ! Deo Gracias ! Tiện thể tạ ơn luôn cả Thánh Phan-xi-cô cho thánh đỡ tủi.



Vào năm 1587, tại Nhật có khoảng 100.000 tín đồ Công Giáo, phần đông tập trung tại Nagasaki. Trong thời gian này, nhiều tàu chiến của Bồ Đào Nha đến xâm chiếm Nhật. Chính quyền Nhật nắm được đầy đủ bằng cớ chứng tỏ các tu sĩ và giáo dân Công Giáo làm nội ứng cho địch. Do đó, chính quyền Nhật ra lệnh xử tử bằng cách đóng đinh các tu sĩ ngoại quốc và chém giết rất nhiều giáo dân. Tuy nhiên, các tu sĩ dòng Tên vẫn tiếp tục nhập lậu vào Nhật truyền đạo. Năm 1614, chính quyền Nhật mở cuộc hành quân đợt hai do tướng Tokogawa Yagasu chỉ huy. Năm 1638, giáo dân còn sót lại ở Nagasaki nổi loạn chống chính quyền. Lần này chính quyền Nhật nhất quyết thẳng tay trừng trị nên đã ra lệnh cho tướng Iemitsu mang đại quân đến dẹp loạn đồng thời đẩy lui quân Bồ Đào Nha xâm lược. Quân Nhật giết luôn một lúc 37.000 giáo dân tại Nagasaki, đóng đinh các tu sĩ và đánh đuổi bọn xâm lược Bồ Đào Nha ra khỏi lãnh thổ. Một số tàn quân Bồ Đào Nha và giáo dân Nhật sống sót tìm cách vượt biên bằng thuyền đến tỵ nạn tại Hội An - Việt Nam. Từ đó, trong hơn hai thế kỷ, nước Nhật sạch bóng quân ngoại xâm và bọn giáo dân phản quốc (The Secret History of the Jesuits, by Edmond Paris, translated from French 1975. Chick Publications USA, p.51-52; National Geographic Magazine, Vol.182, No.1, Nov.11.1992, p.56-93: "Portugal’s Sea Road to the East").



Chiến thắng vẻ vang do quyết tâm tiêu diệt tà đạo Công Giáo của người Nhật đã bảo toàn nền độc lập và văn hóa của nước Nhật. Tinh thần dân tộc Nhật đã được hun đúc bởi Thần Đạo (Shinto), tinh thần Võ sĩ đạo (Samourai) và tinh thần Phật Giáo đã cứu nước Nhật thoát ách ngoại xâm và đưa nước Nhật lên địa vị siêu cường ngày nay. Tiểu sử của Phan-xi-cô cũng như lịch sử nước Nhật đã chứng minh không hề có chuyện Phan-xi-cô "phá tan đạo bụt thần" như tác giả thiếu trí tuệ của bài kinh đã tưởng tượng và Phan-xi-cô cũng chẳng bao giờ dám coi một dân tộc Đông phương nào là mọi rợ cả ! Ngược lại, Phan-xi-cô rất tôn trọng phong tục tập quán của các nước ông ta đến giảng đạo và đó chính là yếu tố thành công của ông. Bài kinh nói trên là một bằng cớ cụ thể chứng tỏ tính vong bản nặng nề của các tu sĩ Công Giáo Việt Nam.Chúng đã mù quáng xuyên tạc tiểu sử của Phan-xi-cô và tán tận lương tâm đến mức dám cố tình nhục mạ tổ quốc và các dân tộc Đông phương là những dân mọi rợ ! Các tu sĩ này thật sự là một đám cỏ dại trên cánh đồng văn hóa Việt Nam. Muốn bảo vệ cánh đồng văn hóa Việt Nam, chúng ta không thể không tính đến chuyện trừng trị đám cỏ dại nguy hiểm này. Việc đặt Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật phải là điều đương nhiên trong giai đoạn sắp đến như nước Nga đã làm mấy năm trước đây.



5. Những câu kinh gây hận thù và chia rẽ dân tộc :



Sau hơn bốn thế kỷ xâm nhập Việt Nam, tổng số tín đồ Công Giáo cũng chỉ chiếm được khoảng 8% dân số cả nước. Cái thiểu số này đã coi 92 % còn lại của dân tộc Việt Nam là "những người ngoại đạo khinh rẻ công ơn cứu chuộc của Chúa". Kinh Cầu Cho Kẻ Ngoại có câu : "Cúi xin Chúa từ rày về sau đừng để những người ngoại đạo khinh dễ công ơn cứu chuộc, một xin Chúa nhậm lời cầu nguyện các thánh cùng hội thánh là bạn thanh sạch con Chúa mà dong thứ cho những kẻ ấy. Xin Chúa hãy nhớ lòng nhân từ Chúa mà che lấp lỗi những kẻ ấy xưa nay đã lạc đàng thờ lạy bụt thần (TNKN Bùi Chu, Hà Nội, tr.18). Tệ hơn nữa là tới năm 1971, sách Kinh Nhựt Khóa của TGP Saigon vẫn còn những câu kinh nhục mạ Phật Giáo nặng nề như sau  "Ai chẳng nghe lời Hội Thánh trong mọi việc ấy là chẳng nghe lời Chúa tôi. Tôi ước ao cho muôn vàn kẻ ngoại xứ này đặng bỏ bụt thần ma quỉ mà trở lại cùng Chúa tôi" (NK 139). Trong thực tế, chẳng có ai thờ quỷ cả, vì quỉ là những kẻ có tội bị Chúa giam cầm trong lửa hỏa ngục đời đời, như tín đồ Công Giáo đã được dạy như thế, làm gì còn quyền hành tung hoành tùy ý được. Chẳng qua là các tu sĩ Công Giáo sử dụng danh từ "ma quỉ" chỉ nhằm mục đích để hạ nhục Phật Giáo cho bỏ ghét mà thôi.



Nhưng theo kinh nghiệm bản thân của tôi thì Kinh Bản (Kinh Bổn) nguy hiểm nhất vì kinh này trước đây giáo hội buộc những người tân tòng và các trẻ em trong các gia đình Công Giáo đều phải học thuộc. Riêng kẻ viết bài này đã bị cha mẹ bắt phải học thuộc lòng từ năm lên bảy tuổi để được chịu phép xưng tội và rước lễ lần đầu. Kinh Bổn được viết theo lối vấn đáp và trước đây ở quê nhà, kinh này thường được đọc tại nhà thờ vào ngày Chủ nhật. Tôi nhớ như in câu kinh sau đây vì nó đã làm cho tôi có ác cảm với mọi người ngoại đạo trong suốt thời niên thiếu của tôi : "Hỏi : Kẻ lành là ai ? – Thưa : Kẻ lành là kẻ giữ đạo nên. Kẻ dữ là kẻ chẳng có đạo và kẻ giữ đạo chẳng nên" (TNKN 325). Câu kinh này đã gây ấn tượng sâu xa trong đầu óc non nớt của tôi cho rằng mọi người không theo đạo Công Giáo đều là những kẻ ác cả ? Do đó trong lòng tôi luôn luôn mang nặng một mặc cảm nghi ngờ và thù ghét mọi người ngoại đạo. Sau này, khi đến tuổi lớn khôn, tôi tự hỏi là tôi làm sao có thể sống sót được nếu tôi phải sống giữa một đất nước có tới 92% dân số là những kẻ ác ? Và nếu 8 % dân số Việt Nam theo đạo Công Giáo vẫn sống còn và phát triển như ngày nay thì hiển nhiên những người Việt Nam ngoại đạo không phải là những kẻ ác như kinh Bổn đã dạy ! Quả thật, Kinh Bổn đã là công cụ đầu độc tinh thần trẻ thơ Công Giáo Việt Nam trong nhiều thế hệ qua, và nay cũng vẫn còn tiếp tục. Ngoài ra, người Công Giáo Việt Nam còn bị nhiễm cái định kiến của giáo sĩ ngoại quốc cho rằng "có đạo" là văn minh và ngoại đạo (Heathen) đồng nghĩa với kém văn minh (uncivilized) hay mọi rợ (barbarous). Với các định kiến sai lầm về dân tộc cũng như đối với đồng bào ngoại giáo do các sách kinh nguyện đầu độc, tập thể Công Giáo Việt Nam vĩnh viễn xa rời dân tộc và vĩnh viễn bị coi như cùi hủi đáng ghê tởm trên quê hương mình. Các sách kinh nguyện đã biến tập thể Công Giáo thành một đám người xa lạ không hồn, chẳng những sống gửi vô ơn trên quê hương Việt Nam mà còn luôn luôn sẵn sàng làm nội ứng đắc lực cho đủ loại kẻ thù của Tổ Quốc.



6. Những bài kinh nguyện sặc mùi văn hóa du mục Do Thái – Ả Rập đã biến tập thể Công Giáo Việt Nam thành một giáo hội súc vật hèn hạ :



Như đã trình bày ở trên, nếu cứ nhìn theo bề ngoài thì ta thấy mọi người Công Giáo đều là những người bình thường, nhưng sự thật bên trong họ là những tim óc bán khai. Họ không phải là bán khai sao được khi họ còn ham đến nhà thờ để được ăn thịt uống máu Chúa (cannibal). Nam nữ tín đồ ăn thịt uống máu (Chúa) cho đả để rồi sau đó nam nữ tín đồ bài tiết Chúa ra ngoài qua lối cửa trên hoặc cửa dưới um tùm. Thấy phát khiếp.



Do hậu quả của sự tự kỷ ám thị, những bài kinh sặc mùi văn hóa du mục đã biến các tín đồ Công Giáo thành một đàn cừu non và hạng tu sĩ đương nhiên trở thành những "chủ chăn" của họ. Đầu óc ô nhiễm giáo lý Công Giáo của họ u tối như đêm ba mươi không đèn không đóm nên họ không thấy điều đó là nhục. Trong khi đó, các tu sĩ cao cấp như giám mục, hồng y, giáo hoàng cứ tưởng mình là những "đấng" chăn cừu chăn dê thật nên mỗi khi làm lễ, chúng thường cầm cây gậy mạ vàng tượng trưng cho cây gậy của những kẻ mục đồng trên những đồng cỏ hoang dã ở Do Thái – Ả Rập xưa kia. Dưới con mắt của tu sĩ cao cấp này, đoàn giáo dân chỉ là một bầy súc vật để cho chúng ăn thịt. Kinh Dâng Cõi Đông Dương cho Đức Nữ Đồng Trinh Maria có câu : "Sau nữa, vì công nhiệp, Đức Mẹ chuyên cầu, xin cho cả dân cõi Đông Dương nhờ có máu châu báu của con Đức Mẹ đã đổ ra mà cứu chuộc, thảy đều nên một ràn cùng một kẻ chăn." (NK 170-172).



Trong sách kinh Công Giáo Việt Nam đầy dẫy những câu kinh nhồi sọ giáo dân tinh thần nô lệ mù quáng khiến họ chỉ biết cúi đầu tuân phục mọi mệnh lệnh của Vatican và tuyệt đối tin tưởng vào một điều quái đản là "giáo hoàng La Mã không thể sai lầm". Chẳng hạn như trong kinh Phạt Tạ Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giê-xu có câu : "Chúng tôi xin đền tội chung cho các nước thiên hạ hằng chống cưỡng cùng chẳng vâng phục lời Hội Thánh Chúa truyền dạy" (N 130-131). "Ai chẳng vưng lời Hội Thánh truyền dạy trong mọi việc là chẳng vưng lời Chúa tôi" (NK 137). "Chính đấng cai trị ở trên trời là Đức Chúa Giê-xu và đấng ở dưới đất cai trị các giáo hữu khắp thế gian là Đức Giáo Hoàng ở thay mặt Đức Chúa Giê-xu... Đức Chúa Trời hằng gìn giữ Đức Giáo Hoàng cho nên chẳng có lẽ nào sai lầm được" (TNKN 126-127). Tập thể giáo dân trở thành một bầy con chiên tức bầy cừu non dại hoàn toàn tùy thuộc vào sự lãnh đạo của hệ thống tu sĩ đứng đầu bởi giáo hoàng.



Giáo hoàng và bộ tham mưu đầu não trung ương của thế giới Công Giáo đặt tại Vatican. Bộ tham mưu địa phương của chúng nằm vùng tại các quốc gia có tín đồ Công Giáo là các Hội Đồng Giám Mục. Tại nước ta, HĐGMVN trụ sở đặt tại số 40 phố Nhà Chung, Hà Nội, là bộ tham mưu của bọn Việt gian nằm vùng thường trực trong lòng dân tộc Việt Nam. Mọi mệnh lệnh của Vatican ban ra đều được ban tham mưu này răm rắp thi hành, miễn sao phục vụ tối đa quyền lợi của Vatican, chẳng bao giờ quan tâm đến quyền lợi và danh dự của dân tộc. Các sách kinh nguyện là những công cụ chiến tranh tâm lý hữu hiệu của Vatican nhằm đầu độc tinh thần giáo dân và biến họ thành một lực lượng chính trị của Vatican mai phục sẵn trong lòng dân tộc Việt Nam. Điều nguy hiểm là lực lượng chính trị này đồng nhất, đa số là những tim óc bán khai và hung hăng cuồng tín, cho nên kẻ lưu manh quốc tế ở Vatican rất dễ dàng xử dụng họ để tha hồ thao túng lũng đoạn nội bộ nước ta. Các sách kinh nguyện thực sự đã trở thành những trái mìn cài sẵn trong mọi ngóc ngách của căn nhà Việt Nam.



7. Các lời cầu nguyện của GH Jean Paul II trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam năm 1988 tại Vatican có nội dung vinh danh hay mạ lỵ người Công Giáo Việt Nam ?



Các sách kinh Công Giáo đều có những "kinh cầu các thánh tử đạo Việt Nam". Nhưng các kinh ngày thường chỉ là những lời ca tụng suông mà thôi. Phải đợi đến khi giáo hoàng Jean Paul II tuyên đọc những lời cầu nguyện để tôn vinh 117 tử đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988 [Trong Tòa "Thánh" Vatican có một số giáo sĩ người Việt, họ đã vận động cố tình chọn ngày 19-6 với mưu đồ chính trị. Đó là ngày của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.] tại Vatican, chúng ta mới có thể hiểu được những người tử đạo Việt Nam đã chết cho ai và với mục đích gì. Trong bài kinh phong thánh có những câu sau đây :



Ø       "Các Ngài là niềm vinh quang của Jerusalem

Ø       "Là nỗi vui mừng của Israel

Ø       "Và là vinh dự của dân tộc Việt Nam !



Tôi dám quả quyết rằng ngoài một thiểu số tín đồ Công Giáo cuồng tín ra, tuyệt đại đa số người Việt ở trong nước cũng như tại hải ngoại chẳng có ai cảm thấy một vinh dự nào trong việc Vatican phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam. Trái lại, sự phong thánh đó chỉ làm cho người Việt Nam gai mắt vì bị coi là một hành vi khiêu khích đối với cả một dân tộc. Bởi lẽ người Việt Nam không quên rằng sự du nhập đạo Công Giáo đã là nguyên nhân chính yếu đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ thực dân Pháp trong hơn 80 năm đau thương ô nhục !Chính những người tử đạo đã là nguyên nhân gây hận thù và chia rẽ dân tộc mà hậu quả là việc thành lập các lực lượng cuồng tín hiếu sát của Tự Vệ Công Giáo ở Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình và Lực Lượng Tự Vệ Công Giáo ở Miền Nam Việt Nam, gọi tắt là UMDC (Unités Mobiles de Defense des Chrétiens) trong công cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954.



Trong cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp 1946-1954, các giám mục Việt gian Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đã ra sức phục vụ cho thực dân tại miền Bắc dưới chiêu bài chống Cộng Sản vô thần. Sau 1954, Lê Hữu Lễ và đàn em là Hoàng Quỳnh tiếp tục phục vụ quyền lợi của thực dân pháp tại Việt Nam bằng cách hợp tác với đại tá Le Roy, Tổng chỉ huy UMDC và đảng cướp Bình Xuyên. Từ 1954 đến 1963, người Công Giáo huênh hoang tự phong cho mình là những người chống cộng hàng đầu. Họ đã điên cuồng chống cộng không phải vì yêu nước hay vì chính nghĩa quốc gia mà chỉ để phục vụ cho chủ trương chống cộng cực đoan của giáo hoàng Pio XII (1939-1958). Pio XII là tên trùm của siêu quyền lực Mafia. Trước khi lên ngôi giáo hoàng, Pio XII đã sống nhiều năm ở Đức. Mặc dầu là người Ý, nhưng rất thông thạo về mọi vấn đề của Đức quốc và nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ. Trong thế chiến thứ hai, Pio XII đã góp công đặc lực cho Hitler tiêu diệt Do Thái. Hiện nay tại bảo tàng viện Bronx (New York) có một gian hàng triển lãm tội ác của Pio XII với một tấm bảng ghi : "Tên đồ tể Quốc xã tại Rome" (The Nazi butcher at Rome). Pio XII là một giáo hoàng rất cuồng tín đã ra lệnh cho giáo phận Bùi Chu lập Dòng Đồng Công trong thập niên 1940 do LM Trần Đình Thủ đứng đầu. Pio XII tích cực hỗ trợ thực dân Pháp tái chiếm Việt nam. Năm 1954, chính y đã kêu gọi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Bắc Việt để cứu Pháp nhưng người Mỹ đã bác bỏ đề nghị này của y.



Sau khi Pio XII chết vào năm 1958, các giáo hoàng kế nhiệm là John XXIII (58-63) và Paul VI (63-78) đã quay ngược 180 độ bắt tay với Liên Xô. Đầu thập niên 1960, John XXIII móc nối với Hồ Chí Minh để thiết lập chính phủ trung lập tại Nam Việt Nam và hợp tác với Kennedy sát hại anh em Ngô đình Diệm năm 1963. TGM Ngô Đình Thục suốt đời làm thân khuyển mã cung cúc phục vụ quyền lợi của đế quốc thế tục Pháp và đế quốc tinh thần Vatican nhưng đã bị bỏ rơi tàn nhẫn. Vatican (sau Công đồng tháng Mười 1962) đã không ngần ngại ban cho tên tổng giám mục Việt gian này án phạt tuyệt thông, đó là một hình phạt nặng nề và nhục nhã nhất đối với một tín đồ Công Giáo. Ngày 30/1/1967, GH Paul VI tiếp thủ tướng Liên Xô tại Vatican. Cũng trong thời gian này (65-67), LM Hoàng Quỳnh và hàng chục ngàn giáo dân liên tục biểu tình phá rối trị an tại Nam Việt Nam, nhất cử nhất động đều răm rắp theo lệnh của Vatican ! Ngày 12/11/1974, LM Hoàng Quỳnh cùng với gán điệp CS Vũ Ngọc Nhạ đến Củ Chi họp mật với MTGPMN để lập Thành Phần Thứ Ba trong chính phủ liên Hiệp theo như hiệp định Paris dự liệu. Sau 1975, GH Paul VI đã ban thưởng huy chương cho gián điệp Vũ Ngọc Nhạ và không thèm đếm xỉa gì đến các chiến sĩ QLVNCH chống cộng đang nằm trong các trại tù cải tạo. Giới trí thức Công Giáo hoàn toàn nín khe không dám nói nửa lời chống lại các hành vi phản bội trắng trợn này của Vatican đối với Việt Nam Cộng Hòa. Vậy mà tại hải ngoại, bất cứ ai lên tiếng đả kích Công Giáo về bất cứ vấn đề gì, luôn luôn bị nhóm trí thức Công Giáo này gán ngay cho cái mũ Cộng Sản vô thần.



Nhưng sự thật lịch sử xưa và nay đều chứng minh rằng tập thể Công Giáo Việt Nam chỉ là một bầy cừu hèn hạ luôn nép mình dưới cái gậy chỉ huy độc đoán và cực kỳ nham hiểm của Vatican. Vì cuồng tín, họ đã tự biến mình thành một tập thể Việt gian luôn luôn có hành động đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Trách nhiệm hàng đầu thuộc về cái gọi là Hội Đồng Giám Mục. Xét cho cùng, mọi hành vi xuẩn động phản quốc của tập thể Công Giáo là do hậu quả của những bài kinh cầu xin Chúa cho làm súc vật : "Xin Chúa hãy lùa tôi vào một đoàn cùng các con chiên Chúa." NK 721). "Vì công nghiệp Đức Mẹ chuyển cầu, xin cho cả dân Đông Dương (Indochine Francaise) thảy nên một ràn cùng một kẻ chăn" (NK 170-172). Thiên Chúa là đấng thiêng liêng chẳng thấy đâu, cho nên đoàn chiên gọi là của Chúa trong thực tế chỉ là một bầy cừu khờ dại của Vatican !



Tu sĩ Công Giáo Việt Nam là những kẻ đốn mạt tự nguyện từ bỏ tư cách làm người để hạ mình ngang hàng súc vật. Chỉ có tín đồ cuồng tín mới tôn họ lên làm "Các Vị Lãnh Đạo Tinh Thần" và tâng bốc gọi họ là Cha, Đức Cha, Đức Ông hoặc Các Đấng Bề trên mà thôi. Các tu sĩ Công Giáo hay ghi nhớ nằm lòng những điều đó và chấm dứt ngay hành vi láo xược xưng Cha xưng Ông với những người Việt Nam ngoại giáo. Trình độ nhận thức của dân tộc Việt Nam ngày nay về thực chất của đạo Công Giáo đã khác xa với thời Ngô Đình Diệm và tấm gương sáng oanh liệt Nagasaki của Nhật Bản thế kỷ 16-17 sẽ được dân tộc Việt Nam học tập. Sống trên quê hương Việt Nam, những người Công Giáo chỉ biết ca ngợi hết lời đối với quân cướp nước và bán nước rồi quay đầu lại nhục mạ dân tộc mình là mọi rợ. Các người mù quáng đến độ Giáo hoàng Jean Paul II đã chưởi khéo mà các người không biết.



Lời cầu nguyện của GH John Paul II trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo năm 1988 đã cho chúng ta thấy rõ là những người tử đạo đó đã hy sinh tính mạng nhằm phục vụ cho ai : "Người là niềm vinh quang của Jerusalem, là nỗi vui mừng của Israel !" Thật rõ ràng là họ đã chết không phải vì dân tộc Việt Nam mà vì Jerusalem và Israel ! Chúng ta hãy tự hỏi : Cái thành phố Jerusalem kia có liên quan gì đến dân tộc Việt Nam mà 117 kẻ tử đạo đã phải chết để đem lại vinh quang cho nó ? Ngay cái thành phố này tự nó đã là hiện thân của sự chia rẻ tôn giáo đáng nguyền rủa, hà cớ gì người Việt Nam lại phải đem sinh mạng của mình để lo cho vinh quang của nó ? Báo Washington Post ngày 25.3.2000 loan tin GH Jonh Paul II đến nhà thờ The Holy Sepulbsher tại Jerusalem làm lễ đã kêu gọi bảy giáo phái Ki-tô Giáo tại thành phố này hãy xóa bỏ hận thù chém giết lẫn nhau trong nhiều thế kỷ qua để hợp nhất trong tinh thần anh em cùng cha là Chúa Ki-tô. Nhưng trong khi GH John Paul II làm lễ thì các nhà thờ thuộc các giáo phái Ki-tô khác đã khua chuông ầm ĩ để phá đám ! Một giới chức trong phái đoàn của giáo hoàng đã phải thở dài và than rằng : "Phương cách này là một cuộc chiến !" (This process is a battle) và John Paul II cũng đành thú nhận : "Từ xưa đến nay, tôn giáo vẫn được xử dụng làm phương tiện cho sự chia rẽ và chiến tranh" (Religion has been used as a means for division and war). Như vậy rõ ràng Jerusalem là một chứng tích hùng hồn về sự thất bại của cái gọi là "công ơn cứu chuộc của Chúa Jesus" và là biểu tượng nhục nhã của chiến tranh tôn giáo đã gieo rắc biết bao thảm họa cho nhân loại trong 2000 năm qua. Cả hàng triệu tử đạo trên khắp thế giới cũng không đủ sức đem lại một chút xíu vinh quang nào cho Jerusalem huống hồ 117 tử đạo cắc ké ViệtNam ?



Mọi người Việt Nam ngoại giáo rất ngạc nhiên vì không thể hiểu nổi tại sao người Công Giáo Việt Nam lại phải đổ máu cho nỗi vui mừng của Israel ? Các đây 4 000 năm, cháu nội của Abraham là Jacob đã đặt tên cho nước Do Thái là Isra-El để vinh danh con bò thần tên EL. Chẳng lẽ cái chết của 117 tử đạo Việt Nam chỉ để mang lại niềm vui cho dân tộc thờ bò ? Người Việt Nam vẫn thường quan niệm con bò là biểu tượng của sự ngu đốt, vì vậy tục ngữ Việt Nam có câu : "ngu như bò". Không có một trường hợp nào có thể áp dụng câu tục ngữ này thích hợp cho bằng trường hợp những người Việt Nam tử đạo "vì vinh quang của Jerusalem và vì nỗi vui mừng của Israel". Thật đau buồn để phải nhận ra rằng máu bò Do Thái còn quí hơn máu tử đạo Việt Nam bội phần ! Do đó, những lời cầu nguyện của Giáo hoàng Jean Paul II đọc trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam năm 1988 thực chất là những lời nhục mạ Công Giáo Việt Nam ! Bà Joanne Meehl viết : "bỏ đạo là từ chối làm kiếp con bò" (refusing to be a cow) thật là chí lý !

Partager cet article