ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG TRÀO PHỤC HƯNG
ISLAM GIÁO
ThS. Nguyễn Bình
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
Đến thế kỉ XVIII, thế giới Islam giáo đã mất đi vầng hào quang của những thời đại hoàng kim trước đó.
Đến thế kỉ XVIII, thế giới Islam giáo đã mất đi vầng hào quang của những thời đại hoàng kim trước đó. Đế quốc
Ottoman, trung tâm thống trị của thế giới Islam giáo khi đó, do chính
trị suy vi, kinh tế đình đốn, đã thất bại liên tiếp trong các cuộc chiến
tranh với bên ngoài và bất lực trước sự tan rã của chính quyền các cấp.
Xyri, Irắc, Ai Cập,... trở thành các lãnh địa độc lập hoặc bán độc lập
của các lãnh chúa phong kiến. Từ giữa thế kỉ XVIII trở đi, Đế quốc
Ottoman rơi vào tình trạng suy sụp. ở Iran, vương triều Safavi bị vương
triều Khar thay thế, và đến đầu thế kỉ XIX, trở thành đối tượng tranh
giành của các nước Nga, Anh, Pháp. ở ấn Độ, thực dân Anh lợi dụng sự tan
rã của vương triều Moghul để xâm chiếm đất đai ấn Độ.
Năm
1798, để giành quyền kiểm soát tuyến đường thương mại quan trọng đi
sang ấn Độ với Anh, Napoleon đưa quân đổ bộ lên cảng Alexandria, xâm
nhập Ai Cập, mở đầu cuộc chinh phục bằng vũ trang của các nước thực dân
phương Tây đối với các quốc gia Islam giáo. Cũng bắt đầu từ đây mở ra
thời kì đấu tranh trong lịch sử cận đại của nhân dân các nước Islam giáo
chống lại thực dân phương Tây. Từ giữa thế kỉ XIX, thế giới Islam giáo từ Marốc ở phía tây tới Indonesia ở
phía đông lần lượt bị các nước tư bản phương Tây xâm lược, chia cắt và
nô dịch. Ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan và Arập Xêút, tất cả
các quốc gia Islam giáo khác đều có một thời nằm dưới sự cai trị của
thực dân. Thậm chí những quốc gia kể trên không nằm trong chế độ thuộc
địa thì cũng không tránh khỏi bóng tối của chủ nghĩa thực dân: Arập
Xêút, Iran, Afghanistan là những nước bị bảo hộ, nếu không cũng phải có
sự nhượng bộ đáng kể về chủ quyền với người Anh hoặc người Nga; Thổ Nhĩ
Kỳ - thủ phủ của Đế quốc Ottoman - có mối quan hệ mật thiết với các
cường quốc Tây Âu qua các vùng lãnh thổ ở Đông Âu và Bắc Phi vẫn phải
nhẫn nhịn với các cường quốc đó trong suốt thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
Dưới
sự xâm nhập và thống trị của các thế lực thực dân phương Tây, cơ sở
chính trị kinh tế và văn hóa tư tưởng của xã hội Islam giáo bị thách
thức và lung lay. Người bảo hộ về danh nghĩa của cộng đồng Islam giáo -
Đế quốc Ottoman, không những không có sức chống lại các cường quốc
phương Tây mà bản thân nó cũng lâm vào tình trạng tan rã. Sự xâm nhập và
thống trị của các cường quốc làm cho thế giới Islam giáo lâm vào tình
trạng khủng hoảng xã hội, chính trị chưa từng có, đồng thời cũng dẫn tới khủng hoảng về tôn giáo và tinh thần.
Những
tác động của phương Tây đối với Islam giáo có thể được tính từ thời
điểm đầu thế kỉ XIX khi Napoleon tiến quân vào Ai Cập nhằm cắt đứt con
đường thương mại của Anh tới ấn Độ. Nhưng sự can thiệp và tác động của
phương Tây đạt Đến đỉnh điểm ở nửa đầu thế kỉ XX khi Anh và Pháp giành
được một loạt các vùng đất ủy trị hoặc bảo hộ ở Trung Đông sau Thế chiến
thứ Nhất. Điều này có nghĩa rằng, hầu hết lãnh thổ Bắc Phi, Trung Đông
và ấn Độ nằm dưới quyền cai trị của các cường quốc Châu Âu. Nhiều tín đồ
Islam giáo (dưới đây gọi là người Muslim) không thể lí giải nổi quyền
bá chủ của phương Tây trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội,
bởi vì đó là lần đầu tiên trong lịch sử Islam giáo, đại đa số người
Muslim không có quyền điều hành các công việc của riêng họ (trừ một giai
đoạn ngắn ở thế kỉ XIII khi người Mông
Cổ xâm chiếm Trung Đông). Người Muslim tự hỏi làm thế nào để lấy lại
sức mạnh và uy thế mà họ đã có được dưới các vương triều như vương triều
Moghul ở ấn Độ (1526 - 1858), hoặc vương triều Safavi ở Iran (1501 -
1738). Vấn đề này, đến nay, vẫn còn giá trị thời sự, và có một số quan
điểm Islam giáo đương đại vẫn bộc lộ sự phản ứng với phương Tây và quá
trình hiện đại hóa.
Từ
nửa sau thế kỉ XIX, một số trào lưu tư tưởng xã hội có tính tôn giáo
bắt đầu nổi lên trong thế giới Islam giáo. Các trào lưu này do các tinh
anh tri thức trong tín đồ Islam giáo khởi xướng sau khi đã trải qua ách
thống trị của những kẻ thực dân Châu Âu đối với các nước Islam giáo. Họ
cảm nhận được sự thách đố mạnh mẽ cũng như những nguy cơ đe dọa sự sinh
tồn của Islam giáo từ ưu thế vượt trội của phương Tây về khoa học kĩ
thuật, thực lực kinh tế và kĩ thuật quân sự. Chủ nghĩa chính thống (Fundamentalism), chủ nghĩa hiện đại (Modernism) và chủ nghĩa truyền thống (Traditionalism)
là những trào lưu tư tưởng xã hội chủ yếu nhằm phục hưng Islam giáo
trong bối cảnh thế giới hiện đại, nhưng mỗi trào lưu thực hiện mục tiêu
đó bằng những biện pháp khác nhau.
Để
đơn giản hóa vấn đề và để nhận biết rõ hơn về Islam giáo đương đại, cần
phân biệt ba trào lưu phục hưng Islam giáo nói trên, mặc dù cũng cần
phải lưu ý, ranh giới giữa các nhóm không thật sự rõ ràng vì thành viên
của các nhóm có thể có cùng một số đặc điểm.
Chủ nghĩa chính thống Islam giáo
Cuối thế kỉ XX, chủ nghĩa chính thống Islam giáo được các phương tiện thông tin và các nhà chính trị nhắc tới rất nhiều để gắn cho các nhóm Islam giáo khác nhau. Hiện nay, thuật ngữ “chủ nghĩa chính thống” cũng vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng(1). Nhiều học giả cố gắng phân tách hiện tượng chủ nghĩa chính thống Islam giáo. Trong cuốn Sự thống nhất và đa dạng trong chủ nghĩa chính thống, Arjomand
S. A. cho rằng, khẳng định tính bất biến của kinh thánh Islam giáo là
đặc điểm chung của các phong trào theo chủ nghĩa chính thống; hoặc chủ
nghĩa chính thống thường được đặc điểm hóa bằng mục đích thi hành những
hình phạt hudud(2), mặc dù chi tiết chính xác những hình phạt ấy như thế nào không
được đề cập trong kinh Koran; một điểm yếu khác của cách lập luận này
được dẫn chứng bằng quan điểm của Mawdudi - người ủng hộ việc thành lập
một nhà nước thần quyền ở Pakistan, phản đối việc thực hiện hình phạt
chặt tay những tên trộm trong mô hình nhà nước Islam giáo lí tưởng của
ông. Chỉ ra nguyên nhân nảy sinh chủ nghĩa chính thống là việc rất khó
khăn vì ở mỗi quốc gia khác nhau lại có những nguyên nhân khác nhau. Tuy
nhiên, cũng có thể đưa ra một vài điểm khái quát về chủ nghĩa chính
thống Islam giáo.
Trước
hết, chủ nghĩa chính thống là một trong những biểu hiện phản ứng đối
với ưu thế về kinh tế, chính trị và văn hóa phương Tây. Những nguy cơ
của kiểu phản ứng này được Edward Said nêu trong cuốn Phong cách phương Đông xuất bản năm 1978. E. Said xác định Phong cách phương Đông
là lối suy nghĩ dựa trên sự khác biệt về nhận thức luận và bản thể luận
giữa phương Đông và phương Tây. Ông cũng dẫn lại lời phát biểu của Lord
Cromer, thống đốc Ai Cập từ năm 1882 - 1907, rằng: Nói chung, người phương Đông hành động, nói và suy nghĩ hoàn toàn tương phản với người Âu. Người
Châu Âu có lập luận chặt chẽ và giỏi về lôgích học một cách bẩm sinh
trong khi người phương Đông kém cỏi về khả năng này một cách khác thường(3).
Cách nhìn nhận định kiến như vậy vẫn còn kéo dài đến nửa cuối thế kỉ
XX. Thái độ của những nhà Đông phương học ở phương Tây đã khơi gợi sự
giận dữ của nhiều cá nhân và nhiều nhóm xã hội ở các nước chậm phát
triển (bao gồm những người theo
chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội và các phong trào giải phóng), cũng
như những người Muslim đang tìm cách duy trì bản sắc của họ trong thế
giới hiện đại. Vì thế, chủ nghĩa chính thống là sự phản ứng
chống lại chủ nghĩa thực dân/chủ nghĩa Đế quốc về kinh tế và chính trị
của phương Tây, đồng thời những người theo chủ nghĩa chính thống phẫn nộ
với những vấn đề mà phương Tây đặt ra cho các quốc gia Islam giáo núp
dưới những chuẩn mực của phương Tây áp dụng cho toàn thế giới.
Thứ hai, cũng có thể coi chủ nghĩa chính thống là phong trào phản kháng quá trình hiện đại hóa - một quá trình mang lại những
thay đổi về kinh tế và xã hội. Các mẫu hình văn hóa bị tác động và
nhiều người tìm thấy sự an nhàn từ những thay đổi trong cách ứng xử
truyền thống có trong di sản Islam giáo. Những di sản này bị suy giảm do
sự xuất hiện các chế độ thế tục (quân sự hoặc dân sự) ở Trung Đông sau
Thế chiến II. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, những quốc gia này bị coi
là yếu kém đối với các nước phương Tây và không đáp ứng được sự mong
đợi của các công dân.
Thứ
ba, có nhiều chế độ ở Trung Đông đã trải qua những ảnh hưởng của quá
trình phát triển bất bình đẳng ở nửa cuối thế kỉ XX. Đó là, sự phát
triển kinh tế không kéo theo sự biến chuyển tương xứng về chính trị, thể
hiện ở việc tầng lớp tri thức không có cách nào để biểu đạt quan điểm
chính trị của họ. Hơn thế nữa, những đợt suy thoái kinh tế đã tạo cơ hội
cho những người theo chủ nghĩa chính thống tận dụng để kêu gọi “Trở lại
với Islam giáo”.
Phản
ứng lại phương Tây và quá trình hiện đại hóa không phải là đặc trưng
riêng biệt của Islam giáo, vì các tôn giáo và các nền văn hóa khác cũng
chống lại những thay đổi do hai tác nhân trên đem lại. Tuy nhiên, học
giả Ernest Gellner cho rằng, nguyên nhân dẫn tới sự xuất hiện và tính
bảo thủ của chủ nghĩa chính thống Islam giáo không chỉ liên quan tới
phương Tây và quá trình hiện đại hóa, mà còn liên quan tới yếu tố riêng
biệt của Islam giáo. E. Gellner nhận thấy căn nguyên gốc rễ nằm ở sự
biện chứng giữa “Islam giáo bác học” (High Islam) và “Islam giáo bình
dân” (Folk Islam). Islam giáo bác học là tôn giáo của thương nhân, tầng
lớp trung lưu và học giả nơi đô thị - những người ưa thích một Islam
giáo đúng mực, phục tùng kỉ luật ở nơi khuyến khích việc nghiên cứu tôn
giáo và Thượng Đế là Đấng Tối cao. Islam giáo bình dân là tôn giáo của
thị dân nghèo, nông dân và các bộ lạc, nơi mà hình thức thần bí, xuất
thần của Islam giáo chiếm ưu thế và Thượng Đế ở khắp mọi nơi hoặc có thể
thấu tới được qua vật trung gian, chẳng hạn như qua các thầy tu Sufi.
E. Gellner thừa nhận, ranh giới giữa Islam giáo bác học và Islam giáo
bình dân thường không rõ ràng, nhưng ông cũng khẳng định, đôi khi chúng
liên minh với một lực lượng khác để chống lại chính quyền đương thời.
Chủ nghĩa hiện đại Islam giáo
Ngay
khi sự khác nhau giữa những tiến bộ về công nghệ, khoa học và vật chất ở
phương Tây so với sự yếu kém của các khu vực Islam giáo trở nên rõ ràng
ở thế kỉ XIX, nhiều người Muslim cho rằng cách duy nhất để bắt kịp
những tiến bộ ấy là thay thế những kẻ cai trị chuyên quyền và mục ruỗng
bằng hình thức dân chủ như ở Anh và Pháp. Vì vậy, những người theo chủ
nghĩa hiện đại (tiêu biểu là Muhammad Abdul) đưa ra một khối lượng các
tài liệu luận giải tôn giáo để khẳng định Islam giáo thực sự không có gì
khác so với các khái niệm dân chủ Tây Âu. Các tài liệu như vậy đã được
Hourani biện giải. Ông kết luận: Theo cách suy luận này, nguyên tắc maslaha dần trở thành những ngành phục vụ công cộng, shura trở thành dân chủ nghị viện, ijma thành công luận(4); bản thân Islam giáo đã là văn minh và năng động.
Husein Nasr, nhà Islam giáo học nổi tiếng đương đại, từng chỉ ra rằng, nghĩa của hai chữ hiện đại trong chủ nghĩa hiện đại hoàn toàn không có ý chỉ khái niệm về thời đại, mà ý nghĩa đích thực của nó là trái ngược với tính thần thánh siêu nghiệm và nguyên tắc vĩnh hằng, nó chỉ “con người ở cõi đời này”(5).
Chủ
nghĩa hiện đại Islam giáo có rất nhiều nhân vật tiêu biểu, dù họ ở vào
những bối cảnh xã hội và điều kiện lịch sử khác nhau, nhưng tư tưởng chủ
đạo của họ là sự nhất trí, tức là vận dụng nguyên tắc sáng chế (ijtihad) trong giáo pháp học (Fiqh)
để giải thích lại ý nghĩa của kinh Koran và truyền thống Islam giáo với
mong muốn truyền tính khoa học vào Islam giáo, làm cho diễn biến của
Islam giáo có thể thích ứng với nhu cầu của xã hội đương thời và thuận
theo sự biến đổi của lịch sử. Điều này tạo nên đặc điểm chung của các
nhà hiện đại chủ nghĩa.
Nhà
tư tưởng có ảnh hưởng nhất của chủ nghĩa hiện đại Islam giáo ở thế kỉ
XIX phải kể đến Kamaluting Afghani, người Iran. Afghani cho rằng, Islam
giáo là một hệ thống tín ngưỡng và lối sống bao trùm mọi thứ, vì chỉ có
như vậy tính khoa học mới có thể được đưa vào trong một tín ngưỡng tôn
giáo như Islam giáo. Nhận thức của Afghani về Islam giáo chủ yếu thể
hiện ở sự quan tâm của ông đối với triết học và sự tôn sùng khoa học.
Ông từng chỉ ra rằng, ngu dốt là nguyên nhân quan trọng khiến cho cộng
đồng Islam giáo suy vi, mà muốn phục hưng thì phải đề xướng thái độ khoa
học. Ông còn cho rằng, phàm những sự việc đã biết đều nhờ khoa học,
phàm các dân tộc nổi tiếng đều nổi tiếng nhờ khoa học. Người Muslim
không nên bài xích khoa học vì Islam giáo là một tôn giáo gần khoa học
nhất(6).
Ahmuh
Khan của ấn Độ mong muốn kiến lập một hệ thống lí luận Islam giáo hiện
đại, dựa vào đó để điều chỉnh mối quan hệ giữa khoa học hiện đại và
Islam giáo truyền thống. Ông tin tưởng một cách sâu sắc rằng, giữa ngôn
ngữ của Allah - kinh Koran và tạo vật của Allah - thế giới tự nhiên hoàn
toàn không có mâu thuẫn; giữa thiên khải của Thượng Đế và khoa học có
mối quan hệ bổ sung cho nhau, điều hòa thống nhất. Còn Muhammad Abdul
của Ai Cập cho rằng, tôn giáo và khoa học bổ sung cho nhau: một mặt, sự
thiên khải là siêu nghiệm, do đó cao hơn lí trí của con người, mặt khác,
tính thật giả, đúng sai trong tôn giáo lại cần đến phán đoán khoa học;
tương tự, giữa tôn giáo và khoa học cũng có sự đồng thuận: khoa học là
nhận thức về tự nhiên, còn tự nhiên là tạo vật của Thượng Đế, tôn giáo
là sự thiên khải của Thượng Đế, chúng đều bắt nguồn từ Thượng Đế.
Muhammad Abdul nhấn mạnh tính thống nhất giữa Islam giáo và tiến trình
hiện đại, nhằm làm cho Islam giáo thoát khỏi sự giải thích cứng nhắc. Về
truyền thống, làm cho nó thích ứng với sự biến đổi của điều kiện lịch
sử, nhưng đồng thời lại không nhất thiết vứt bỏ những tín điều cơ bản
lấy kinh Koran làm cơ sở.
Một
hình thức khác của chủ nghĩa hiện đại Islam giáo được những người ưa
thích tính chính xác của lịch sử ủng hộ chú trọng vào những thông điệp
có trong kinh Koran và sử dụng phép loại suy để đưa ra những kết luận
thích hợp với tình hình hiện tại. Fazlur Rahman, một học giả người
Pakistan, cho rằng điều cần thiết đối với người Muslim là phải đảm
trách việc phân tích có phương pháp từng tiết (aya) trong kinh Koran.
Việc làm này sẽ cung cấp cho người Muslim một quan điểm lịch sử tổng thể
về sự thiên khải, thể hiện thông điệp chung của kinh Koran hơn là việc
diễn giải các tiết cụ thể. Cho đến nay, người Muslim vẫn tiếp tục phân
tích kinh Koran, nhưng chỉ nhằm phát hiện sự mâu thuẫn giữa các tiết, và
dẫn tới khuynh hướng cụ thể hóa chứ không phải khái quát hóa. Mục đích
của F. Rahman nhằm tỏ rõ ở thời gian thiên khải, kinh Koran đã thể hiện
sự tiến bộ và tự do, đồng thời đó cũng chính là tinh thần chung của kinh
Koran phải được người Muslim ứng dụng trong thời hiện đại. F. Rahman
hướng sự chú ý tới vị trí của người phụ nữ trong Islam giáo, vì nhiều
học giả khẳng định việc diễn giải tự do các đoạn trong kinh Koran phủ
nhận người phụ nữ có các quyền tương tự như của nam giới đối với vấn đề
thừa kế và sự bình đẳng trong các tranh chấp pháp lí. Ông cho rằng, trên
thực tế kinh Koran cải thiện vị trí của người phụ nữ rất
nhiều so với thời kì trước khi Islam giáo ra đời, vì tục lệ giết bé gái
sơ sinh đã được ngăn cấm, và người phụ nữ ít nhất cũng được đảm bảo một
số lợi ích về thừa kế và được thừa nhận về pháp lí, trong khi ở thời
tiền Islam giáo tình hình không phải như thế. Bởi thế trong thời đại
hiện nay, người phụ nữ nên đòi thêm những quyền lợi khác ngoài việc đọc
kinh Koran.
Một
học giả người Angiêri theo chủ nghĩa hiện đại là Muhammad Arkoun cũng
khuyến khích người Muslim chấp nhận những cách chú giải kinh thánh phù
hợp để hiểu về Islam giáo. Quan điểm có tính chất học thuật của ông bác
bỏ khuynh hướng của những người theo chủ nghĩa duy lí được đại diện bởi
trường phái thần học Mu‘tazilites, các triết gia Islam giáo và chân lí
phổ quát, vĩnh cửu của F. Rahman dưới hình thức tinh thần của kinh
Koran. M. Arkoun không chấp nhận bất cứ sự nhấn mạnh nào vào nguyên bản
gốc hoặc vào bản chất không thay đổi. Nói cách khác, ông ủng hộ việc
giải thích mở về Islam giáo.
Trong
việc phân loại các nhà hiện đại chủ nghĩa Islam giáo, Husein Nasr cũng
tính đến những người theo chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiều
người theo chủ nghĩa dân tộc trong thế giới Islam giáo ở nửa đầu thế kỉ
XX chịu ảnh hưởng của các mô hình thế tục phương Tây. Những người theo
chủ nghĩa dân tộc nhận được sự bảo trợ của Thổ Nhĩ Kỳ và Iran từ những
năm 1920 cho đến khi nổi lên phong trào phục hưng Islam giáo ở cuối thế
kỉ XX là những đối thủ chủ yếu của Islam giáo. Tuy nhiên, cũng có những hình thức khác của chủ nghĩa dân tộc mà ở ngay trong bản thân Islam giáo, trường
hợp Pakistan, được thành lập năm 1947, tách ra từ tiểu lục địa ấn Độ,
là một minh chứng rõ ràng. Chủ nghĩa dân tộc cũng có sức mạnh trong thế
giới ảrập, và ở giữa thế kỉ XX cũng có người ủng hộ cho cái gọi là chủ
nghĩa ảrập bao gồm các quốc gia Ai Cập, Xyri, Irắc, Libi và Yêmen (thực tế còn
có Cộng hòa ảrập Thống nhất thành lập năm 1958, tồn tại trong một thời
gian ngắn giữa Ai Cập, Xyri và Bắc Yêmen). Husein Nasr cũng gộp những
người theo chủ nghĩa xã hội Islam giáo và chủ nghĩa Mác vào trong nhóm
những người theo chủ nghĩa hiện đại. Đó là trường hợp của Tổng thống
Nasser của Ai Cập, là đảng Ba’ath ở Xyri và Irắc trong những năm 1960,
1970. Hình thức chủ nghĩa xã hội này, nhìn chung, gặp phải nhiều tai
tiếng và phản đối của các dân tộc trong khu vực này.
Chủ nghĩa truyền thống Islam giáo
Những
người theo chủ nghĩa truyền thống Islam giáo được xác định là những
người Muslim chấp nhận di sản của Islam giáo là một phần thế giới quan
của họ, bao gồm kinh thánh, truyền thuyết về Nhà Tiên tri Muhammad, giáo
luật, thần học, triết học, Sufi và cách thức cụ thể nhìn nhận thế giới
tự nhiên. Theo Husein Nasr, chủ nghĩa truyền thống có điểm khác so với
cách diễn giải Islam giáo của những người theo chủ nghĩa hiện đại, bởi
vì ông nhận thấy nhiều người trong số những người theo chủ nghĩa hiện
đại chịu ảnh hưởng của triết học phương Tây (mặc dù, ông thừa nhận những
người theo chủ nghĩa hiện đại như M. Arkoun và F. Rahman cũng có những
yếu tố tích cực trong các tác phẩm của họ). Chủ nghĩa truyền thống Islam
giáo cũng khác với chủ nghĩa chính thống Islam giáo vì chủ nghĩa chính
thống có chiều hướng phủ nhận nhiều truyền thống Islam giáo trong những
nỗ lực của họ để lấy lại cách giải thích "ban sơ" về Islam giáo mà họ
tin tưởng đã tồn tại dưới thời Nhà Tiên tri Muhammad và bốn vị Caliph
đầu tiên. Thật khó ước đoán tỉ lệ những người theo chủ nghĩa truyền
thống so với các nhóm khác, nhưng có khả năng nhóm này đông hơn nhóm
theo chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa chính thống. ở mức độ nhất định, cả
chủ nghĩa hiện đại Islam giáo và chủ nghĩa chính thống Islam giáo đều
nổi lên ở thời đương đại như một phản ứng đối với quá trình hiện đại hóa
và phương Tây. Chủ nghĩa truyền thống Islam giáo cũng là một dạng phản
ứng đối với những thách thức mới, nhưng theo cách riêng của nó. Chủ
nghĩa truyền thống Islam giáo cũng là sự kết hợp của nhiều nhóm khác
nhau. Một số nhóm hi vọng có thể trở lại Islam giáo thủa sơ khai bằng
phương pháp hòa bình, nhóm khác lại cho rằng cần phải dùng các biện pháp
đấu tranh chính trị. Ví dụ, ở ấn Độ, một nhóm những người theo chủ
nghĩa truyền thống, nổi danh với cái tên Deobandis(7) (nhóm
này thuộc trường phái Hanafi), khẳng định bản sắc của họ bằng cách lờ đi
lề thói của người Anh và đưa ra sự hưởng ứng với thời hiện đại từ trong
truyền thống của Islam giáo. Phái Deobandis đã thành lập một cơ sở đào
tạo giáo sĩ và trường học ngay bên ngoài Delhi sau cuộc binh biến năm
1857, nhằm đào tạo người Muslim ấn Độ trở thành những giáo viên, hướng
dẫn cầu nguyện, bảo vệ thánh mộ, bác sĩ, v.v… Cơ sở đào tạo giáo sĩ này
đã thống nhất hai dòng tư tưởng Islam giáo: thần học truyền thống và sự
trang nghiêm của Sufi; Không khuyến khích đụng độ với người Anh vì sự
thay đổi sẽ dần dần đến thông qua việc cải thiện cộng đồng, bằng tinh
thần của mỗi cá nhân và những nỗ lực tôn giáo. Sự chỉ đạo cộng đồng
Muslim được đưa ra dưới dạng fatawi (quan điểm của tòa án), tức là người lãnh đạo trường học phải thực hiện phép loại suy (ijtihad) trong phạm vi của trường phái Hanafi. Việc nhấn vào fatavi
giải thích cho mong muốn cải cách cộng đồng Muslim và cũng là để phá vỡ
hệ thống tòa án của người Anh. Người Muslim được khuyến khích đưa các
tranh chấp tới trường học hơn là đệ trình tới người Anh, và bằng cách đó
mới bảo vệ được văn hóa và luật Islam giáo. Cùng với sự di cư của người
Muslim ấn Độ và Pakistan tới Anh, phái Deobandis đã thành lập được
chi nhánh ở đó. Phái Deobandis đang nỗ lực giành quyền lãnh đạo cộng
đồng Muslim ở cả Anh và Pakistan vì phải đấu tranh với tổ chức Jama‘at-i-Islami
- một tổ chức theo chủ nghĩa chính thống do Abu al-Alâ Mawdudi sáng lập
đầu những năm 1940 với mục đích biến Pakistan thành một nhà nước Islam
giáo chính trị thần quyền, và phái Barelwis ở ấn Độ do Ahmad Rizâ Khan
(1856 - 1921) sáng lập, tín đồ của phái này trải khắp Nam á và có nhiều
môn đồ ở Anh.
Trước
những sự kiện gây ảnh hưởng tới tình hình thế giới của phong trào chấn
hưng Islam giáo nói chung, học giả người Mỹ, S. Huntington đã viết trong
Xung đột văn minh với việc xây dựng lại trật tự thế giới:
“Phong trào phục hưng Islam giáo ít ra cũng là một sự kiện lịch sử quan
trọng tựa như cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp hay cách mạng Nga vậy”(8).
Các nhà nghiên cứu còn nhận định rằng, phong trào phục hưng Islam giáo
rất có thể trở thành đối tượng mà cả thế giới phải chú ý và quan tâm
đúng mức trong thế kỉ XXI. Phong trào phục hưng Islam giáo giờ đây không
còn là công việc nội bộ thế giới Islam giáo, mà ảnh hưởng của nó liên
quan đến cục diện quan hệ quốc tế, đến sự phát triển kinh tế và chính
trị thế giới.
Tuy
nhiên, cũng cần đề cập đến các vấn đề mà Islam giáo đang phải đối mặt.
Sự thực có thể đúng là cuộc sống du mục trên bán đảo ảrập đã thay đổi ít
nhiều kể từ thời đại của Nhà Tiên tri Muhammad, nhưng cũng rõ ràng
rằng, thế giới đang có những thay đổi lớn lao trong khung cảnh của toàn
cầu hóa. Điều đó cho thấy, mong muốn trở lại với Islam giáo thời Nhà
Tiên tri và giai đoạn bốn vị Caliph đầu tiên là điều bất hợp lí. Những
tư tưởng luật pháp cơ bản của Islam giáo là đúng đắn, nhưng chúng cũng
cần phải được điều chỉnh cho thích hợp với hoàn cảnh đã thay đổi hiện
nay. Điều thiết yếu là người Muslim nên học cách chung sống với những
đổi thay của thế giới, trong khi vẫn duy trì được đức tin cơ bản.
Người
Muslim cũng cần phải suy xét nhiều hơn về vị trí của Islam giáo trên
thế giới. Để Islam giáo có vị trí thích đáng trong một thế giới đa tôn
giáo, người Muslim cần có sự đánh giá rộng rãi sự chân thực ở các tôn
giáo khác. Đối thoại giữa các tôn giáo là xu thế chung trên thế giới
hiện nay dù ở các cấp độ chính thức hay không chính thức. Sự hợp tác
giữa các tôn giáo có thể cải thiện các vấn đề quốc tế./.
Nguồn : Tạp chí nghiên cứu tôn giáo
Chú thích ;
1. Gordon D. Newby, A Concise Encyclopedia of Islam,
Oneworld Oxford, England, 2002, pg 63. Nguyên gốc, thuật ngữ này được
áp dụng cho những tín đồ Tin Lành Mĩ ở thế kỉ XIX, những người phản ứng
một cách mạnh mẽ đối với những hiểm họa của quá trình hiện đại hóa. Dần
dần thuật ngữ này được áp dụng cho các nhóm tôn giáo phản đối một cách
khắt khe những thay đổi trong thế giới hiện đại. Khi áp dụng cho Islam
giáo, thường được hiểu đồng nghĩa với sự khủng bố, và vì sự hiểu sai
lệch này cùng với các nghĩa tiêu cực khác, nhiều học giả phản đối việc
áp dụng thuật ngữ này đối với Islam giáo. Một số học giả nhìn nhận chủ
nghĩa chính thống là một phần hành động của những người cải cách vẫn
đang tiếp diễn trong lịch sử Islam giáo, trong khi một số học giả khác
lại cho rằng, đó chỉ là một phong trào của những người theo chủ nghĩa
hiện đại. Dù có nguồn gốc từ phương Tây, thuật ngữ này đã được dịch sang
tiếng ảrập: Usuliyyah hoặc Salafiyyah.
2. Gordon D. Newby. A Concise Encyclopedia of Islam.
Oneworld Oxford, England, 2002, pg 69. Thuật ngữ dùng để chỉ hình phạt
cho các loại tội nhất định được đề cập trong kinh Koran hoặc trong giáo
luật (Shariah), chẳng hạn như tội cướp giật, trộm cắp, uống chất gây
say, tố cáo sai sự dâm ô, tội ngoại tình hoặc gian dâm. Hình phạt được
chia thành các khung bậc khác nhau, từ xử tử tới phạt roi.
3. Said E. Orientalism. London, 1978, pg 39.
4. Maslahah:
nguyên tắc trong Shariah về lợi ích hoặc công bằng xã hội, tùy theo
hoàn cảnh và yêu cầu mà có thể được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu của người
Muslim ở bất cứ thời đại nào; shura: thuật ngữ để chỉ một ủy ban cố vấn. Đó cũng là cái tên để chỉ ‘Ban’ lựa chọn Uthman làm Caliph; ijma: sự đồng thuận - một yếu tố để tiến hành phép loại suy (ijtihad)
tạo nên nguồn giáo pháp học. Theo luật Islam giáo kinh điển, sự đồng
thuận của tất cả các luật gia tạo nên một trong những nguồn chủ yếu của
giáo luật. Xem cuốn A Concise Encyclopedia of Islam, … Sđd.
5. Husein Nasr. Traditional Islam in the Modern World Islam. NewYork, 1987, pg 98. Dẫn theo cuốn Tôn giáo và đời sống hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội, tập II, 1997, tr 44.
6. Tôn giáo và đời sống hiện đại. Viện Thông tin khoa học xã hội, tập II, 1997, tr 47.
7.
Đặt theo tên ngôi trường ở Deoband, cách Delhi 90 dặm về phía đông bắc,
được thành lập năm 1867 để cải cách Islam giáo ở ấn Độ
8. Trích theo: Nguyễn Đức, Thế Trường, Lê Yên. Hồi giáo, Nxb Văn hóa Thông tin, H, 2002, tr 92.