* Đôi lời của tác giả ĐẶNG VĂN NHÂM gửi đến tất cả đồng bào, độc giả trong ngoài người nước:
-
Mấy năm qua tôi đã im hơi lặng tiếng trên khắp các diễn đàn
hải ngoại. Chẳng phải vì yếm thế, sức khỏe hào mòn, hay trí tuệ kém
minh mẫn...mà chỉ bởi tôi đã tự nguyện dành một số thời gian cuối đời
để thực hiện cho kỳ được mục tiêu lý tưởng " TẨY SẠCH TÔN GIÁO" đến
tận gốc rễ và từ trong ra ngoài để loài người khỏi phải hít thở thừ
không khí ô nhiễm đã tràn ngập khắp nơi trên mặt địa cầu suốt trên
2.000 năm dài liên tục và ngày nay đã trở nên một thứ đại thảm họa tàn
sát tập thể nhân loại, không biêt mãi đến khi nào mới chấm dứt!
Nếu lý tưởng này bất thành, thiết tưởng, tối thiểu, tác giả cũng
chưa chịu thất bại, vẫn còn cố nuôi trong tâm khảm chút hy vọng cuối
cùng là thức tỉnh lương tri của các giới độc giả đồng bào thân thương
bản chất thiện hảo vốn thực sự yêu chuộng hòa bình và bác ái.
Tất cả ước nguyện thầm kín trên đây, sau nhiều năm dài bế môn tạ
khách, để chuyên chú vào việc điều nghiên, suy luận những lời khải
truyền của thượng đế đã được ghi chép đầy đủ trong các bộ kinh của các
đạo Du Già Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo v.v...Đáng kể nhất là bộ
kinh " Cựu Ước và Tân Ước với kinh CORAN".
Với mục tiêu lý tưởng cao quí như thế, cộng với khối lượng thời
gian lớn lao vượt sức công phu của một cá nhân, nhất là quyết tâm sinh
tử , tác giả đã đạt được kết quả cụ thể bây giờ là hoàn tất trọn vẹn
tác phẩm đồ sộ : QUẲNG THÁNH KINH ĐI ...! Dầy 810 trang, khổ giấy
A5. Sách này đã được thực hiện bằng Việt Ngữ, theo dạng điện tử
(EBOOKS) và do nhà AMAZON. KINDLE FIRE của Mỹ phát hành khắp thế giới
với giá bán rất nhẹ, bất cứ ai cũng có thể mua dễ dàng.
KHAI ĐỀ
▪ Kinh Thánh Là Gì?
KINH THÁNH (Holy Writ, Bible) là tên chung gọi những bộ sách "
CỰU ƯỚC và TÂN ƯỚC"
của riêng các đạo Du Già Do Thái và Thiên Chúa Tây Phương. Chữ "KINH"
bắt nguồn từ Hán tự (bộ Mịch , 13 nét), chỉ những bộ sách ghi chép lời
dạy cao siêu, thánh thiện của các bậc hiền nhân quân tử. Nếu nói là
"KINH ĐIỂN" thì ý chỉ các loại sách thánh hiền, sách về cương thường
đạo lý, sách tài liệu cao kiến của cổ nhân uyên bác được lưu truyền làm
khuôn vàng thước ngọc về các vấn đề học thuyết, chủ nghĩa, những trải
nghiệm thực tế hiếm quí cho hậu thế. Đó là cái gốc của văn hóa.
Sở dĩ con người được cao quí hơn các loài cầm thú vì nhờ có văn hóa
. Mà khi đã gọi là "văn hóa" tất nó phải có tính chất thanh cao, thiện
hảo. Đó một điều kiện bắt buộc không thể thiếu (sin qua non). Trong văn
hóa kể gồm cả đức tin, tôn giáo và luân lý (la foi, la religion, la
morale). Như vậy, tóm lại, 2 bộ sách Cựu Ước và Tân Ước của các đạo
Thiên Chúa, Du Già đều là những quyển sách..."thánh" (HOLY BIBLE !),
trong đó ghi chép toàn những lời khải truyền của các vị thánh, chúa của
2 đạo ấy, gồm từ Chúa Trời Yahvé (còn gọi là chúa cha), Chúa Jesus (
chúa con), cùng với các thứ siêu thánh như Moise, 12 vị thánh tông đồ
và rất nhiều vị thánh linh tinh khác nữa. Để truyền bá tín ngưỡng, 2
tôn giáo kể trên đã dùng chung luôn cả 2 bộ kinh Cựu Ước và Tân Ước
làm phương tiện giáo dục các tầng lớp con chiên bổn đạo. Sự cố này từng
diễn ra liên tục suốt 2 ngàn năm qua, khiến trên khắp thế giới đã có
rất nhiều bậc thông thái kinh điển Du Già và Thiên Chúa không khỏi bị
"ngứa tai, gai mắt, nhức nhối lương tri" phải lên tiếng phê bình công
kích kịch liệt, tạo nên một khu rừng kinh điển, phê bình, mổ xẻ kinh
sách, tìm hiểu giáo thuyết của đủ loại thần linh, thánh, chúa và ác qủy
Satan...thiết tưởng dù cho ngày nay, nếu có ai muốn dùng cả cuộc đời
để chuyên tâm khảo sát cũng không sao đầy đủ. Do đó, khi nghiên cứu và
biên soạn sách này, tôi chẳng phải là một con ong khai sơn phá thạch,
chẳng phải là kẻ đầu tiên lên tiếng phê bình nghiêm chỉnh, mà chỉ là
một kẻ phàm phu, tục tử rất tầm thường, hành động theo bản năng thiên
nhiên và tự tính hiếu kỳ của một cá nhân ham thích học hỏi những điều
hay lẽ phải trong tác phẩm của các bậc cao nhân viễn kiến trên thiên
hạ. Đặc biệt nhất, trong hàng trăm tác giả ngoại văn nổi tiếng khắp thế
giới có tên ghi trong "thư mục tham khảo" nơi cuối sách này, tôi còn
được dịp chuyển dịch một số đoạn văn trực tiếp từ các tác giả
Christopher Hitchens, Normand Rousseau, André Comte-Sponville, Bernard
Feillet, Natale Benazzi & Matteo d'Amico, Pascal Boniface, Odon
Vallet...Tác phẩm của các vị ấy đã giúp cho chúng ta có những tài liệu
giá trị để tham cứu, trích lục, hầu giúp cho nhau - một giống dân còn
trì độn, chậm tiến - sớm kịp tìm lại chút ánh sáng tuyệt vời của "sự
thật", mà từ hàng ngàn năm qua đã bị những thứ tôn giáo tín ngưỡng tù
mù, u ám, chân giả bất phân, che chắn, lừa gạt!
Theo lệ thường, từ cổ chí kim bất cứ một thứ vật dụng gì đã cũ xưa,
lỗi thời, hư hỏng, rách nát, dơ bẩn, xông mùi xú uế, hay một món ăn
nào đã bị nhiễm trùng khi chế biến, những miếng thịt đã thiu thối, bám
đầy dòi bọ..., dù quí báu đến đâu vì lý do vệ sinh cá nhân và mục đích
nhân đạo, ngăn ngừa tật bịnh truyền nhiễm hiểm nghèo cho cả một vùng
đông đúc dân cư, người ta đều phải quẳng nó đi, ném chúng nó vào thùng
rác đóng kín nắp lại, hoặc rắc vôi bột sát trùng, rồi chôn sâu trong
lòng đất v.v...Đối với những món ăn tinh thần còn nguy hiểm và quan
trọng nhiều hơn thế. Vì khi loại độc tố tinh thần ấy đã xâm nhập vào
tim óc con người rồi, chẳng những nó phá hoại trí não trong sáng của
nạn nhân, nó còn di truyền, bám trụ trong đầu óc con cháu của họ đến
ngàn đời không thoát khỏi. Bởi thế, những thứ thánh kinh chuyên chở giáo
thuyết nhồi sọ tinh thần cuồng tín u mê, mang tính vô luân, tuyên
truyền thú tính giết người dã man hàng loạt có tính diệt chủng, dâm
loạn, vô nhân đạo của các đấng thần linh, thánh chúa với dụng ý "làm
gương" (sic!) cho tín đồ đều phải loại ra khỏi các kệ sách gia đình và
thư viện ngay lập tức. Chính bởi hậu quả tinh thần ghê gớm kể trên, nay
, với tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu này, tôi mạn phép nêu lên câu hỏi
sau đây để bạn đọc, bất phân tôn giáo, tùy nghi suy luận tự tìm ra cho
mình một lý giải thích nghi:
▪ Tại Sao Chưa Quẳng Thánh Kinh Đi?
Bất cứ ai đã có dịp đọc hết bộ thánh kinh Cựu Ước và Tân Ước của
các đạo Du Già Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo, cũng như bộ kinh Coran
của Hồi giáo (vốn bắt nguồn từ 2 đạo kể trên), đều không khỏi rùng mình
kinh ngạc và buồn nôn như kẻ tác giả này.
1 - Về mặt văn chương, bố cục lủng củng, không mạch lạc, thiếu
nhất quán, lời lẽ và văn ngôn trong thánh kinh thô kệch, tối nghĩa,
nhiều khi dùng phép ẩn dụ (parabole) rất lệch lạc khó hiểu, kể ra toàn
những chuyện pha trộn hoang đường, hư cấu với chút ít màu mè lịch sử
đương đại, tiền hậu bất nhất, mâu thuẫn lung tung, chẳng khác nào một
anh già nhà quê lẩm cẩm, lú lẫn, nói trước quên sau, đầu đuôi lộn xộn.
Nếu so với bộ sách" Thất Tài Tử Thư " của Trung Hoa cổ, các chuyện kể
trong kinh thánh thua xa về mọi mặt từ hình thức đến nội dung. Thua
luôn cả bộ tiểu thuyết : Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai... Thậm chí, nếu
so với những chuyện dân gian như: Tây Du Ký, Thủy Hử, chuyện kiếm hiệp
của nhà văn Kim Dung, các bộ thánh kinh Cựu Ước và Tân Ước chỉ là một
thứ hợp soạn bịa đặt vụng về, ngây ngô đáng buồn cười. * Nên biết: Bộ
truyện kiếm hiệp của Kim Dung đã đạt đến mức thượng thừa, quán cổ xuyên
kim về nghệ thuật kể truyện, hấp dẫn đến độ thu hút độc giả mê man như
lạc lõng trong giấc mộng du vô tận. Về mặt bố cục vô cùng liền lĩ, uốn
lượn tài tình như giòng thác chảy không hề ngừng đọng trong giây phút.
Truyện nào của Kim Dung cũng gồm rất nhiều nhân vật đủ loại (đông hơn
kinh thánh gấp chục lần!), hoạt động liên tục, với các tình tiết tự
nhiên, hợp lý, xảy ra hết sức bất ngờ rồi diễn biến nhanh như chớp.
2- Về mặt giá trị kiến thức thánh kinh lại càng hết sức tồi tệ,
phơi bày một trình độ hiểu biết rất nông cạn, nếu không nói là ngu dại
đến độ phản khoa học. Bằng chứng bất khả kháng biện là vụ giáo hội
Thiên Chúa đã hành hình dã man các khoa học gia Giordano Bruno (1584) và
Galilée. Hơn thế, khi xử nhục hình Galilée và hỏa thiêu Giordano
Bruno, giáo hội TC còn chứng tỏ đã hành động phản thiên nhiên, phản
khoa học. Sự ngu dốt của các hàng giáo phẩm lãnh đạo TC giáo thời ấy đã
kéo lùi tiến độ khoa học của nhân loại đến mấy ngàn năm! Hành động hỏa
thiêu nữ thánh Jeanne d'Arc, nữ anh hùng dân tộc Pháp, ngoài đại ác
tội giết oan vì lòng ghen tị, kèn cựa với món "đồng trinh" thứ thiệt
của một người con gái nông dân, chứ không phải thứ đồng trinh kiểu
"nước vỏ lựu máu mòng gà" của đức bà Marie.
Đồng trinh gì mà đẻ đái con cái tùm lum ( nombreuse nichée) vẫn còn...đồng trinh?! Nên
biết, theo lời kể của thánh Matthieu (XIII 55-57), chúa Jesus còn có
thêm 4 người anh em trai và nhiều chị em gái nữa! Trong kinh Phúc Âm
của thánh Jacques, ta không thấy xác nhận, nhưng cũng không hề phủ nhận
điều này. Vậy, hiển nhiên là chuyện ấy có thật! Ngoài ra còn một nhân
vật khác nữa , cũng tên Jacques trong kinh thánh, mà nhiều nhà nghiên
cứu thánh kinh và TCG đã cho là anh em của chúa Jesus!
Truy nguyên đến kỳ cùng, ta mới nhận ra sai lầm nguyên thủy có tính
cốt lõi về món "đồng trinh" (vierge), hay còn gọi là "trinh sản" (
parthénogenèse) của bà Marie, vốn gốc chữ Hébreu " almah" chỉ có nghĩa
đơn giản là một "thiếu phụ" ( jeune femme) mà thôi! Vậy mà các nhà biên
soạn thánh kinh Tân Ước, toàn gốc dân Do Thái, bỏ đạo Du Già chạy theo
TC giáo, dám dịch ẩu là "đồng trinh"!!!
3- Về mặt chính trị, xã hội, các bộ kinh thánh của đạo Thiên Chúa Du
Già càng thua kém rất xa, xa lắc xa lơ các bộ "Tứ Thư, Ngũ Kinh" của
Khổng giáo, bộ "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử, và của các bậc thánh triết Hy
Lạp... Trên mọi phương diện nghệ thuật trị quốc an dân, giáo dục quần
chúng, phát triển văn hóa và tổ chức trật tự xã hội, các nhà đại hiền
triết đông phương đã không hề dạy quần chúng phải dùng bạo lực sát nhân
hàng loạt như đức chúa trời Yahvé, thánh Moise, và các thánh tông đồ
Paul, Pierre...v.v...
4- Về mặt luân lý, đạo đức, kinh thánh của các giáo hội Du Già
Thiên Chúa hoàn toàn trái nghịch hẳn với tinh thần bao dung, phóng
khoáng và tư tưởng cao siêu tuyệt diệu trong giáo thuyết của Phật
Thích Ca, của Không Tử và Lão Tử. Trên thực tế, từ 2.500 năm về trước
đến nay, loài người ở các nước Á châu đã có tục "TAM GIÁO ĐỒNG MÔN" ,
thờ cả 3 tôn giáo : Phật giáo, Khổng giáo, Lão Giáo cùng chung trong một
giáo đền, một chùa. Trong khi đó, ngược lại 3 tôn giáo của các giống
dân Sémites và dân Tây phương, tuy cùng theo đường lối độc thần giáo,
cùng thờ chung một chúa trời Yahvé, cùng chia xẻ một thứ giáo
thuyết...nhưng lại thù hận lẫn nhau đến mức không đội trời chung, tàn
sát lẫn nhau đến đứa con đỏ sơ sinh cực kỳ dã man liên tục suốt 2 ngàn
năm qua.Trước hết, các đạo cùng một gốc, gồm: Du Già, Thiên Chúa, Hồi
giáo tàn sát lẫn nhau hàng ngàn năm qua chưa dứt. Trong nội bộ đạo
Thiên Chúa chia ra nhiều chi phái: Thiên Chúa La Mã, Chính Thống, Cơ
Đốc (Tin Lành), Anh quốc giáo (Anglican) ,Phản Thệ Giáo Calvin (Thụy
Sĩ)...Đạo Hồi, sau khi đấng tiên trị cuối cùng Mohamed qua đời, đã phân
hóa thành 2 hệ phái : Sunnit và Chiite, tàn sát lẫn nhau, không chừa
đàn bà con nít mới đẻ, hằng ngày, cho đến nay còn đang diễn ra vô cùng
tàn bạo tại (Iraq). Nên biết: Phe hối giáo Sunnit thờ giáo chủ khai
sáng Mohamed, thánh địa ở La Mecq thuộc nước Arabie Séoudite. Còn phe
Chiite thờ giáo chủ Ali, vừa là "người anh" con chú con bác, đồng thời
còn là "con rể" của giáo chủ Mohamed. Thánh địa có đền thờ giáo chủ Ali
đã được dựng lên tại thủ đô Bagda, nước Iraq.
Mối hận thù vu vơ, phi nhân tính và vô luân lý của các đạo ấy đã
khùng điên đến độ như thế chưa đủ, các đạo Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo
còn chủ trương bách hại, tàn sát diệt chủng hết mọi tôn giáo khác, gọi
là "dị giáo", của loài người trên mặt đất!
Toàn bộ kinh thánh của 2 tôn giáo Du Già, Thiên Chúa còn tỏ ra rất
tầm thường, dung tục quá lố, bịa sạo chuyện khải truyền, và chỉ nhắm
mắt tôn thờ Yahvé, một đức chúa trời hoang tưởng,tâm hồn nhỏ mọn, lòng
dạ tôm tép, gian ác, hung tàn, dã man, hiếu sát, hết sức ghê tởm, đáng
phải nguyền rủa đến muôn đời.
Khi hành đạo, chiếu theo các sự kiện
ghi trong kinh thánh và các dấu vết lịch sử tôn giáo, suốt 2.000 năm
qua, giáo hội Thiên Chúa còn tỏ ra khát máu, gian tham, vơ vét, tích
lũy tiền bác, tài sản của các giới giáo dân để làm giàu, trái hẳn với
lời dạy của chúa Jesus . [ Một cách giống như vậy, đạo Hồi, phái
Chiite, cũng lợi dụng tôn giáo, nhân danh thượng đế Allah Bakkhahi,
buôn bán thân xác các nữ tín đồ, lập ra giáo luật "hôn nhân tạm thời"
(mariage temporaire) để bán giấy phép cho bọn đàn ông được giao hợp với
người đàn bà theo giá biểu ấn định từ 1 tiếng đồng hồ, đến 2 tiếng, 3
tiếng... hoặc một ngày , một tuần lễ v.v... tùy nhu cầu. Sau khi gấy
phép hết hạn, 2 kẻ nam nữ "kết hôn tạm" ấy được coi như đã ly dị là
xong !]
Như vậy, giáo hội TC đã hành động gian ác ghê gớm, nguy hiểm hơn
cả đức chúa trời Yahvé của họ gấp vạn lần! Phải chăng đó là thứ nghĩa
vụ thiêng liêng của hạng tôi tớ "noi gương chúa" của giáo dân?!
* Nên chú ý: Suốt mấy ngàn năm qua, nhất là từ sau đệ nhất thế
chiến đến ngày nay, trong bất cứ một chuộc chiến tranh đẫm máu nào trên
mặt quả địa cầu, người ta vẫn đều thấy thấp thoáng gần xa bóng cây Thập
Tự Giá!
Tóm lại, đối với một loại "thánh thư" kể toàn những chuyện thiển
cận, thù hận ngút trời, tham lam, gian ác, hiếp dâm tập thể và chém
giết lẫn nhau dã man, tàn bạo tới nỗi máu người trong thành Jerusalem
đã ngập tràn lên đến tận mắt cá chân, tại sao, cho đến nay vẫn không
thấy một ai phát động chiến dịch hủy diệt ngụy thư?
▪ Quẳng Thánh Kinh Đi Không... Dễ !
Nêu câu hỏi trên, có lẽ tôi chưa thông suốt được chút nào về lịch
sử các tôn giáo của nhân loại, nói chung gồm cả 2 khuynh hướng: độc
thần giáo ( Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo) và đa thần giáo (Vật Linh, Bà
La Môn, Ấn giáo, Phật, Lão, Khổng...). Nếu tôi đã thực sự quán triệt
được phần nào tôn giáo sử Đông -Tây, tất nhiên tôi phải biết sự tích
đấng Thiền Tổ đời thứ 28 ở Ấn Độ, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) năm 520
(sau TC, ngày 21, thg 9, âl.) ngài đã qua Trung Quốc diễn giảng đạo lý
cho vua nhà Lương là Võ Đế nghe. Thời bấy giờ, ở bên Tàu , người ta đều
tu học đạo Phật theo lối "hữu vi", nên không biết nhiều về thuyết "vô
vi", nên chẳng mấy ai hiểu ngài. Ngài vào núi Tung, đến chùa Thiếu Lâm ,
diện bích suốt 9 năm, tu thiền định với chủ trương khai phóng "
bất lập văn tự, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật". Nói nôm na là:
"vô sư vô sách, quỷ thần bất trách, qủy thần tri".
Bởi ngài đã kịp nhận ra đám rừng kinh sách rậm rịt chỉ là thứ chướng
ngại vật lớn lao đã ngăn bước chân và làm lạc lối con người tìm đường
đạt đạo. Tóm lại, như vậy ngài đã là nhân vật tiền phong thực hiện việc
"QUẲNG THÁNH KINH ĐI..." . Khi đã vứt bỏ hết kinh sách rồi thì đám tu sĩ
"trung gian giữa ông trời và con người" tất nhiên trở thành vô dụng,
bị phế lọai. Vì sau khi đã qua sông rồi, còn ai vác chiếc thuyền gỗ nặng
nề, thô kệch theo làm gì nữa? Hay là khi ta đã nhìn thấy mặt trăng
rồi, ta đâu cần đến ngón tay chỉ trỏ của ai kia làm gì nữa, phải
không?!..
Như vậy chứng tỏ đấng Thiền Tổ Bồ Đế Đạt Ma đã quán triệt được tận
gốc rễ của sự tu hành và tính chướng ngại vô cùng lớn lao của thánh
kinh; nhưng phát kiến tích cực của ngài vẫn không đủ sức thuyết phục
nhân loại và tín đố Phật giáo chịu "quẳng thánh kinh đi..." và chỉ tu
đạo theo lối "trực chỉ chân tâm" và "kiến tánh", tức theo đạo, tu đạo
bằng chính tấm lòng trong sáng và trí khôn biết phân biệt đúng / sai,
hay/ dở của lòng mình.
Bây giờ đem vấn để "quẳng thánh kinh đi..." của Thiền Tổ Bồ Đề Đạt
Ma mà quán chiếu vào vấn đề kinh sách của các đạo thờ độc thần của Tây
phương ta thấy điều gì?
Mặc dù tính chất vô luân của kinh thánh đã hiển lộ quá hiển nhiên,
đến nỗi ngay cả các đức giáo hoàng, các hàng chức sắc cao cấp lãnh đạo
tòa thánh Vatican cũng không ai dám ra mặt phủ nhận hay biện bạch
gì. Nhưng giải quyết một vấn đề tín ngưỡng đã tồn tại trong não tủy
con người cả mấy ngàn năm không đơn giản như ta quẳng một món ăn nhiễm
độc vào thùng rác. Riêng trong quần chúng , chẳng một lực lượng thế tục
nào, dù là chính phủ dân chủ uy tín mạnh mẽ đến đâu, cũng không dám
đụng đến vấn đề cực kỳ nhạy cảm ấy. Trước một vấn đề quá phức tạp, hết
sức tế nhị và vô cùng khó khăn, đầy áp lực chết người đó, người ta chỉ
còn trông cậy vào 2 yếu tố rất tiêu cực là thời gian và sự tỉnh ngộ
của các giới tín đồ mà thôi!
Theo ta biết, qua trải nghiệm cuộc sống, các yếu tố tiêu cực thường
chỉ đem đến những hiệu quả rất phi phỏng sau một thời gian hết sức lâu
dài. Tuy nhiên, riêng vụ kinh thánh của đạo TC, ngày nay ta cảm thấy có
đôi chút phấn khởi và đáng tự tin hơn. Vì lẽ từ nửa thế kỷ gần đây,
dường như giáo hội TC đã cảm thấy điều gì bất ổn đang nổi cộm như một
cục bướu độc hại trong thánh kinh, nên họ không còn năng nổ tuyên
truyền, rôm rả rao giảng thánh kinh và áp đặt nghiệt ngã giáo luật đối
với tín đồ như xưa nữa. Thí dụ giáo hội Thiên Chúa ngày nay đã bị tách
rời khỏi lãnh vực chánh trị, giáo quyền không được phép ngang nhiên xâm
phạm, hay can thiệp vào lãnh vực thế quyền, giáo hội không còn tùy
tiện ngăn cấm triệt để các vụ: kết hôn dị giáo, phá thai, ngừa thai,
đồng tính ái ân..., không dùng tòa án giáo hình xử tội hỏa thiêu, ném
đá, đóng cọc lỗ đít mấy người đàn bà, đàn ông "đồng đạo" can tội gian
dâm cẩu hợp.Thậm chí ngày nay, bọn con chiên phạm đại tội phản chúa,
phản giáo, bôi bẩn giáo điều ghi trong kinh thánh như vậy vẫn nhởn nhơ
kéo nhau đến nhà thờ đọc kinh, rước lễ trước mặt chúa mà vẫn không hề
bị các cha cố, thay mặt chúa khuyên răn hay trừng phạt mảy may gì (lạ
thật!).Ngoài ra, các con chiên bổn đạo không còn bị buộc tội phù thủy,
báng đạo, phạm thánh, phản đạo v.v...
Trong dư luận, còn có nguồn tin cho rằng giáo hội TC đã cấm các
giới con chiên bổn đạo đọc kinh thánh và đã thu hồi các bộ kinh thánh
vô luân ấy. Nếu quả vậy, thật là điều vạn phúc cho các giáo dân?!
Trong lãnh vực tinh thần quần chúng, ta nhận thấy từ cuối thế kỷ XX
sang thế kỷ XXI, nhờ phát minh khoa học thông tin điện tử thần tốc,
trí khôn của loài người đã mau chóng mở mang bao la hơn xưa. Hãy dẫn
ngay một chứng tích vĩ đại, hùng hồn nhất: Hiện con người trên quả địa
cầu này đã thành công vẻ vang trong cuộc phóng vệ tinh lên sao Hỏa và
đang nghiên cứu khí hậu, phong thủy để tiến hành chương trình đưa con
người lên đó sinh sống. Được biết: quả đất chúng ta đang sống đây cách
xa HỏaTinh (Mars) đến 92 triệu Km. khiến hành trình thám hiểm Sao Hỏa
phải mất đến 7 tháng. (Theo tài liệu của Nasa, công bố ngày 17.4.14,
các khoa học gia về vũ trụ học phải đo bằng tốc độ " ánh sáng". Một năm
ánh sáng = 9.460 tỷ (milliards)* cây số...).
* (SH - hiệu đính,
1 năm ánh sáng = 9.46... trillions, hay 9.46...X 10
12, nghĩa là 9.46 triệu triệu. Một tỷ chỉ có 10
9 thôi)
Bởi con người đã có khả năng cướp quyền tạo hóa, đồng thời lật mặt
nạ lừa bịp của " chúa trời " trong kinh thánh, nên có thể vì vậy mà
giáo hội TC không còn dám thản nhiên đầu độc tư tưởng tín đồ bằng những
chuyện huyền thoại hoang đường ngớ ngẩn, phản khoa học nữa!
▪ Đức Tin Băng Hoại
Do đó giáo hội TC đành phải thả lỏng cho đức tin (la foi) của các
giới tín đồ tha hồ tự do bay bổng khắp không gian và vũ trụ. Như ta đã
biết, hiện nay, chẳng ai không biết tình trạng suy thoái đức tin TCG La
Ma ở Âu Mỹ đã diễn ra hết sức trầm trọng.
Khoảng 20 năm trước đây,
những buổi họp giáo dân tại nhà thờ của các giáo xứ thường đông đúc,
nay chỉ còn thưa thớt, loe ngoe vài mống già nua lụ khụ đang lê lết
trên đường tìm đến với chúa trời Yahvé hoang tưởng của họ! Tội nghiệp!
Nhưng để cho chính xác hơn, căn cứ vào con số thống kê những người
rửa tội trong năm 2.000 so với năm 1.900 đã giảm sút mất một phần ba.
Ngày xưa, dưới thời kỳ thực dân, số người cải đạo (đôi khi bị cưỡng bách
bằng võ lực) trong các nước Á Châu và Nam Mỹ Châu rất nhiều. Kể từ
khi chế độ thực dân đã cáo chung, con số tín đồ tân tòng cũng giảm
thiểu trầm trọng. Bây giờ, tính chung tín đồ TCG La Mã trên thế giới có
khoảng trên 1 tỷ người, và Tin Lành có khoảng nửa tỷ. Sa sút thảm hại
nhất có lẽ là phái Chính Thống (Orthodoxe) ở Đông Âu và Nga Sô. Khoảng
năm 1.900, trong số 5 người dân có một tín đồ Chính Thống Giáo. Bây
giờ con số tụt mất phân nửa. Trong 10 người dân mới có 1 người theo
Chính Thống Giáo. Trước năm 1939, bốn nước TCG hàng đầu ở Âu Châu gồm :
Đức, Ý Đại Lợi, Pháp và Tây Ban Nha. Ngày nay những nước TCG đứng hàng
đầu là: Ba Tây (Brésil), Mễ Tây Cơ, Hoa Kỳ, và Phi Luật Tân. Ngày xưa,
nước Pháp vốn được tôn xưng là ”trưởng nữ” của giáo hội TCG La Mã nay
đã bị tụt xuống hàng thứ 6, đứng sau nước Ý (hàng thứ 5). Về phía đạo
Tin Lành, sau Anh, Mỹ là đến nước Nigéria, và cộng đồng dân da đen ,
thuộc các chủng tộc Phi châu, gốc nô lệ đã bị cưỡng bách theo đạo của
đế quốc thực dân Anh...
Nhận định về đức tin TCG, ta thấy nữ sĩ Mme de Maintenon đã viết:” Ở
các tỉnh, tín đồ Thiên Chúa không còn nữa!”. Thực sự , ngày nay các
giáo đường TCG ở vùng quê đều vắng tanh chẳng khác gì những cái giếng
khô giữa sa mạc. Hơn nữa , công chúa Palatine còn nói thêm :” Niềm tin
đã tắt!” (La foi est éteinte)! Mới đây (2014), theo một thống kê về
đức tin TC tại Pháp, người ta không khỏi ngạc nhiên nhận thấy: Trong 2
người Pháp đã có hơn 1 người tự nhận mình vô tín ngưỡng!
Trong tác phẩm ”Pensées détachées”, văn hào Bossuet, thời vua Louis
XIV, đã từng nói:” Người ta coi Thượng Đế như chẳng có ” (On compte
Dieu pour rien).
Niềm tin đã mất, số lượng tín đồ sa sút, nhưng trong mấy năm gần
đây, hành động phạm pháp, đặc biệt là tội ”pédophilie” (gian dâm cẩu
hợp với trẻ con trong giáo phận) của giới tu sĩ TCG Âu, Mỹ đã làm sứt mẻ
rất nhiều uy tín tôn giáo, đồng thời gây thiệt hại rất lớn lao cho
ngân sách của tòa thánh Vatican. Theo tin tức truyền thông và dựa trên
hồ sơ tòa án, báo New York Times cho biết, tính đến ngày 31. 12.
2002, đã có 4.268 nạn nhân tuyên bố hay đã nạp hồ sơ kiện các tu sĩ TCG
can tội lạm dụng tình dục trong 6 thập niên qua. Kết quả cuộc khảo sát
này cho thấy: trong đó có 1,205 linh mục (tức 1,8% tu sĩ được phong
linh mục từ năm 1950 đến năm 2001) đã bị tố giác tội lạm dụng tình
dục. Trong số đó, nhiều người được thụ phong trong khoảng các năm 1950
và 1970. Nhưng các vụ phạm pháp này đã xảy ra nhiều nhất trong 2 thập
niên 70 và 80. Trong số có khoảng 50% linh mục bị tố cáo đã làm tình từ
1 đến 4 thiếu niên, và 16% đã làm tình từ 5 trẻ trai trở lên...!
Mới đây nhất, hiện còn đang nóng hổi, trong khoảng thời gian từ
những ngày 4-8 tháng 6. 2014, trên mặt truyền thông, báo chí, truyền
thanh truyền hình Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan đã khui vụ mồ hoang tập thể
của 800 cô nhi vô thừa nhận trong khuôn viên của Nữ Tu Viện " THE TUAM
HOME" thuộc quận Galway County ở Ái Nhĩ Lan (Irland) (theo con số kiểm
điểm của địa phương, trong nấm mồ chôn tập thể vĩ đại ấy, người ta chỉ
tìm thấy có 796 hài cốt trẻ sơ sinh, từ mới đẻ ra được 2 ngày cho đến 9
năm tuổi là nhiều nhất, nên đã gây chấn động dư luận quần chúng khắp
Âu châu, nhất là các giới tín đồ, con chiên bổn đạo thuần thành của
Thiên Chúa Giáo!
Nên biết: Nữ Tu Viện Tuam Home vốn là một trong tồng số 10 nữ tu
viện lớn đã do các nữ tu đồng trinh, độc thân của giáo hội Thiên Chúa
Ái Nhĩ Lan, thuộc tổ chức" Bon Secours Nuns" điều hành quản trị từ năm
1925 đến 1961, chuyên môn quyên tiền từ thiện của bá tánh để nuôi trẻ mồ
côi, con hoang vô thừa nhận và cũng là nơi tạm trú của trên 35.000 phụ
nữ chửa hoang ( unmarried pregnant women) - còn gọi là " những người
đàn bà con gái sa ngã" ( fallen women) - ...Nhưng thời gian sau này có
nhiều dư luận tại địa phương cho rằng phần đông trẻ con vô thừa nhận
của tổ chức này toàn là con chửa hoang của các " ma sơ" (ma soeur) đồng
trinh (sic!) và các giới cha cố phạm giới lén lút tạo tác nên, nhưng
không đăng ký sổ bộ khai sinh của thị xã hoặc khai báo với giáo hội.
Trước vụ này, tổng giám mục Diarmuid Martin, cai quản địa phận
Dublin, một khuôn mặt nổi trội trong hàng giáo phẩm của giáo hội TCG Ái
Nhĩ Lan, đã phải lên tiếng:"...cần phải mở cuộc tra cứu toàn
bộ...". Vì tất cả những vụ chôn cất chung hàng mấy trăm hài nhi vào một
nấm mộ hoang không cả mộ bia trong nghĩa địa riêng của Nữ Tu Viện "
TUAM HOME" đều không ghi bất cứ một chi tiết nào về tên tuổi, ngày giờ
và nguyên nhân tử vong của từng đứa trẻ đã qua đời. Đặc biệt kỳ dị là
chính đức tổng giám mục của nước cộng hòa Ái Nhĩ Lan cũng phải tỏ ý vô
cùng kinh ngạc về ngôi mộ hoang tập thể lớn lao ghê gớm ấy. Riêng giám
mục Michael Neary, người đứng đầu địa phận, nơi gồm có Nữ Tu Viện TUAM
HOME cũng không khỏi thốt ra câu:" Tôi hết sức kinh ngạc, như mọi
người, khi được biết về tổng số khủng khiếp trẻ em tử vong đã chôn
trong nghĩa địa ở TUAM!".... ( Trích lược tin của BBC từ 4 -
8.6.14).
Trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua, giới tu sĩ TCG thường
vẫn phải đối phó với nạn thặng dư nhân sự hơn là thiếu hụt. Thời cổ
đại, trong đền thờ Amon ở Karnak đã có đến 81.322 tu sĩ. Để thoát khỏi
tệ nạn tu sĩ toàn quyền năng ở Thèbes, quốc vương Aménophis IV đã phải
chọn tín ngưỡng Aton, thờ độc thần. Thuở sinh tiền chúa Jésus, lúc đó
đền Jérusalem cũng đã có từ 12.000 đến 15.000 đạo sĩ, cộng thêm bọn
thầy tu giòng Lévite Do Thái, chuyên làm việc tế tự trong giáo đường.
Để chống lại những hành vi nhũng lạm của bọn tu sĩ cha truyền con nối
và chuyện buôn thần bán thánh, Jésus đã muốn triệt hạ ngôi đền và đuổi
cổ hết bọn buôn bán, gây ô uế , ra khỏi nơi thờ tự thanh khiết. Nhưng,
hỡi ôi, sự việc bất thành, ngài đành chịu đóng đinh trên cây thập tự
giá!
Nếu khi nào luật độc thân được bãi bỏ, và tu sĩ trở thành như một
nghề kiếm cơm như nghề luật sư, bác sĩ...và được hưởng quyền kế nghiệp,
cha truyền con nối, hay mẹ (làm linh mục, mục sư) truyền nghề cho con
gái v.v... được giáo hội thừa nhận, có lẽ lúc đó số tu sĩ có thể gia
tăng nhiều hơn, và các trường dòng của giáo hội sẽ bị tràn ngập học
sinh.Trong trường hợp này, nếu được phần lượng sẽ mất phần phẩm. Nhưng
dù sao, trước nạn khan hiếm tu sĩ trầm trọng khắp nơi, giáo hội đành
phải nhắm mắt chấp nhận hy sinh cái phẩm để lấy lượng. Hiện tượng đặc
biệt nhất là ngày nay giáo hội TC đã không dám sa thải một linh mục
phạm tội ấu dâm nào, mà chỉ loay hoay hoán chuyển những phạm nhân ấy
vòng vòng từ giáo phận nay sang giáo phận khác mà thôi! Những chỉ dấu
trên đây đã hé lộ cho ta thấy: Chẳng còn bao lâu nữa tôn giáo sẽ trở
thành cái vỏ dừa rỗng ruột, tức nhà thờ và giáo hội vẫn tồn tại như
xưa, nhưng đức tin Thiên Chúa đã tan biến mất như một vũng nước bốc hơi
và các giáo sĩ chỉ còn trơ lại như một thứ ký sinh trùng xã hội, hành
động vô tích sự, sống vô sản xuất. Thực trạng này hiện nay đã và đang
diễn ra tại Do Thái, ngay trong ruột gan của đạo Du Già, phái chính
thống, cuống rốn của đạo Thiên Chúa. Từ xưa, đám tu sĩ Rabbins đạo Du
Già chính thống của Do Thái vốn được hưởng toàn quyền đặc miễn trong
mọi lãnh vực, từ gia đình ra ngoài xã hội chỉ vì lý do tu học. Mọi thứ
gánh nặng trong gia đình, làm việc kiếm tiền, nuôi nấng, dạy dỗ con
cái...đều do người vợ phải đảm trách. Hồi đầu năm nay (2014), chính
phủ Do Thái nhận thấy có sự bất công trong nghĩa vụ quân sự, đã ban
hành luật mới, động viên tất cả các giới tu sĩ đạo Du Già chính
thống. Lập tức những kẻ "tu hành" (sic!) này liền dùng chiêu bài tôn
giáo, vịn cớ tu học, phản đối mạnh mẽ, kêu gọi nhau xuống đường chống
chính phủ lung tung! Hành động như thế, các tu sĩ Do Thái Du Già chính
thống đã nói lên điều gì? Đó là cái vỏ tôn giáo thờ đức chúa trời đã
rỗng ruột, tức một thứ tôn giáo đã KHÔNG CÒN ĐỨC TIN NỮA, mà chỉ là một
thứ hang ổ tập họp những người hoàn toàn vô trách nhiệm, lười biếng,
suốt đời chuyên ăn hại đái nát! Hơn nữa, sự kiện ấy còn cáo giác thêm
một sự thật rất ê chề và vô cùng cay đắng là bọn tu sĩ hàng mấy ngàn
năm qua đã chỉ mượn danh tôn giáo để trục lợi, hưởng nhàn và
làm..."cha" thiên hạ!
▪ Tôn Giáo Và Vô Tôn Giáo Khác Gì Nhau?
Trước khối tín đồ ngày nay đã trở nên văn minh, sáng suốt hơn và
đức tin đã bị phá sản đến cùng cực và đang âm thầm tan rã từng mảng lớn
như mấy tảng băng bị ánh nắng mặt trời nung đốt, khiến các vị giáo
hoàng TC không còn tự coi mình là bậc siêu nhân quán thế " KHÔNG LẦM
LỖI" (infaillibilité).
* Nên nhớ : Từ thế kỷ XI, các giáo hoàng TC La Mã đã được
hưởng quyền thế tục" KHÔNG LẦM LỖI" (infaillibilité). Nhưng đó chỉ là
một cái vỏ che đậy bên ngoài, sự thực của lịch sử đã chứng minh rất
nhiều ông giáo hoàng đã vô cùng lầm lỗi và rất vô luân. Điển hình đáng
kể nhất trong thời cận đại của chúng ta, khoảng các thập niên 1930-40,
tức thời kỳ đệ nhị thế chiến với Đức Quốc Xã, giáo hoàng Pie XII, đã
trở nên một thứ chính trị gia Machiavel tân thời đã công khai hợp tác
với tập đoàn Nazis (Đức Quốc Xã) đến mức nổi danh với biệt hiệu là "
Giáo Hoàng của Hitler" (Pape de Hitler). Tuy giáo hoàng Pie XII đã
không trực tiếp xả súng đại liên giết người hàng loạt bên những hố tử
thần đã đào sẵn như mấy tên lính Quốc Xã hay những tay đệ tử trung
thành, tín đồ TC ngoan đạo của ngài như những tên Ante Pavelic, lãnh tụ
dân Croate theo đạo TC cùng với đồng bọn của hắn là bọn "Oustachics"
(cái tên này do Pavelic đặt cho, nó bắt nguồn bởi động từ "Outati",
nghĩa là : vùng lên! ). Nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp và nôn nả,
hăng say đôn đốc của giáo hoàng Pie XII chỉ trong vòng có 4 năm, từ
1941-45, bọn chúng đã tắm trong biển máu của hàng triệu dân Serbes tín
đồ Chính Thống Giáo, dân Do Thái, và dân Bohemiens, Tziganes v.v...(tác
phẩm: Le Pape et Hitler,l'Histoire secrète de Pie XII, của John
Cornwell, nxb Le Club).
Chính vì thế mà sau này giáo hoàng Jean Paul II, gốc dân Ba Lan, đã
phải công khai lên tiếng " xin lỗi" toàn thể tín đồ và nhân loại về
các đại ác tội trong quá khứ của đạo TC. Kế đến, đức giáo hoàng
Benedict XVI phải thoái vị, vì các tội lỗi ô uế, bẩn thỉu của các giới
lãnh đạo tinh thần con chiên khắp nơi trên thế giới. Đây là một biến cố
độc nhất vô nhị trong lịch sử hàng ngàn năm của giáo hội TC La Mã. Gần
đây nhất, mới vài ngày nay (đầu tháng 4. 2014) vị đương kim giáo hoàng
Francis đã phải dùng đài phát thánh của giáo hội "Vatican Radio" kêu
gọi các cộng đồng giáo dân khắp thế giới hãy tha thứ cho các tu sĩ phạm
tội gian dâm cẩu hợp với trẻ con...Sự kiện này hiển nhiên đã chứng
minh niềm tin của giáo dân đối với giáo hội Thiên Chúa đang trên đà sa
sút nghiêm trọng! Tại sao ông không cầu xin đức chúa trời cha và con
tha thứ cho những kẻ chăn chiên phạm tội ô uế ấy?! Cầu nguyện như thế
ông giáo hoàng vừa khỏi mắc tội " truất quyền " của đức chúa trời lại
còn thêm hợp tình hợp lý, theo đúng hệ thống thứ bâc giáo quyền theo
mẫu hình Kim Tự Tháp.
Mặt khác,theo tôi, giáo hoàng Francis công khai ngỏ lời xin tha tội
cho các tu sĩ TCG phạm đại tội hình sự như vậy còn tỏ ra bất công và
bất minh. Rõ ràng ông muốn bao che cho các can phạm đồng đạo của ông.
Đặc biệt nhất là ông đã cố tình mưu dùng giáo quyền để trấn áp thế
quyền.Tại sao ông không ra lịnh" rút phép thông công" ngay lập tức đám
tu sĩ gây nhơ bẩn cho đạo, làm tan vỡ niềm tin trong quần chúng tín
đồ? Tại sao ông không để cho nhà cầm quyền sở tại điều tra vụ án, lập
hồ sơ truy tố công khai bọn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, vi phạm luật
đời, xâm hại ấu nhi? Ông nên nhớ rằng: Những kẻ phàm nhân, nếu phạm các
tội ấy sẽ phải đền tội nhục hình rất nặng nề đến mãn kiếp trong ngục
thất!
Tôi mong đợi được ông giáo hoàng hay một vị đại diện nào đó của tòa thánh Vatican chỉ giáo. Xin đa tạ trước!
Với tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng hoàn toàn trong sáng và
lòng chân thật không thay đổi, với sách này, tôi chẳng có ý khen chê
tôn giáo nào mà chỉ nói lên một sự thật rất cụ thể, rất dễ kiểm chứng
vốn đã tích lũy trong kinh thánh Du Già, TC giáo từ nhiều ngàn năm
qua. Dù cho đọc xong sách này, ai đó vẫn cứ tiếp tục phụng thờ tôn
giáo, cứ tiếp tục tin nơi thần linh, thánh chúa của mình, hoặc trở nên
vô thần...cũng chẳng sao, chẳng ảnh hưởng mảy may nào đến xã hội, miễn
là cá nhân đó, trước tiên phải
" tự biết mình trước khi biết đến tôn giáo và chúa trời..." đúng theo lời dạy của thánh triết Hy Lạp Socrate!
Theo tôi nhận định: Một tín đồ tuyên xưng mộ đạo, mang danh nghĩa
tôn giáo toàn tòng mà chẳng biết tí gì về tôn giáo và đức chúa trời của
mình (đã ghi rõ trong thánh kinh), nếu so với một kẻ vô tín ngưỡng, hay
vô thần, cả đời không đọc một chữ thánh kinh, không tin trời, không
tin thiên đàng hay địa ngục gì ráo trọi, cả 2 kẻ ấy đều như nhau!
▪ Tôn Giáo, Một Nhu Cầu?
Vì bị nhồi sọ cưỡng bách bằng lối tuyên truyền lừa gạt và hù dọa
trắng trợn từ các đời cha ông đến tận ngày nay, nên nhiều người đã
quan niệm hết sức sai lầm, cho rằng " tôn giáo là một nhu cầu". Vậy,
nhu cầu tôn giáo là gì? Theo định nghĩa của từ điển Le Robert":" Một
nhu cầu là một đòi hỏi phát sinh từ thiên nhiên hay do đời sống xã
hội" (Un besoin est une exigence née de la nature ou de la vie
sociale)". Thí dụ: nhu cầu về mặt thiên nhiên là: " tứ khoái", gồm :
ăn, ngủ, đ..., ỉa"! Con người mà không có nhu cầu " tứ khoái", không ăn
uống, không ngủ, không giao hợp được, bị táo bón đến mức không đi ỉa
được...nhất định 100% , vài ngày sau sẽ chết toi ngay! Ngược lại, từ
thuở khai thiên lập địa đến nay, chưa một kẻ nào đã bị chết vì..."VÔ
TÍN NGƯỠNG" hết thảy. Vậy, tại sao lại dám gán bậy cho là ...nhu cầu tự
nhiên?!
Còn tôn giáo là gì? Chẳng qua nó chỉ là một hình thức tụ họp nhiều
người như các tổ chức hội đoàn nghề nghiệp, hiệp hội ái hữu, băng đảng,
bầy đàn, bè nhóm linh tinh... tùy sở thích của mỗi cá nhân, chẳng
khác nào một thứ đồ trang sức xe xua có tính cách phô trương màu mè, cho
một cá nhân.
Với khái niệm ấy, chúng ta hãy nhìn chung quanh một
lượt, rồi xét xem từ cổ chí kim đã có kẻ nào đã bị chết toi vì chứng
tật " vô tôn giáo" không? Ngoài ra, những người có tôn giáo với
những người vô tôn giáo có gì khác nhau không? Hơn thế, trong giới con
chiên ngoan đạo trên cõi thế gian này đã có ai dám công khai tự phán
câu kinh Phúc Âm sau đây:" Ta tốt đẹp hơn những kẻ khác!"(Je suis
meilleur que les autres!) (Luc. 18,9) hay không ?!
Tóm lại, ta có thể khẳng định dứt khoát:
Tôn giáo hoàn toàn không phải là một nhu cầu, Có cũng được,
không càng tốt hơn, miễn đừng đánh mất đức tin!
Đức tin tôi nói đây không phải là thứ tín ngưỡng một đấng thần linh,
một ông trời độc nhất nào đó do tôn giáo nhồi sọ. Vì hàng tỷ người đã
tín ngưỡng, cầu xin ông trời liên tục suốt ngày đêm hàng mấy ngàn năm
qua mà chẳng hề một ai được thấy ông ta đáp ứng dù chỉ trong nháy mắt!
Đức
tin mà tôi đề cập nơi đây hoàn toàn không thể thiếu và thuộc về thiên
bẩm cá nhân, ví như bánh lái con tàu lênh đênh trên sóng cả, phong ba
bão táp của đại dương.
▪ Ông Trời: Một Bịa Đặt Độc Hại Ghê Gớm Của Tôn Giáo
Khi luận về tôn giáo và tín ngưỡng " ông trời", tôi nhận thấy trước
đây không xa, nhiều nhà bác học đại tài và các bậc thánh triết lừng
danh trong thiên hạ, như: Lumière (thế kỷ XVIII), cùng với Descartes,
Pascal, Newton, Leibniz...đều đặt kỳ vọng vào một tôn giáo tự nhiên
(religion naturelle), không có tu sĩ và hoàn toàn độc lập trước mọi thể
chế. Điều ấy cũng là ước mơ của văn hào Voltaire về " un dieu sans
église" một ông trời không giáo hội, không nhà thờ. Vì nhà thờ chỉ là
chỉ là nơi tụ tập bọn gian ác, sảo trá, thông đồng lường gạt kẻ ngây
thơ, tượng trưng là đám râu tóc bờm xờm học vấn lem nhem (barbu hirsute
et inculte). Riêng các khoa học gia đều là những người có khả năng
cướp quyền tạo hóa, đồng thời có công phá tan mọi thứ huyền bí dị đoan
về ông trời, tức kẻ thù đã " lột mặt nạ " của tôn giáo!
Nhưng, sở dĩ cho đến nay tôn giáo và ông trời ba xạo vẫn còn tồn
tại, vẫn còn tiếp tục múa may quay cuồng trên sân khấu mê tín dị đoan,
vì có người còn cho rằng khoa học không đủ khả năng đoàn kết tinh thần
quần chúng trong một xã hội. Những bộ óc bã đậu ấy đã bị tôn giáo nhồi
sọ đậm đen rồi, nên họ không biết rằng: Con người không thể nào đòi hỏi
toán học ( mathématique) thỏa mãn sự liên kết chặt chẽ và tạo sinh
động chung cho cả một tập thể trong một tổ chức. Điều này thuộc về tâm
linh và tình cảm. Dù là một nhà thông thái trong lãnh vực khoa học,
nhưng nhà thông thái ấy vẫn có thể bị đau khổ, tâm hồn dằn vật, khi ông
ta bị mất phương hướng tâm linh. Trong khi ngược lại, một kẻ ngu si,
đần độn cứ nhất thiết thủ cứng phương hướng tâm linh, tin chắc mẻm
100%: Sau khi chết nó sẽ được mấy anh mắt xanh, mũi lõ, rặm râu, sâu
mắt, tóc bờm xờm cứu rỗi, tiến dẫn lên thiên đàng với chúa trời, nên nó
vẫn cứ vô tư như gỗ đá.
Vả chăng, như ta từng thấy biết, tinh thần (spiritualité) vốn không
đủ để tạo nên một tôn giáo; và một tôn giáo cũng không đủ khả năng tạo
nên ông trời như thứ ông trời độc thần (Dieu monothéistique) của các
đạo Du Già-Thiên Chúa (Judéo-Chrétien)và đạo Hồi. Chưa đủ! Ông trời cô
độc ấy cần phải tương quan mật thiết với tinh thần của con người như
mối tương quan hiện hữu giữa một thể lỏng (liquide) với một tinh thể cô
đọng (cristalisé). Tinh thần vốn giao động (vì thuộc thể lỏng), còn
ông trời là một tinh thể cô đọng, nên không thể nào xóa bỏ được cũng
như bom nguyên tử. Với nhận thức này, tôi tin nơi câu của Esaie đã nói
với dân Do Thái:" Nếu ngươi không tin, ngươi sẽ không tồn tại" (Si vous
ne croyez pas, vous ne subsisterez pas)!
Có một số người còn coi ông trời như một nhà tổ chức tập thể ngoại
hạng, khi một xã hội bị tan vỡ (désorganise), bị phân hóa li ti
(s'atomiser) hay tương phản lủng củng (s'opposer), khiến niềm tin của
tập thể bị suy yếu, tinh thần (thể lỏng) giao động, rối loạn.Trong
trường hợp này ta cần một vật thể cô đọng thành khối như một " ông
trời". Riêng về tôn giáo, sự liên kết yếu kém. Nó không thể nào hàn gắn
dính chặt kẻ nọ với người kia được. Một số người khác còn kể đến sự
liên kết bằng yếu tố "tổ quốc", với tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ
quốc. Nhưng, bây giờ, liệu người ta còn chịu chết cho tổ quốc nữa hay
không?
* Nên biết: Lòng yêu tổ quốc bây giờ là lòng yêu đồng
Dollars và đồng Euros là cuộc sống no đủ của đàn chim thiên di. Sự sai
lầm lớn lao nhất của chủ thuyết giải thoát (Libéralisme) ngày nay là
không biết đến công thức của Danton:"Ta chỉ hủy hoại cái gì mà ta thay
thế!" (On ne détruit que ce que l'on remplace).
*Nên biết: Thị trường Mỹ hàng mấy trăm năm nay vững mạnh nhất
hoàn cầu vì nó đã biết đem đồng Dollars lên hàng thần tượng để tôn thờ
thay cho ông trời vô tích sự. Đó là chìa khóa của đức tin của tinh thần
nước Mỹ! (Chú ý: Trên tờ 1 Dollar của Mỹ có in hàng chữ : IN GOD WE
TRUST! Vậy, rõ ràng, đối với Mỹ, ông trời trên thực tế chỉ là đồng...1
DOLLARS mà thôi!
Gần đây, giới trung lưu Mỹ đã hè nhau chống lại giáo dục Mỹ, vì đem
dạy thuyết sáng tạo (Créationnisme) trong các trường học, vì họ sợ đầu
óc trẻ con sớm bị lú lẫn, cùn mòn, chểnh mảng về khoa học. Dân tộc Mỹ
vốn đứng đầu thế giới trên lãnh vực khoa học, nên họ luôn luôn sùng
bái thời kỳ " Lumière" với các nhà thông thái siêu việt của nhân loại.
Từ thế kỷ XVIII, các nhà thông thái siêu đẳng về khoa học của nhân loại
đã khẳng định dứt khoát: TIN VÀO ÔNG TRỜI LÀ NHỮNG KẺ MẮC BỊNH THIỂU
NĂNG TINH THẦN (arriération), hay còn gọi là " chậm hiểu, lạc hậu"...
VÀ LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA LÒNG HỜN GHEN, THÙ HẬN.
Trong cuộc chiến Trung-Đông ta thường nghe nhiều người nói:" Tất cả
đều do lỗi của ông trời. Chúng ta hãy loại bỏ hắn đi, chúng ta sẽ
không còn chiến tranh...!" Dù kêu gọi ồn ào như thế, nhưng tôi thiển
nghĩ: Ông trời vẫn còn nhiều cơ hội tồn tại. Bởi thánh kinh vô luân còn
đó, giáo hội còn đó và các hàng cha cố, các Rabbins Do Thái còn đó,
các Imams Hồi giáo một thứ cán bộ tuyên truyền thánh kinh vô luân vẫn
còn đó!
Vậy, tốt hơn hết, ta nên tin nơi TA, nơi con người hơn là tin nơi ..." ông trời"!
Kể từ thế kỷ XVIII, theo ta, thay vì mỗi khi mở miệng người ta kêu
trời, hoặc nói :" trời bảo, trời dạy, trời phán", thì nên nói ngược lại
là: Khoa học dạy, khoa học chứng minh. Nhất là khi muốn cầu xin điều
gì, thực tế nhất, chắc ăn nhất và linh nghiệm cấp kỳ trong nháy mắt, ta
hãy cứ vái lậy, cầu nguyện "ông trời Dollars", chắc chắn sẽ tọai
nguyện tức khắc. Muốn thấu đáo hơn, xin tìm đọc tác phẩm của Sylvette
Denèfle," Et l'homme créa les Dieux. Comment expliquer la religion" (
Robert Laffont).
▪ Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Tôn Giáo
Như mọi người đều biết, đạo Thiên Chúa từng công khai minh xác
thánh kinh là bộ thánh thư đã ghi chép trung thực những lời khải truyền
trực tiếp của đức chúa trời Yahvé dành cho thánh Moise, để Moise phổ
biến trong quần chúng Do Thái, một chủng tộc ưu tuyển, biệt đãi của chúa
trời.
Bây giờ, khi đem toàn bộ thánh kinh, Cựu Ước và Tân Ước lên
bàn mổ, ta bất chợt khám phá ra toàn những ung nhọt tinh thần cực kỳ
độc hại. Những chuyện kể về đức chúa trời gian ác, khát máu... để
làm gương, những lời rao giảng khải truyền phản thiên nhiên, nghịch
luân thường đạo lý, đẫm máu tanh hôi, tràn ngập từ trang đầu đến trang
cuối thánh kinh, ta không khỏi giật mình kinh hoảng, đầu óc quay cuồng
toàn ác mộng.Trong cơn mộng mị hãi hùng ấy, ta không khỏi liên cảm đến
đại thảm họa tinh thần đối với các thế hệ con cháu thơ dại của ta.
Nếu vô phúc, chúng nó đọc phải bộ kinh thánh vô luân, hãi hùng như thế, thì đời sống tâm linh của chúng nó sẽ ra sao nhỉ?! Thật là khiếp đảm!
Tóm lại, khi thánh kinh đã khải truyền lời dạy vô luân của đức chúa
trời, thì cái tôn giáo chuyên chở bộ thánh kinh ấy cũng không sao
tránh khỏi liên đới trách nhiệm vô luân. Một tôn giáo thờ đức chúa trời
vô luân, sản xuất ra kinh thánh vô luân tất nhiên giáo hội ấy cũng chỉ
là một tập họp vô luân. Một giáo hội vô luân, tức các hàng giáo sĩ đã
được giáo hội ấy đào tạo và nuôi dưỡng làm cách nào tránh khỏi vô luân
cho được
?!...Đó là một chuỗi lý luận rất " logique" rất biện chứng, vì nó liền lĩ như một sợi giây xích đúc bằng gang thép.
Đến đây, tôi cảm thấy cần được nghe các bậc cao minh viễn kiến
trong giới giáo sĩ Thiên Chúa cao cấp VN rộng lòng chỉ giáo. Tôi đã rửa
sạch tai để lắng nghe...Đa tạ!
Tác giả cẩn chí,
ĐẶNG VĂN NHÂM (Đan quốc 25.8.14)
Nguồn: Diexn đàn thư tín