Sáng Thế Ký (Genesis) là quyển
kinh viết về thế giới quan của Rô-man Cathô-líc. Kinh này diễn tả thế giới mà
chúng ta đang sống là một thế giới được “Thiên Chúa tạo ra ở dưới đáy
biển”, vì thế có nước ở trên và nước ở dưới.
Genesis 1:6-8 viết:
6And God said, Let there be a firmament in the midst of the waters, and let it divide the waters from the waters (Và Thiên Chúa lại phán rằng: phải có một bầu trời ở giữa nước,và để phân chia nước với nước).
7And God made the firmament, and divided the waters which were under the firmament from the waters which were above the firmament: and it was so (Và Thiên Chúa đã tạo ra bầu trời, và phân chia nước ở dưới bầu trời với nước ở trên bầu trời; thì có như vậy).
8And God called the firmament Heaven. And the evening and the morning were the second day (Và Thiên Chúa đã gọi bầu trời là Thiên Đường. Và buổi chiều và buổi mai là ngày thứ hai).
Genesis 1:6-8 viết:
6And God said, Let there be a firmament in the midst of the waters, and let it divide the waters from the waters (Và Thiên Chúa lại phán rằng: phải có một bầu trời ở giữa nước,và để phân chia nước với nước).
7And God made the firmament, and divided the waters which were under the firmament from the waters which were above the firmament: and it was so (Và Thiên Chúa đã tạo ra bầu trời, và phân chia nước ở dưới bầu trời với nước ở trên bầu trời; thì có như vậy).
8And God called the firmament Heaven. And the evening and the morning were the second day (Và Thiên Chúa đã gọi bầu trời là Thiên Đường. Và buổi chiều và buổi mai là ngày thứ hai).
THẾ GIỚI “DƯỚI ĐÁY BIỂN” CỦA ĐẠO THIÊN CHÚA
Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Biblical_cosmology
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 2
Cuối thế kỷ thứ 15, thế giới được sửa đổi thành một thế giới có nhiều tầng trời ở trên mặt đất với bầu trời tiếp xúc với mặt đất ở chân trời. Bầu trời có thể bị đập thủng một lổ ở chân trời để chui ra ngoài. Và trái đất là một mặt phẳng hình vuông có 4 góc với bầu trời giống như cái chảo nấu ăn úp xuống mặt đất[1].
THẾ GIỚI “NHIỀU TẦNG TRỜI” CỦA ĐẠO THIÊN CHÚA
Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Flat_Earth
Nhà thám hiểm châu Á bằng đường bộ, Marco Polo, đã để lại rất nhiều kinh nghiệm cho những nhà thám hiểm chây Á bằng đường biển sau này. Những quốc gia to lớn và giàu mạnh cũng thường được người châu Âu biết đến rất nhiều như Trung Quốc, Ấn độ… qua các cuộc tường thuật, hoặc qua sách vỡ.
Christopher Columbus (1451-1506) là một nhà thám hiểm, nhà hoa tiêu hàng hải, và cũng là một thực dân tìm thuộc địa mang quốc tịch Cộng Hòa Genoa.
Chủ nghĩa đế quốc tây phương và sự cạnh tranh kinh tế bắt nguồn từ sự thành lập các tuyến đường thương mại với các thuộc địa. Columbus nghĩ ông có thể sẽ tới được Ấn Độ nếu ông lái thuyền buồm đọc theo bờ biển Phi châu tới quần đảo Cape Verde, rồi xoay thuyền đi thẳng về hướng Tây.
Dự tính của ông được Hoàng Gia Tây Ban Nha ủng hộ. Tây Ban Nha thấy đây là một cơ hội để cho họ gia nhập vào dòng thương mại mua bán các sản phẩm gia vị với châu Á. Trong chuyến đi lần đầu năm 1492, Columbus tới được một nơi có nhiều hòn đảo mà ông gọi là Ấn Độ. Ông cũng liên tục thành công 3 chuyến đi kế tiếp. Ông gọi nơi ông tới bằng tiếng Tây Ban Nha là “Indios” (Ấn Độ).
Sau các chuyến đi của Columbus, Amerigo Vespucci, một người Ý, đã thực hiện một chuyến đi do chính ông làm hoa tiêu. Ông khởi hành từ châu Âu năm
1499. Năm 1503 và 1504, ông viết hai bức thư gởi cho Lorenzo de Medici kể về
chuyến đi của ông. Trong thư ông đưa ra ý tưởng những gì Columbus đã khám
phá không phải là tại Ấn Độ như Columbus đã diễn tả, mà là tại một lục địa mới,
viết bằng chữ La Tinh là “Novus Mundus”, có nghĩa là “New World” (Thế Giới
Mới). Do đó từ ngữ “Thế Giới Mới” được xử dụng lần đầu tiên.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 3
Nguồn: http://www.lahistoriaconmapas.com/atlas/country-map03/cuba-map-caribbean.htm
Thế giới mới tức là thế giới nhiều tầng trời theo “kinh thánh” của Ca-thô-líc Lamã, vì các nhà thám hiểm lúc đó nghĩ họ đã đi ra khỏi thế giới Trái Đất của họ.
Họ đang hiện diện ở một nơi nào khác, nơi đó họ cũng có một bầu trời mới, một
trái đất mới, và họ đã gặp được những người thổ dân địa phương mới…
Khi người ta lấy chữ “Amerigo” (tên viết bằng tiếng Ý của Amerigo Vespucci),
để thay thế cho từ ngữ Thế Giới Mới, Christopher Columbus vẫn không có một lời
đính chính nào về sự sai lầm của ông. Mặc dù ông là người thực sự tới “Thế Giới
Mới” trước nhất, không phải chỉ tới có một lần, mà tới tất cả là 4 lần!
Chưa đủ! Như bạn đã biết, nhiều ngôn ngữ Âu châu có giống “đực” và giống
“cái”. Rất nhiều người chỉ trích tiếng “Amerigo” là tiếng để chỉ những gì thuộc
giống đực. Trong khi các từ ngữ chỉ các châu lục hoặc các vùng lãnh thổ, là một
tiếng thuộc giống cái. Mà tiếng giống cái của Amerigo là America. Do lý do này,
người Âu châu, một lần nữa lại đổi tiếng Amerigo ra tiếng America. Tiếng
“America” mà tất cả người Mỹ sử dụng ngày nay có nguồn gốc từ tiếng Ý.
Vùng Columbus 4 lần tìm thấy, không phải là Ấn Độ, mà là vùng Caribbean,
thuộc về Mỹ châu. Vùng Caribbean bao gồm nhiều hòn đảo nhỏ và một số các
hòn đảo lớn như Puerto Rico, Dominican Republic, Haiti, Cuba, The Bahamas…
Cuba và The Bahamas rất gần với tiểu bang Florida của Hoa Kỳ.
Sau nhiều thập niên cố gắng với hàng ngàn thủy thủ chết trên biển, cuối cùng
Vasco da Gama đã tới được Calicut, Ấn Độ, ngày 20-05-1498. Không bị chống
đối khi tham dự vào những tuyến đường buôn bán gia vị món ăn Ấn Độ, làm nổi
bật nền kinh tế của đế quốc Bồ Đào Nha, mà trước đây nền tảng được dựng dọc
theo bờ biển phía Bắc và Tây châu Phi. Thức ăn gia vị mua tại Đông Nam Á phần
chính, trước nhất là tiêu hột và quế, nhưng sau đó được thêm vào vài thứ khác,
tất cả đều mới mẻ đối với người châu Âu. Người Bồ Đào Nha chiếm độc quyền
mặt hàng hóa này qua nhiều thế hệ. Chỉ khoảng một thế kỷ sau, các cường quốc
châu Âu khác như Hòa Lan, Anh, Pháp, Đan Mạch… loại trừ được độc quyền của
Bồ Đào Nha bằng các đội hải quân tối tân tại Cape Route.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 4
Để tránh nhầm lẫn giữa Ấn Độ “dõm” do Columbus tìm ra với Ấn độ “thật” do
Vasco da Gama tìm ra, người ta đặt tên cho Ấn Độ dõm là “West Indies” và Ấn
Độ thật là “East Indies”. Chữ Indies mang “số nhiều” bởi vì họ nói Đông Nam Á
có nền văn hóa giống Ấn Độ nên họ đã gom chung Ấn Độ với Đông Nam Á.
Không ai minh oan cho Columbus, gọi Mỹ châu là “Columbuses”, mà ai cũng
gọi Mỹ châu là “America”, vì Columbus là một thực dân Ca-thô-líc tìm thuộc địa.
Năm 1500, ông chiếm đảo Hispaniola, với ý định lấy đảo Hispaniola làm bàn đạp,
và từ đó ông có thể đi tìm Trung Quốc và Nhật Bản mà ông nghĩ ở gần đâu đó.
Thảm họa đầu tiên Christopher Columbus mang tới châu Á là hàng chục quốc
gia châu Âu ngang nhiên tới chiếm đóng Ấn Độ để lập các căn cứ hậu cần đánh
chiếm thuộc địa trên khắp châu Á, thường được gọi là các công ty Đông Ấn.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 5
PHONG TRÀO ĐÁNH CHIẾM THUỘC ĐỊA VÀ BUÔN BÁN NÔ LỆ WEST INDIES
Vua Ferdinand II của xứ Aragon cưới Nữ Hoàng Isabella I của xứ Castile năm
1469. Sự thống nhất của hai vương quốc lớn này, ngày nay thường được gọi là
Hoàng Gia Tây Ban Nha. Họ được biết đến như là sự nối liền giữa hai quốc gia gọi
là “Catholic Monarch” (Hoàng Gia Ca-thô-líc). Họ cai trị vương quốc của họ một
cách độc lập, nhưng có những chính sách thông thường chung.
Ngày 01-05-1489, Christopher Columbus trình bày kế hoạch của ông cho Nữ
Hoàng Isabella. Nữ Hoàng Isabella đưa kế hoạch của Columbus ra bàn thảo
trong một phiên họp đặc biệt. Sau đó họ cho kế hoạch của Columbus là không
thực tế, và khuyến cáo người có mặt không nên hỗ trợ đề xuất của Columbus.
Sau khi liên tục cầu khẩn Tây Ban Nha hỗ trợ kế hoạch của mình và chịu đựng
hai năm đàm phán, Columbus cuối cùng được chấp thuận tháng 01-1492 sau khi
lực lượng của nữ hoàng Isabella chinh phục được Hồi giáo “Moorish Emirate of
Granada”, thành lũy cuối cùng của Hồi giáo Al-Andalus trên bán đảo Iberia,
Isabella và Ferdinand II nhận hổ trợ Columbus tại lâu đài Alcázar, Córdoba.
Theo hợp đồng: Nếu Columbus tuyên bố bất kỳ hòn đảo mới nào cho Hoàng
Gia, ông sẽ nhận được phần thưởng lớn. Về quyền lực, ông sẽ được thăng Đô
Đốc Hải Dương và Phó Vương (Viceroy), kiêm Thống Đốc thuộc địa mới. Ông
được quyền đề cử ba người. Từ ba người đó, một sẽ được chọn để quản trị các
văn phòng tại vùng đất mới, và ông sẽ vĩnh viễn hưởng 10% các khoản thu. Để
mở rộng đế chế Tây Ban Nha và Thiên Chúa giáo Ca-thô-líc, Nữ Hoàng sẽ trợ cấp
ông hàng năm 12,000 maravedis và một phần vùng đất mới chiếm được.
Ngày 07-06-1494, Ca-thô-líc La-mã ký với Ca-thô-líc Tây Ban Nha, và Ca-thô-
líc Bồ Đào Nha hiệp ước “Treaty of Tordesillas”[2] chia thế giới ra thành những
khu vực để đánh chiếm. Bất cứ nơi nào Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cắm được lá
cờ của họ, nơi đó Ca-thô-líc La-mã được cắm cây thánh giáo của Ca-thô-líc.
Chuyến thứ nhất: Trước khi người Âu châu tới, Tây Ấn có ít nhất là ba bộ tộc
bản xứ: Arawaks, Caribs, và Ciboney. Các bộ tộc này ngày nay gần như bị tiệt
chủng. Columbus khởi hành ngày 03-08-1492 và trở về ngày 06-01-1493.
Chuyến thứ hai: Ông đem theo 17 tàu, 1.000 thủy thủ, một số động vật thuần
hóa như heo, ngựa… Dự định sẽ mở một khu định cư trên đảo Hispaniola; cải đạo
ra Ca-thô-líc tất cả người bản xứ; thiết lập một trạm buôn bán và tiếp tục tìm
kiếm Trung Quốc và Nhật Bản. Ông khởi hành ngày 13-10-1493, trở về ngày 20-
08-1494; mang về nhiều người nô lệ thổ dân bản xứ do ông săn bắt. Ông định
bày vẽ cho Nữ Hoàng Isabella buôn bán nô lệ. Nữ Hoàng Isabella hoảng hốt,
buộc ông mang họ trở lại Tây Ấn và trả tự do cho họ trong chuyến đi thứ ba.
Columbus tìm thấy tại Thế Giới Mới có rất ít vàng hoặc các món quý giá khác
để làm thương mại, ông tin tưởng việc buôn bán nô lệ người bản địa sẽ làm cho
các chuyến đi của ông trở nên béo bổ. Mặc dầu vua và hoàng hậu Tây Ban Nha
không cho phép Columbus buôn bán nô lệ, họ vẫn cho phép Columbus được tái
cung cấp thực phẩm và tiếp tục tìm kiếm thêm thị trường; hoặc ít nhất Columbus
cũng thành lập được thuộc địa để từ đó ông có thể đi tìm ra Trung Quốc.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 6
Chuyến thứ ba: Khởi hành từ Tây Ban Nha vào tháng 05-1498, Đội thuyền
gồm sáu tàu. Ba tàu sẽ tới đảo Hispaniola ngay lập tức để mang tới những thứ
cần thiết mà người định cư đang chờ; ba tàu còn lại sẽ hướng về phía Nam vùng
Caribbean để tìm thêm đất đai và đường đi về phương Đông mà Columbus tin
tưởng Trung Quốc và Nhật Bản ở gần đâu đó.
Trong hai tuần đầu tháng 08-1498, đội thuyền 3 chiếc khám phá ra vịnh
Paria, đảo Margarita, và một số các hòn đảo nhỏ khác. Họ cũng phát hiện ra cửa
sông Orinoco, một con sông nước ngọt chỉ có thể tìm thấy trên lục địa. Là một
người sùng đạo Ca-thô-líc, ông Columbus kết luận ông đã tìm thấy “Vườn Địa
Đàng” (Garden of Eden); Sau đó họ tới được đảo Hispaniola ngày 19-08-1498.
Trong thời gian Columbus trở về đất liền, người định cư trên đảo Hispaniola
gặp khó khăn về tiếp liệu thiếu hụt và các hầm mỏ vàng Columbus hứa hẹn đã
không có. Những người định cư không vui thấy ông trở lại. Họ phàn nàn
Columbus cất giấu vàng để làm của riêng… và Columbus đã treo cổ một vài
người để ổn định tình thế. Nhận thấy cần sự giúp đỡ để quản lý việc định cư
ngang bướng của mình, Columbus gửi thư tới Tây Ban Nha để xin giúp đỡ.
Đáp lại thư của Columbus, vua Ferdinand II gởi Hiệp Sĩ Francisco de Bobadilla
đến đảo Hispaniola năm 1500. Bobadilla được trao quyền tới bắt Columbus; còng
tay mang về Tây Ban Nha (Theo tài liệu lưu trữ của Tây Ban Nha năm 2005).
Sau nhiều ngày điều tra, Columbus được trả tự do, nhưng chức thống đốc đã
lọt vào tay Nicolás de Ovando. Quá ấm ức về con đường biển đi tới Trung Quốc
và Nhật Bản, ông khóc lóc và nan nỉ Vua và Hoàng Hậu Isabella tài trợ cho ông
đi chuyến cuối cùng. Và ông may mắn thêm một lần nữa được chấp thuận.
Chuyến thứ tư: Khởi hành ngày 11-05-1502 bằng 4 tàu. Khi tới đảo Hispaniola,
những người định cư trên đảo không tiếp đón Columbus.
Từđảo Hispaniola, ông đi về phía Nam, với hy vọng lần này tìm ra Trung Quốc,
chẳng may đoàn tàu bị hư đầu năm 1503. Thêm vào, một trận bảo lớn càn quét
làm các tàu bị vỡ ra nhiều mãnh. Ông và một số người sống sót phải lên đảo ở
với thổ dân. Tháng 06-1504, Thống Đốc Ovando gởi hai tàu đi kiếm, và đã tìm
được họ tại đảo Jamaica. Ông trở lại Tây Ban Nha năm 1504 và chết năm 1506.
Sự khám phá ra đường biển đi từ châu Âu tới Ấn Độ đã mở cửa cho một thời
đại chủ thuyết thực dân toàn cầu tràn lan từ Âu sang Á. Với sự tham dự của Cathô-líc La-mã, tôn giáo được khai thác tối đa. Các linh mục được huấn luyện vai
trò gián điệp, gây mâu thuẫn tôn giáo, tạo nổi loạn, bạo động… đưa tới đàn áp
tôn giáo làm bằng cớ trước dư luận quốc tế, tạo ra lý do đánh chiếm thuộc địa.
Các giáo chỉ của Ca-thô-líc La-mã như Romanus Pontifex[3], Dum Diversas[4],
Dudum Siquidem…[5] cho phép bắt và buôn bán nô lệ Phi châu cũng được khai
thác tối đa. “Con Tàu Nô Lệ Mang Tên Jesus”[6] vượt Đại Tây Dương cũng liên tục
phân phối hàng chục triệu nô lệ Phi châu khắp nơi trên thế giới… Lòng tham của
các giáo hoàng La-mã còn gây thành sự tiệt chủng thổ dân Mỹ châu bằng các lối
giết người do nhà tranh đấu nhân quyền Bartolomé de las Casas diễn tả.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 7
GIÁM MỤC BARTOLOMÉ DE LAS CASAS VÀ NHÂN QUYỀN CỦA THỔ DÂN WEST INDIES
Ca-thô-líc La-mã có bốn dòng tu chính, là các dòng tu: Augustinians, Carmelites,
Franciscans, và Dominicans. Dòng tu Dominicans (Đa Minh) được sáng lập năm
1216. Các tu sĩ dòng Đa Minh thường được biết đến dưới cái tên “Friar Preachers”
hoặc “Black Friars”. Dòng Đa Minh được sáng lập bởi thánh Dominic, và được
Giáo Hoàng Honorius III công nhận năm 1216. Dòng Đa Minh cũng được gọi là
“Dòng Khất Sĩ” (Mendicant Order) bắt đầu từ năm 1221.
Bartolomé de las Casas (1484-1566) là một nhà sử học Tây Ban Nha, và cũng
là một tu sĩ “Sư Huynh” (Friar) dòng Đa Minh. Ông xuất hiện tại vùng West
Indies cùng thời với nhà thám hiểm Ca-thô-líc Christopher Columbus.
Có được một cơ hội nhìn thấy các linh mục thực dân Ca-thô-líc La-mã vô cảm
trước những cuộc nô lệ hóa và diệt chủng người thổ dân bản địa với mục đích
cướp đoạt đất đai, vàng, và các tài nguyên khác của họ, de las Casas dứt khoát
rời bỏ chiếc áo nhà dòng để học làm một linh mục. Mang chiếc áo linh mục, ông
nghĩ ông sẽ có một cơ hội tốt hơn để giúp đỡ những người thổ dân bất hạnh.
Năm 1512 hoặc 1513, de las Casas được thụ phong linh mục. Năm 1514, ông
từ bỏ Encomienda[7] để đáp ứng mối quan tâm ngày càng căng thẳng về sự đối
xử vô nhân đạo của các linh mục thực dân Ca-thô-líc đối với thổ dân.
Năm 1513, ông bị Vatican “lột chức” linh mục trả lại ông danh hiệu “Friar”. Và
ông phải làm “Friar” hơn một thập kỷ vì tội hoạt động nhân quyền. Trong thời
gian này, ông viết sách “History of the Indies”, nói về lịch sử Indies và những lời
tiên tri của ông để cho các thế hệ mai sau biết về việc Thiên Chúa sẽ trừng phạt
những kẻ có tham vọng xấu xa diệt chủng thổ dân West Indies[8].
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 8
Từ năm 1520 đến 1522, ông thất bại thiết lập các khu định cư mới mà nơi đó
người da trắng sẽ sống hoàn toàn bình đẳng với người thổ dân bản xứ.
Ngày 08-10-1529, giáo hoàng Clement VII ký giáo chỉ “Intra Arcana” bắt đầu
“tắm máu” thổ dân West Indies. Giáo lệnh tắm máu “rùng rợn” viết như sau:
Chúng tôi tin rằng, ngày nào còn ở trên trái đất, các ngươi bắt buộc với tất cả sự
quyết liệt làm cho các quốc gia man rợ biết đến Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn
loài, không bằng sắc lệnh, mà bằng vũ lực và quân đội khi cần để linh hồn của họ
được tham dự vào vương quốc trên thiên đàng (We trust that, as long as you
are on Earth, you will compel and with all zeal cause the barbarian nations
to come to the knowledge of God, the maker and founder of all things, not
only by edicts and admonitions, but also by force and arms, if needful, in
order that their souls may partake of the heavenly kingdom)[9].
Giáo chỉ Intra Arcana cho thấy thổ dân West Indies không có một lựa chọn
nào khác ngoại trừ con đường độc nhất là phải chết. Đó là con đường “máu” của
hàng triệu người thổ dân phải đổ xuống cho Giáo Hoàng Clement VII tắm!...
Dưới sự tranh đấu của de las Casas, năm 1530 vua Charles I ký một sắc lệnh
cấm săn bắt nô lệ thổ dân West Indies; tuy nhiên các conquistadors[10] và Vatican
không phản ứng; các chính phủ thực dân thuộc địa cũng làm ngơ. Ngày 02-06-
1537, Giáo Hoàng Pope Paul III ký giáo chỉ “Sublimis Deus”[11] bãi bỏ chế độ nô
lệ tại Tây Ấn, nhưng không ai thi hành và Pope Paul III cũng làm thinh.
Biết được trò đùa hèn hạ: “một bên ký sắc lệnh, một bên không thi hành”,
năm 1540, de las Casas rời West Indies trở lại Tây Ban Nha. Tại Tây Ban Nha,
ông dẫn đầu một tổ chức cải cách quy mô quy định mối quan hệ giữa các chủng
tộc, được gọi là “luật mới” với đông đảo quần chúng ủng hộ. Luật mới được thông
qua năm 1542, đòi thực thi giáo chỉ “Sublimis Deus”. Cùng lúc de las Casas cũng
tung ra bản tường trình “A Short Account of The Destruction of the Indies”.
Năm 1544, Vatican buộc de las Casas phải trở lại West Indies nhận chức Bishop
of Chiapas vùng Bắc Guatemala trong khi các cuộc tàn sát đang xảy ra khốc liệt.
Năm 1550, ông trở lại Tây Ban Nha trong cuộc tranh luận Valladolid”[12], đối
đầu với Linh Mục Học Giả Juan Gines de Sepúlveda, một trong những vấn đề
“human sacrifice” của người thổ dân mà ông phải rất khó khăn mới hạ được de
Sepúlveda. Đây là một cuộc tranh luận gây cấn và khó khăn nhất xảy ra tại Âu
châu lần đầu tiên. Kết quả đưa tới luật mới, chính phủ Tây Ban Nha phải tu chỉnh
từ luật năm 1542, cấm hẳn việc săn bắt thổ dân West Indies hoặc buôn bán thổ
dân West Indies làm nô lệ, đồng thời đòi thi hành giáo chỉ Sublimis Deus.
Mặc dù chế độ săn bắt nô lệ thổ dân châu Mỹ bị bãi bỏ, Vatican không thể
buông bỏ số tiền khổng lồ buôn bán nô lệ châu Á và châu Phi châu. Các giáo chỉ
Romanus Pontifex (1454)[3], Dum Diversas (1452)[4], và Dudum Siquidem (1493)[5]
vẫn không được thu hồi. “Con Tàu Nô Lệ Mang Tên Jesus”[6] vẫn thường xuyên
vượt Đại Tây Dương chở hàng triệu nô lệ châu Phi đi bán tại châu Mỹ.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 9
GIÁO HOÀNG CLEMENT VII TẮM MÁU THỔ DÂN WEST INDIES
“Một bản tường trình ngắn về sự diệt chủng thổ dân Indies” được viết bởi
Giám Mục Ca-thô-líc Bartolomé de las Casas Tây Ban Nha năm 1542 (xuất bản
lần đầu năm 1552) nói về sự ngược đãi một cách tàn nhẫn với mục đích diệt
chủng thổ dân West Indies để chiếm lấy đất đai và vàng của họ, vì những người
Tây Ban Nha bắt gặp người thổ dân trên đảo đeo vàng; và Vatican cũng muốn
diệt chủng họ (với giáo chỉ Intra Arcana). Bảng trình được soạn thảo để gởi cho
Hoàng tử Philip II Tây Ban Nha trong thời gian de las Casas tranh đấu cho người
thổ dân West Indies, cố gắng giúp cho họ thoát khỏi hiểm họa.
Bản tường trình là nỗ lực đầu tiên của Giám Mục de las Casas thời kỳ thuộc địa
để miêu tả về sự đối xử bất công mà người dân bản địa phải chịu đựng trong giai
đoạn đầu của chính sách thực dân Tây Ban Nha và các Giáo Hoàng La-mã. Trong
thời gian này La-mã vừa là một quốc gia lớn, cùng lúc cũng là một cơ sở tôn giáo
lớn, các Giáo Hoàng vừa là vua cũng vừa là Giáo Hoàng. Mục tiêu của Bartolomé
de las Casas là chống lại bộ ba: Tây Ban Nha - Ca-thô-líc La-mã - Bồ Đào Nha.
Bảng tường trình là nòng cốt cho việc thông qua dự luật mới của Tây Ban Nha
được gọi là “Luật Mới Năm 1542”, trong đó chế độ nô lệ bản địa lần đầu tiên bị
bãi bỏ trong lịch sử thuộc địa châu Âu. Nội dung bản tường trình (bản dịch) với
những hình ảnh do chính tay Giám Mục Bartolomé de las Casas vẽ:
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 10
Tây Ấn (West Indies) được khám phá năm 1492. Trong những năm sau, một số đông
người Tây Ban Nha đến định cư. Cho tới lúc này, 49 năm trôi qua kể từ khi Tây Ấn bị
người Tây Ban Nha xâm chiếm. Đảo Hispaniola với chu vi khoảng 600 dậm, là đảo lớn
nhất. Chung quanh đảo Hispaniola có một số đảo lớn và rất nhiều đảo nhỏ khác; và tất
cả các hòn đảo, như chúng tôi thấy, rất đông người thổ dân bản địa. Hòn đảo lớn nhất
mà chúng tôi đang đứng trên, có lẽ là nơi tập trung nhiều nhất thổ dân trên thế giới. Đất
đai trên đảo Hispaniola có lẽ hơn 200 dặm vuông; và mỗi ngày, nhiều hòn đảo khác cũng
được khám phá thêm. Cho tới giờ phút này, các đảo được khám phá đã chằng chịt như
một tổ ong. Có thể nó Thiên Chúa đã tạo ra đông người nhất tại đây.
Đối với vũ trụ vô tận của nhân loại, những người thổ dân ở đây là những người thành
thật, vô tội, hiền lành, vâng lời, trung thành với chủ của họ, và họ cũng trung thành với
người Thiên Chúa giáo Tây Ban Nha mà họ phục vụ. Bản tánh tự nhiên của họ là khiêm
tốn, kiên nhẫn, hòa ái, không nuôi dưỡng thù hận, không sinh sự, không dễ bị kích động,
và cũng không gây gổ. Những người này không có bản chất ganh ghét, hoặc mong muốn
trả thù bất cứ ai trên thế giới, bởi vì họ rất yếu và có tính ân cần. Họ ít có khả năng chịu
đựng lao động nặng và sẽ chết sớm cho dù họ không có vấn đề gì về bệnh hoạn. Các con
trai của các nhà quý tộc giữa chúng ta, khi lớn lên trong mọi thú vui của cuộc sống,
không được tinh tế như những người này, ngay cả những người trong số họ, những người
có giai cấp thấp nhất trong giai cấp lao động. Họ còn là những người nghèo, vì sở hữu
của họ rất ít do họ không ham muốn sở hữu những gì thuộc về thiên nhiên. Vì lý do này,
họ không kiêu ngạo, cay đắng, hay tham lam. Nghĩ ngơi và làm việc của họ là như vậy,
giống như thức ăn của các thánh cha trong sa mạc, hầu như không thể được tiêu dùng
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 11
một cách tiết kiệm, ít ỏi, và nghèo nàn hơn nữa được. Về ăn mặc của họ, nói chung là
trần truồng, chỉ đủ để che một phần âm hộ của họ. Và họ chỉ che phủ vai của họ bằng
một miếng vải vuông không quá kích thước 2 varas (đơn vị đo lường xưa của Tây Ban
Nha). Họ không có giường, nhưng ngủ trên một loại thảm hay một thứ gì khác giống như
một tấm lưới treo, gọi là bamacas. Họ ăn ở rất sạch sẽ, với cảnh giác, đầu óc thông
minh, ngoan ngoãn, và cởi mở với giáo lý, rất thích hợp để nhận đức tin Ca-thô-líc thánh
thiện của chúng ta, họ đáng được ưu đãi bằng tinh thần đạo đức khôn ngoan và thánh
thiện của chúng ta. Và một khi họ nghe loan báo Đức Tin, họ khăng khăng tham dự để
hiểu biết về bí tích của Giáo Hội, và để quan sát sự sùng bái thánh linh. Thực ra, các nhà
truyền giáo ở đây cần phải được Thiên Chúa ban tặng sự kiên nhẫn để đáp ứng sự háo
hức của họ. Một số người Tây Ban Nha thế tục sống ở đây nhiều năm nói lòng tốt của
người thổ dân là không thể phủ nhận. Họ sẽ là những người tài năng nếu họ hiểu biết
Thiên Chúa một cách chân thật, họ sẽ là những người may mắn nhất trên thế giới.
Họ giật trẻ em còn đang bú trước ngực của người mẹ, nắm đứa bé bằng hai chân đập đầu vào vách đá
hoặc ném trẻ em xuống sông. Họ cười rộ mỗi lần có người ném đứa trẻ vào nồi nước đung sôi, “Luột
nó, nó là con của ma quỷ!” nhiều đứa bé bị chém chung với bà mẹ chỉ bằng một nhát gươm giết cả hai
mẹ con một lượt. Họ thực hiện một số giá treo cổ rộng và thấp mà chân nạn nhân bị treo cổ chỉ hỏng
trên mặt đất một ít làm thành một lô 13 người để kỷ niệm ngày lễ “Đấng Cứu Chuộc và mười hai tông
đồ”. Sau đó họ đốt gỗ dưới chân của nạn nhân, và đốt khi nạn nhân đang còn sống…
Giám Mục Bartolomé de las Casas
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 12
Tuy nhiên vào đàn chiên này, vào vùng đất của những người thổ dân nhu mì bị ruồng
bỏ một cách trực tiếp này. Những người Ca-thô-líc Tây Ban Nha, họ giống như những
con thú hoang, giống như đàn chó sói, cọp beo, sư tử… bị bỏ đói nhiều ngày. Và những
người này đã luôn cư xử một cách hung tợn như vậy mà không có một chút thay đổi nào
khác trong suốt bốn mươi năm qua; họ đã không thay đổi cho đến thời điểm hiện tại; và
họ cũng vẫn còn đang tiếp tục hoạt động như một bầy thú hoang, giết hại, khủng bố, tra
tấn, đánh đập người thổ dân cho tới sanh bệnh mà chết để tiêu diệt các dân tộc bản địa.
Họ làm tất cả những điều này bằng những cách thức lạ lùng nhất, bằng những phương
pháp mới độc ác nhất, mà từ trước tới nay ít người nghe thấy hoặc biết đến. Và họ đã tàn
bạo cho đến một mức độ mà đảo Hispaniola trước đây có một dân số hơn ba triệu
(3,000,000) người, ngày nay chỉ còn sống sót không tới hai trăm (200) người.
Với những người khác, tất cả những người mà họ muốn bắt sống, họ chặt cụt tay và treo các bàn tay
quanh cổ của nạn nhân, rồi nói: “Go now, carry the message”, nghĩa là: “Hãy đi ngay, hãy đưa tin cho
những người thổ dân đã bỏ trốn lên núi”…
Giám Mục Bartolomé de las Casas
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 13
Chiều dài đảo Cuba bằng khoảng cách từ Valladolid tới Roma; ngày nay dân số hoàn
toàn giảm. Đảo San Juan (Puerto Rico) và Jamaica là hai trong số những hòn đảo lớn
nhất, là những hòn đảo sản xuất nhiều và hấp dẫn nhất; cả hai hiện đang bỏ hoang vì bị
tàn phá. Phía bắc của Cuba, Hispaniola và quần đảo láng giềng Lucayos, bao gồm hơn
60 hòn đảo nhỏ, gồm các đảo của quần đảo Gigantes, và bên cạnh vô số các hòn đảo
khác, cả nhỏ lẫn lớn. Ít nhất là vẻ đẹp và sự màu mỡ của nó hơn các khu vườn của vua xứ
Seville. Có các vùng đất lành mạnh nhất trên thế giới, từng là nơi sinh sống cho hơn năm
trăm ngàn (500,000) người thổ dân, ngày nay đang bị bỏ hoang, không có bất cư một
sinh vật nào có thể sống nổi. Tất cả mọi người đều bị giết hoặc chết sau khi bị bắt đưa
đến đảo Hispaniola để bán làm nô lệ. Khi người Ca-thô-líc Tây Ban Nha thấy một số
những người trốn thoát, họ gửi một con tàu tới để tìm kiếm, và họ đã bỏ ra ba năm tìm
kiếm những người trốn thoát trên các đảo lân cận để giết cho tiệt chủng. Có một người
Ca-thô-líc tốt bụng giúp họ thoát nạn, lấy lòng thương xót để dành họ lại họ cho Chúa
Kitô Christ; trong số này có 11 người, và những người đó tôi có biết.
Những người bỏ trốn lên núi thường được xử chung với các thủ lĩnh và các quý tộc: họ thực hiện một tấm
lưới sắt có các gai nhọn đặt lên chĩa ba, sau đó họ cột nạn nhân vào lưới và thắp sáng một ngọn lửa cháy
âm ỉ phía dưới, để từng chút từng chút, những kẻ bị trói ở trên tấm lưới sẽ hét lên một cách tuyệt vọng và
đau khổ, và linh hồn của họ sẽ để lại sau khi họ chết...
Giám Mục Bartolomé de las Casas
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 14
Hơn ba mươi hòn đảo khác trong vùng lân cận San Juan, hầu hết đều có cùng chung
một lý do dân số giảm, và mặt đất trở thành hoang vắng. Trên những hòn đảo mà tôi ước
tính có tới khoảng hai ngàn một trăm (2,100) dặm vuông đất bị hủy hoại và bỏ hoang,
dân số tụt xuống gần như trống rỗng, như không còn ai ở trên đó.
Đối với các đại lục lớn, lớn gấp mười lần Tây Ban Nha, thậm chí bao gồm cả Aragon
và Bồ Đào Nha, có nhiều đất hơn khoảng cách từ Seville tới Jerusalem, hoặc hơn hai
ngàn hải lý, chúng tôi chắc chắn người Ca-thô-líc Tây Ban Nha, với sự độc ác và hành vi
ghê tởm của họ, họ đã tàn phá đất đai và tiêu diệt những người có lý trí sống trên đó.
Chúng tôi có thể ước tính rất chắc chắn và trung thực, rằng, trong bốn mươi năm qua,
với những hành động đê tiện của người Kitô giáo Ca-thô-líc, họ đã giết oan hơn mười
hai triệu (12,000,000) người, bao gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Thật ra, để tránh tự
đánh lừa, số người bị giết phải nói là mười lăm triệu (15,000,000) người mới đúng.
Và như vậy, họ đã tước đoạt sự sống và linh hồn của người bản xứ, như tôi đã đề cập hàng triệu
lần, người thổ dân chết mà không có đức tin, và không có lợi ích của các bí tích...
Giám Mục Bartolomé de las Casas
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 15
Cách phổ biến chủ yếu của người Tây Ban Nha, là họ tự gọi họ là người Thiên Chúa
giáo Ca-thô-líc, là những người tới để tiêu diệt các quốc gia đáng thương và xóa sạch
các quốc gia đáng thương ra khỏi trái đất, bằng cách bất công tiến hành cuộc chiến
tranh tàn bạo và đẫm máu. Khi họ giết hết tất cả những người chiến đấu cho sự sống của
họ để thoát khỏi sự tra tấn mà họ phải chịu đựng, là để nói, họ giết tất cả những người
bản xứ cai trị và những người trẻ tuổi (người Tây Ban Nha thường chỉ để phụ nữ và trẻ
em sống sót, là những người sẽ chịu đựng kiếp làm nô lệ khó khăn và cay đắng nhất của
con người), họ bắt làm nô lệ bất cứ ai còn sống sót. Với phương pháp địa ngục và độc tài
này, họ làm nhục và làm suy yếu vô số những quốc gia đáng thương.
Những người đàn bà có thai hoặc đang cho con bú, phụ nữ, trẻ em, người già, người trẻ… hoặc bất
kỳ những người nào khác họ có thể tóm được, họ sẽ ném vào hố cho đến khi cái hố được lấp đầy đủ
thứ người bị đâm, bị chém, hoặc chết, hoặc sống… cho tới đầy hố rồi họ mới lấp đất lên!…
Giám Mục Bartolomé de las Casas
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 16
Lý do người Kitô giáo Ca-thô-líc giết và tiêu hủy một số lượng vô hạn linh hồn người
thổ dân là vì họ có một mục đích sâu xa, là để chiếm lấy vàng, và cũng để làm nổi bật
chính họ bằng sự giàu có trong một thời gian ngắn, và do đó cũng để làm gia tăng bất
động sản không tương xứng với công lao của họ. Nên giữ trong tâm trí rằng sự tham lam
của người Ca-thô-líc là vô bờ bến, là vĩ đại nhất chưa từng thấy trên trái đất, là nguyên
nhân biến họ thành kẻ hung ác. Và cũng có thể, vì những vùng đất đó rất phong phú và
vui vẻ, người thổ dân bản địa rất hiền lành và chất phát, và do đó họ rất dễ nghe lời, nên
người Tây Ban Nha không còn nghĩ họ là con thú. Và tôi nói lên điều này từ sự hiểu biết
của tôi với các hành vi của họ mà tôi đã chứng kiến. Nhưng tôi không nói “hơn dã thú”,
lạy Chúa, người ta thường đối xử với con thú với một số tôn trọng; tôi muốn nói thay vì
giống như cục “cứt” ở trên quảng trường. Và như vậy, họ đã tướt đoạt sự sống và linh
hồn của người bản xứ, như tôi đã đề cập hàng triệu lần, người thổ dân chết mà không có
đức tin, và không có lợi ích của các bí tích. Đây là một thực tế được biết nhiều nhất và
chứng minh ngay cả các thống đốc bạo chúa, biết và thừa nhận họ là kẻ giết người. Và
không bao giờ có những người bản địa ở tất cả xứ Indies tuyên bố chống người Ca-thô-
líc Tây Ban Nha cho đến khi những người Ca-thô-líc Tây Ban Nha, trước tiên và nhiều
lần, xâm lược một cách tàn bạo chống lại họ hay chống lại các quốc gia láng giềng của
họ. Từ buổi ban đầu, họ coi người Tây Ban Nha như thiên thần từ trên trời xuống. Chỉ
sau khi người Kitô giáo Ca-thô-líc Tây Ban Nha sử dụng bạo lực chống họ, giết họ, cướp
của và tra tấn họ… đã làm họ phải đứng lên chống lại chúng ta....
Đảo Hispaniola là nơi người Tây Ban Nha đầu tiên cập bến như tôi đã nói. Ở đây
những người Kitô giáo Ca-thô-líc gây ra tội ác tàn phá và áp bức, lần đầu tiên chống lại
các dân tộc bản địa. Đây cũng là vùng đất đầu tiên tại Thế Giới Mới bị phá huỷ và thổ
dân trên đó bị giết gần tiệt chủng bởi người Ca-thô-líc. Và ở tại đây họ cũng bắt đầu
khuất phục phụ nữ và trẻ em. Họ cướp con nít của người thổ dân đem đi nơi khác và sử
dụng chúng theo cách mà họ muốn, họ bắt con nít của thổ dân phải ăn các thực phẩm do
họ cung cấp bằng mồ hôi và sự mệt nhọc của cha mẹ chúng. Người Tây Ban Nha đã
không hài lòng với những gì mà người thổ dân cho đó là quyền riêng tư và tùy theo khả
năng của họ, đó là thức ăn luôn luôn quá ít, trong khi khẩu vị của người Ca-thô-líc rất
lớn. Người Ca-thô-líc ăn và tiêu thụ trong một ngày một lượng lớn thức ăn đủ để nuôi ba
ngôi nhà nơi sinh sống của mười người thổ dân trong một tháng. Và họ cũng thực hiện
các hành vi khác bằng bạo lực và áp bức khiến người thổ dân nhận ra rằng những người
này đã không đến từ thiên đàng. Và một số người thổ dân bắt đầu giấu thức ăn của họ
trong khi những người khác giấu vợ và con của họ, và những người khác nữa chạy trốn
lên núi để tránh sự đối xử tàn ác khủng khiếp của người Kitô giáo Ca-thô-líc.
Và người Kitô giáo Ca-thô-lic tấn công người thổ dân bằng đánh đập, cho đến khi họ
cầu cứu tới người có tước vị của ngôi làng. Sau đó, họ táo bạo và xấu hổ hãm dâm vợ
của người thổ dân có chức vị ngay trước mặt của người chồng.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 17
Họ không chỉ đâm, mà còn chặt chân tay người đàn bà, cắt nạn nhân của họ ra từng mảnh như cắt
thịt cừu trong lò mổ.
Giám Mục Bartolomé de las Casas
Bắt đầu từ thời điểm đó trở đi người thổ dân tìm cách để ném các người Ca-thô-líc ra
khỏi lãnh thổ của họ. Họ cầm vũ khí, nhưng vũ khí của họ rất yếu (vì các cuộc chiến
tranh của người thổ dân với nhau không khác gì trò chơi của trẻ em). Và người Ca-thô-
líc có ngựa, kiếm, súng ống, và áo giáp… Họ bắt đầu thực hiện thảm sát tàn nhẫn người
thổ dân. Họ tấn công các thị trấn, không phân biệt trẻ em hay phụ nữ. Họ giết ngay cả
người đang mang thai, hoặc ngay cả người đang sinh đẻ. Họ không chỉ đâm, mà còn chặt
chân tay người đàn bà, cắt nạn nhân của họ ra từng mảnh như cắt thịt cừu trong lò mổ.
Với một nhát kiếm, họ có thể chém một người ra làm hai khúc, hoặc có thể cắt đầu hoặc
chém lòi ruột nạn nhân. Họ giật trẻ em còn đang bú trước ngực của người mẹ, nắm đứa
bé bằng hai chân đập đầu vào vách đá hoặc ném trẻ em xuống sông. Họ cười rộ mỗi lần
có người ném đứa trẻ vào nồi nước đung sôi, “Luột nó, nó là con của ma quỷ!” nhiều
đứa bé bị chém chung với bà mẹ chỉ bằng một nhát gươm giết cả hai mẹ con một lượt. Họ
thực hiện một số giá treo cổ rộng và thấp mà chân nạn nhân bị treo cổ chỉ hỏng trên mặt
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 18
đất một ít làm thành một lô 13 người để kỷ niệm ngày lễ “Đấng Cứu Chuộc và mười hai
tông đồ”. Sau đó họ đốt gỗ dưới chân của nạn nhân và đốt khi nạn nhân đang còn sống.
Nhiều người bị vấn rơm hoặc bị bọc toàn bộ cơ thể bằng rơm, và đốt. Với những người
khác, tất cả những người mà họ muốn bắt sống, họ chặt cụt tay và treo các bàn tay quanh
cổ của nạn nhân, rồi nói: “Go now, carry the message”, nghĩa là: “Hãy đi ngay, hãy
đưa tin cho những người đã bỏ trốn lên núi”. Những người bỏ trốn lên núi thường được
xử chung với các thủ lĩnh và các quý tộc: họ thực hiện một tấm lưới sắt có các gai nhọn
và đặt lên chĩa ba, sau đó họ cột nạn nhân vào lưới và thắp sáng một ngọn lửa cháy ầm ỉ
phía dưới, để từng chút một, những kẻ bị trói ở trên tấm lưới sẽ hét lên một cách tuyệt
vọng và đau khổ, và linh hồn của họ sẽ để lại sau khi họ chết...
Sau khi cuộc tàn sát diệt chủng kết thúc, người thổ dân sống sót chỉ còn có một ít đàng
ông, một số phụ nữ và trẻ em. Những người này được phân phối giữa các người Ca-thô-
líc để làm nô lệ. Các “repartimiento”[13] được phân phối theo cấp bậc và tầm quan trọng
mà người Ca-thô-líc mong muốn. Một số thổ dân có thể là ba mươi, bốn mươi, hoặc cao
lắm là một trăm, hoặc hai trăm người; và bên cạnh đó, người Ca-thô-líc còn phải xem
xét những gì có lợi cho tên bạo chúa mà họ gọi là Thống Đốc (Governor). Họ viện lý do
là những người thổ dân được phân phối là để được hướng dẫn trong các bài viết về Đức
Tin Kitô giáo Ca-thô-líc. Nếu những người thổ dân là một người ngu ngốc, người đó có
thể được chăm sóc linh hồn! Và cách thức mà họ chăm sóc là gởi những người đó đến
làm việc tại các hầm mỏ như đào vàng, là một công việc lao động không thể chịu đựng
nổi. Phụ nữ thì họ gởi vào các trại chăn nuôi lớn để cuốc đất, trồng trọt, mà công việc
chỉ phù hợp cho những người đàn ông mạnh mẽ. Họ cũng không cho đàn ông hoặc đàn
bà thức ăn, ngoại trừ chút ít rau cải và đậu. Sữa trong vú của các bà mẹ thổ dân cũng
khô cạn, và trẻ còn bú chết trong một thời gian ngắn. Kể từ khi những người đàn ông và
phụ nữ bị tách ra, trẻ sơ sinh không được sinh ra vì họ không có quan hệ tình dục. Đàn
ông chết tại các hầm mỏ; đàn bà chết tại các trại chăn nuôi vì kiệt sức và đói… Và do đó
thổ dân trên các hòn đảo Tây Ấn giảm xuống nhanh chóng. [14];[15];[16];[17]
Giám Mục Bartomlomé de las Casas
VATICAN CẦN RẤT NHIỀU GIÁM MỤC NHƯ GIÁM MỤC BARTOLOMÉ DE LAS CASAS
Theo ước tính của đại học Yale University tại Hoa Kỳ, tổng số nạn nhân chết
dưới bàn tay của Pol Pot tổng kết năm 2009, khoảng 1.38 triệu người. Con số
này quá thấp so với cuộc diệt chủng thổ dân bản địa tại West Indies.
Cuộc diệt chủng thổ dân bản địa West Indies bắt đầu bằng giáo chỉ Intra
Arcana do Giáo Hoàng Clement VII ký ngày 08-10-1529, và kéo dài cho tới khi
giáo chỉ Sublimis Deus bãi bỏ chế độ nô lệ tại West Indies của Giáo Hoàng
Clement III ký ngày 02-06-1537, nhưng giáo chỉ Sublimis Deus không được thi
hành nghiêm chỉnh cho tới khi tranh luận Valladolid kết thúc năm 1551. Căn cứ
theo tường trình “A Short Account of the Destruction of the Indies” của de las
Casas, từ 12 triệu cho tới 15 triệu người thổ dân Indies bị giết dưới bàn tay của
Giáo Hoàng Clement VII. Có nghĩa là số người bị giết bởi Giáo Hoàng Clement VII
hơn mười (10) lần số người bị giết dưới bàn tay của Pol Pot.
COPYRIGHT © 2016 DuyenSinh 19
Bộ ba: “Tây Ban Nha – Ca-thô-líc La-mã – Bồ Đào Nha” ký với nhau hiệp ước
Treaty of Tordesillas phân chia thế giới thành những khu vực để đánh chiếm
thuộc địa, do đó không có lý do gì sự hợp tác của họ không ăn khớp với nhau.
Thí dụ như trường hợp Giáo Hoàng Pope Paul III ký giáo chỉ Sublimis Deus bãi bỏ
chế độ nô lệ thổ dân West Indies. Giáo chỉ Sublimis Deus không được thi hành
nhưng Giáo Hoàng Pope Paul III cũng không phản ứng. Không phản ứng là tại
sao? Là tại vì Tây Ban Nha và Ca-thô-lic La-mã cùng là thực dân như nhau? Họ
đã “ăn ý” với nhau từ lâu qua hiệp ước Treaty of Tordesillas?
Giám Mục Bartolomé de las Casas không phải là một linh mục luôn luôn chỉ
biết vâng lời. Ông biết phân biệt cái đúng và cai sai. Ông biết diệt chủng thổ dân
West Indies là một tội ác, cho dù nguồn gốc gây ra tội ác phát xuất từ các Giáo
Hoàng La-mã. Và ông đã thẳng thắn làm việc hết sức mình chống lại tội ác đó,
bằng tiếng gọi từ lương tâm của ông: Lời kêu gọi đích thực của Thiên Chúa!
Nhìn lại thực tế, các tín đồ Ca-thô-líc ngày nay mắc phải một sai lầm, là chỉ
biết vâng lời một cách mù quáng, mà không biết sử dụng lý trí của mình để phân
biệt cái gì nên làm và cái gì không nên làm, mà trường hợp của Giám Mục
Bartolomé de las Casas là một bằng chứng cụ thể để cho mọi tín đồ noi gương.
Nếu một mai Vatican tới thời mạt vận, những con chiên chỉ biết vâng lời sẽ là
những con vi trùng nhỏ li ti góp phần đục thủng tim gan của con sư tử chúa sơn
lâm, mà không là phải những kẻ thực sự cứu sống con sư tủ chúa sơn lâm. Chỉ
có những người như Giám Mục Bartolomé de las Casas mới có thể cứu sống nổi
Vatican mà thôi!
DuyênSinh Đông 2016
ĐỌC BÀI LIÊN HỆ:
GHI CHÚ:
[1] http://www.duyensinh.com/files/pdf/DOI_THOAI_VOI_NGUOI_DAO_THIEN_CHUA_VIET_NAM_1.pdf
[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Treaty_of_Tordesillas
[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Romanus_Pontifex
[4] https://en.wikipedia.org/wiki/Dum_Diversas
[5] https://en.wikipedia.org/wiki/Dudum_siquidem
[6] https://www.youtube.com/embed/s0tKvRl-vM8
[7] https://en.wikipedia.org/wiki/Encomienda
[8] http://www.u-s-history.com/pages/h1120.html
[9] https://en.wikipedia.org/wiki/Intra_Arcana
[10] https://en.wikipedia.org/wiki/Conquistador
[11] https://en.wikipedia.org/wiki/Sublimis_Deus
[12] https://en.wikipedia.org/wiki/Valladolid_debate
[13] https://en.wikipedia.org/wiki/Repartimiento
[14] http://www.historyisaweapon.com/defcon1/delascasas.html
[15] https://www.uni-muenster.de/FNZ-Online/expansion/europ_expansion/quellen/casas.htm
[16] http://nationalhumanitiescenter.org/pds/amerbegin/contact/text7/casas_destruction.pdf
[17] https://evresourcesite.wikispaces.com/De+Las+Casas