Bernard Berenson: Phép lạ xẩy ra đối với những
người tin chúng. Nếu không tại sao Mary đồng trinh không hiện ra trước các
vị Lạt Ma, người Hồi giáo, Ấn giáo, những người chưa bao giờ biết đến bà
ta
(Miracles happen to those who believe in them. Otherwise why does not the Virgin Mary appear to Lamaists, Mohammedans, or Hindus who have never heard of her?)
Sự thật về "phép lạ hiện thân của bà Mary" ở Lộ Đức (Lourdes) ra sao? Chúng ta có thể tìm thấy chi tiết trong cuốn “Lộ Đức: Sự thật về những cái thấy của Bernadette. Tính cách thương mại của hang đá (Lourdes)” (Lourdes: La Vérité sur les Visions de Bernadette. Le mercantilisme de la Grotte), của André Lorulot .
Sau đây tôi xin trích dẫn những đoạn quan trọng về cái gọi là "phép lạ" ở Lourdes.
"Giáo hội có những phương tiện quyền thế để truyền bá những chuyện không tưởng. Giáo hội phát hành hàng triệu cuốn sách chứa đầy những lời dối trá trắng trợn và những sai lầm cố ý.
Thí dụ, cuốn sách nổi tiếng của Henri Lasserre viết về Đức Mẹ ở Lộ Đức đã được phát hành tới một triệu cuốn. Thực ra, văn phẩm thuộc loại đó chỉ nhằm những người trí tuệ thô thiển. Đó là tác phẩm của một tín đồ mù quáng và cuồng tín.
Một Linh mục dòng Tên, ông Cros, thú nhận rằng "cái mớ tài liệu đưa cho Henri Lasserre ngày trước" thực sự trống rỗng. "Không có gì trong đó có thể dùng để viết một cách xác thực về câu chuyện hiện thân của Đức Mẹ."
Larrerre giới thiệu Francois Soubirous (cha của Bernadette) như là một con người gương mẫu. Trái lại, Linh mục Cros biết rõ rằng, đó chỉ là một tên nghiện rượu, mang tiền của gia đình đi la cà tửu quán uống rượu, vào tháng 3, 1858, đã bị tù vì tội ăn cắp.
Em nhỏ Bernadette Soubirous, con gái tên nghiện rượu kể trên, cùng với vài đứa bạn đi kiếm củi.
Khi tới gần cái hang, em nhìn thấy một người đàn bà đẹp "không giống người nào trên trái đất" mỉm cười. Em quỳ xuống. Người đàn bà kia tay làm dấu Thánh giá.
Chủ nhật tới, em trở lại cái hang trên cùng mấy đứa bạn. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện. Sau một hồi, mặt Bernadette rạng rỡ lên. Em lại thấy người đàn bà áo trắng kia xuất hiện. Các bạn em không ai thấy cả nhưng xúc động trước cảnh tượng ngây ngất xuất thần của em bé chăn cừu (Bernadette).
Người đàn bà mà Bernadette nhìn thấy trong hang cũng đọc riêng cho em ba điều bí mật. Người ta đã không tiết lộ ba điều bí mật này.
Làm sao mà Bernadette có thể nhớ được những điều trên (giả thử có người thực sự đọc cho em điều gì đó)? Trí nhớ của em nhỏ đáng thương kia rất kém cỏi đến độ em không thể nhắc lại cho đúng hai tiếng "Immaculée Conception" (Thụ thai vô nhiễm).
Bernadette đã mang tới một mảnh giấy và một cái bút chì để Đức Mẹ đồng trinh viết. Nhưng "Bà" đã lẩn tránh, không viết và thật là đáng tiếc. Chúng ta đã có thể có được một văn kiện tỉ mỉ, chắc chắn là đáng tin cậy hơn là những lời tả lại của em bé nhà quê. Nhưng Bernadette không biết viết, và đó là lý do, lý do duy nhất, bắt em phải trình lại mảnh giấy còn trinh nguyên.
"Hãy nói với những Linh mục là phải xây một nhà thờ ở đây và mọi người phải diễn hành đến đó."
Những lời trên, theo Bernadette, là của người đàn bà đã xuất hiện, không thể làm các ông Linh mục phật ý. Tới đây, âm mưu đã rõ rệt.
Khi người ta làm cho Đức Mẹ phát ngôn thì, do một sự trùng hợp khó xử, bao giờ cũng là để phục vụ quyền lợi của giới giáo sĩ.
L.M. Dominique Peyramale Tất cả cái trò hề đó đã được Linh mục Peyramale ở Lourdes (Lộ Đức) dàn dựng và sau đó được giám mục Laurence ở Tarbes khuyến khích và ủng hộ .
Bernadette đã được hai linh mục khác, LM Ader và LM Ponian chuẩn bị tư tưởng và mớm lời.
Người ta đã đem cô gái nhỏ bệnh hoạn tới một làng nhỏ, Bartrès, để săn sóc.
Thật là khá thú vị khi ta nhận xét là Bà đồng trinh luôn luôn chọn những tâm hồn mộc mạc để giao phó riêng những bí mật.
Tại sao Bà đồng trinh lại chỉ xuất hiện trước em nhỏ bệnh hoạn đó?
Ngoài Bernadette ra còn có hàng trăm, hàng ngàn người. Bà đồng trinh có thể làm cho sự thổ lộ của mình có một giá trị nổi bật hơn nếu xuất hiện trước tất cả mọi người một cách không ai có thể nghi ngờ và để lại một vài văn kiện vô hiệu hóa mọi sự phản đối? Tại sao chỉ chọn những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần?
Vậy thì, những ảnh tượng Bernadette nhìn thấy đã được sắp xếp một cách hoàn toàn từ trước bởi Linh mục Ader, vì, ít lâu sau những việc làm vụng về đó (mang Bernadette đi xa để chuẩn bị; TCN), Bernadette trở lại Lourdes để phóng mình vào những cơn hoang tưởng cuồng loạn.
Thật ra, ngày 28 tháng 12, 1857 (45 ngày trước lần xuất hiện đầu tiên) bộ Tư Pháp đã biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra. Quan Trưởng Tòa ở Pau, ông Falconnet, đã gửi cho ông Tòa ở Lourdes một văn thư báo trước chuyện này.
"Tôi được biết rằng có những biểu lộ về một nhân vật siêu nhiên và mang tính chất của phép lạ, đã được sửa soạn để đưa ra vào dịp cuối năm. Tôi yêu cầu ông hãy để ý canh chừng sự thực về những việc này.""
Đó là đại cương về hiện tượng Lourdes. Trong cuốn sách của Lorulot
có đầy đủ chi tiết về những sự dàn dựng của giới Linh mục về hiện tượng
Lourdes, dựa theo rất nhiều tài liệu nghiên cứu về hiện tượng này cũng
như những tài liệu của chính quyền địa phương. Nhưng tất cả những
sự thực này đều không làm giáo hội lo ngại vì "giáo hội đã quá
thông thạo phương cách bóp nghẹt những vụ gây tai tiếng"
(...sans inconvénient de l'Église: elle est si experte à étouffer
les scandales.)
Một mặt khác, ở Lourdes, "người ta" đã khai thác triệt để sự mê tín của quần chúng để thu vào những nguồn lợi khổng lồ. Giáo hội không làm gì để ngăn cản, trái lại còn khuyến khích.
Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của André Lorulot (Ibid., trg. 7):
" Cái xí nghiệp Lourdes cung cấp cho giáo hội những nguồn lợi vật chất mà giáo hội dùng trong chính trị nhơ bẩn và mờ ám.
Cái hang đá (Lourdes) không chỉ mang những lợi tức đến cho công đoàn. Nó còn là một phương tiện để duy trì và phát triển sự cuồng tín, gia tăng cường độ ngu xuẩn, đẩy sự tin vào siêu nhiên đến cực độ.
Chúng ta thấy ở đó mọi dạng khai thác. Mới đây giáo sư A. Chide chứng tỏ rằng đĩ điếm rất phát triển ở Lourdes. Và tôi không nói đến vô số các cha xứ, linh mục tới đây "như là một hỏa tiễn" với các cô "cháu gái" hay tệ hơn nữa.
Nếu các bạn có đi tới Lourdes thì hãy cẩn thận và đừng tin ở đám người cuồng tín đó, những người này thực sự là những con vật hung hăng, đầu óc ngu đần bị thống trị bởi giáo hội và không đủ khả năng để hiểu một lý lẽ có ý nghĩa.
Chúng ta phải đi tới Lourdes - và biết quan sát một cách bình tĩnh với óc phán đoán - mới nhận ra tầm rộng lớn của căn bệnh tôn giáo."
Và sau đây là một đoạn trong cuốn Cái nhìn của một linh mục
hiện đại về giáo hội lỗi thời của ông ta (A Modern Priest Looks
at his Outdated Church, trg.31,) tác giả là Linh Mục James Kavanaugh:
"Tôi đã đi tới Lourdes ở miền Nam nước Pháp. Tôi đứng trong cái công trường rộng lớn đằng trước thánh đường và quan sát những tín đồ Công giáo ở khắp nơi trên thế giới chờ đợi một ân sủng đặc biệt của cái đền thờ thiêng liêng này. Tôi bị các bà người Ý đầu đội khăn xô đẩy, những người Đông Âu to tiếng thì thầm những lời cầu nguyện làm cho tôi sao lãng. Tôi thấy những người bệnh hoạn nằm trên cáng, những nhà kinh doanh Mỹ với những chiếc sơ mi trắng. Tôi thấy những linh mục trong những bộ áo thầy tu của thế giới, những người Phi Châu hồ hởi trong các bộ quần áo sặc sỡ. Nhưng phần lớn là tôi thấy những bộ mặt nhăn nheo, nói lên một cách thành thực sự đau đớn của họ. Họ đã tới để xin một ân huệ, giống như những đám người Hồi Giáo tại nơi hành hương, và để hưởng một sự tiếp xúc đặc biệt với Gót của họ. Họ uống nước ở đó, nổi tiếng về những tác dụng lạ lùng. Họ mua nước đựng trong những chai plastic để mang về nhà (và để biếu. TCN). Họ mua từng rổ tràng hạt và mề đay và nhờ những bàn tay mập mạp nhễ nhại mồ hôi của các linh mục ban phúc lành cho những thứ này. Họ đông như châu chấu, cúi xuống ngấu nghiến từng cọng ân sủng đặc biệt. Họ hôn chân các ngôi tượng và rên rỉ trong những đền thờ mốc mếch. Họ thú tội bằng đủ mọi thứ tiếng và nhai nhóp nhép phó mát của miền núi. Rồi, giống như một đàn cừu vĩ đại đã no nê hài lòng, họ về nhà đi ngủ. Và tôi cũng về nhà đi ngủ, cũng khó chịu và rối răm bởi sự mê tín như là tôi đã chứng kiến vào một ngày mùa thu đó khi đội banh Spartans thắng đội banh Rome. (Đội banh Rome, theo lời kể của Linh Mục Kavanaugh, trước khi ra quân, quỳ trước nhà thờ yêu cầu được Linh Mục ban phép lành và cho ăn bánh Thánh, hiệp thông với Thượng đế để Thượng đế phù hộ cho thắng trận đấu, nhưng rút cuộc bị thảm bại. TCN). Tôi không những chỉ khó chịu và rối răm mà tôi còn cảm thấy thật là xấu hổ. Đó là giáo hội của tôi, và họ là những tín đồ mà tôi góp phần đào tạo, những con số thống kê mà chúng tôi cộng vào khi chúng tôi đếm số người theo đạo. Đầu óc tôi đầy những tư tưởng làm tôi ngủ không được...Tôi nghĩ đến những con người Công giáo sợ sệt, lo lắng cầu nguyện trong mọi giáo xứ mà tôi đã phục vụ. Tôi nghĩ đến con người mà là tín đồ Công giáo và một lần nữa tôi lại nghĩ đến họ."
LM Kavanaugh đã nghĩ và viết về con người mà là tín đồ Công giáo như
thế nào. Chúng ta hãy đọc tiếp. Tôi có thể tóm tắt trong một câu ngắn
gọn: Chỉ có những con chiên mới cần đến người chăn chiên (only
sheep need a shepherd)]
Người Catô giáo nhìn thế giới qua một hệ thống ngăn cấm họ là chính họ. Hắn có thể đi ngoài đường phố và coi mọi khuôn mặt, mọi trường hợp như là rơi vào đúng loại của nó. Hắn chưa từng bao giờ thực sự biết đến sự thích thú của tìm tòi, sự kỳ lạ của khám phá, sự lý thú của sự tự do trong những quyết định cá nhân. Thế giới là một kẻ lạ đối với hắn vì hắn xét đoán những công dân của thế giới trước khi biết họ hay hiểu họ. Hắn được dạy phải đọc những gì, suy tư làm sao, và coi ai là bạn.
Tôi quan sát người Công giáo đến xem lễ và thương hại cho cách đào tạo đã vặn vẹo đầu óc của hắn và làm méo mó ý thức về tôn giáo của hắn. Hắn tới vì hắn được các bậc lãnh đạo tôn giáo bảo tới, những người cũng ngoan ngoãn và vô danh như hắn. Hắn đọc những lời kinh cầu nguyện gói ghém trong những câu giả tạo và làm những cử chỉ (quỳ gối làm dấu thánh giá. TCN) hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn sống trong thời đại của máy bay phản lực và bom nguyên tử, và cầu nguyện trong thế giới ma thuật của thời Trung Cổ. Hắn cảm thấy buồn chán trước mặt Gót của hắn (trong nhà thờ. TCN). Tuy nhiên hắn vẫn tới, vì hắn đã được dạy từ khi còn nhỏ là "Hỏa ngục là nơi đầy những kẻ không đi xem lễ". Hắn quá sợ hãi để thú nhận rằng hắn thật là buồn chán.
Trong hoạt động thường ngày, mắt của hắn hòa điệu với sự hữu hiệu và tiến bộ. Hắn tìm những cách có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, đường lối mới để đến với đại chúng, dịch vụ mới để hấp dẫn đồng bào. Hắn có những quan điểm về hòa bình của thế giới, về cải tiến ngân sách, những suy tư về ngăn ngừa phạm pháp, về sự lành mạnh tâm thần, và về vấn đề giao thông trong những vùng có thị trấn lớn. Nhưng về tôn giáo hắn là một người máy chỉ biết đọc lại những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn. Hắn chấp nhận mọi quyết định của giới linh mục mà không phản đối, có vẻ phân vân khi nghe đến một sự xào xáo, hâm lại những chân lý mà hắn đã học trong những trường đạo, và ủng hộ cái giáo hội đã tước đoạt đi đầu óc của hắn.
Người Công giáo, nam hay nữ, đã mất đi sự tiếp cận với đời sống. Hắn sợ phải đọc những sách mà người khác đọc, sợ coi những phim truyện phản ánh đời sống hiện đại...
Giáo hội, giống như là những bậc cha mẹ sợ hãi và giận dữ, vơ vào phần mình mọi công trạng trong việc giúp đỡ mà giáo hội có thể cống hiến cho con người. Kết quả là những người Công giáo bị đối xử như những đứa trẻ và chúng tiếp tục cư xử như những đứa trẻ...
Người Công giáo chống thuyết tiến hóa và hắn đã sai lầm. Hắn tiếp tục ủng hộ chế độ quân chủ lâu sau khi chế độ dân chủ đã khiến cho con người được tự do. Hắn đẩy mạnh thành kiến chủng tộc cho đến khi những người "ngoại giáo" chứng tỏ là hắn đã lầm. Hắn chống lấy người ngoại giáo và tiếp tục chống cho đến ngày nay tuy rằng hắn đang được hưởng những sự tự do mà chế độ đa tôn giáo đã thắng. Hắn đòi hỏi phải được tự do ý thức nhưng hắn lại muốn những người Tin Lành phải nuôi con cái trong đức tin của hắn..
Hắn không có quyền hành động theo lương tâm của chính mình, hay có quyền chọn lựa những nguyên lý sống có thể giúp hắn. Hắn là một tín đồ Công giáo, một đứa trẻ đòi người khác chọn lựa thay cho hắn..
Do đó, người Công giáo không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại, chỉ biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ...
Người Công giáo là một dịch vụ trả lời có tổ chức mà nhiệm vụ đầu tiên của hắn là bảo vệ giáo hội của hắn...
Qua những tài liệu mà tôi trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy rõ
thực chất những "phép lạ" Công giáo ở Lourdes ra sao. Nhưng
đối với số tín đồ Công giáo tin vào những phép lạ của Giáo hội thì
có thể họ sẽ đưa ra câu hỏi: "Phép lạ Fatima? Phép lạ Lộ Đức?
Tại sao không? Đã có nhiều bằng chứng cho thấy có người đi hành hương
các nơi này rồi về khỏi bệnh v...v..."
Y khoa đã chứng minh rằng, nếu con người tin tưởng mãnh liệt vào bất cứ một cái gì, có khả năng chữa "bách bệnh tiêu tan, vạn bệnh tiêu trừ", thì có thể trong vài trường hợp cơ thể con người tiết ra những chất kháng độc và làm lui hay khỏi một số bệnh, và họ cho đó là những "phép lạ". Trong những công cuộc nghiên cứu y khoa, người ta đã cho nhiều bệnh nhân uống thuốc giả (placebo), nghĩa là không phải thuốc thật mà chỉ là bột thường chế tạo giống viên thuốc, mà một số bệnh nhân cũng khỏi bệnh như thường. Vậy thì tác dụng của nước ở Lộ Đức nhiều nhất là tương đương với "tàn hương, nước giải", đôi khi cũng có thể làm cho nhẹ bớt hay khỏi bệnh, nhưng tuyệt đối không phải là tác dụng nhiệm mầu của nước lấy trong hang đá.
Trong Công Giáo cũng có chuyện sau đây: "Những mẩu xương của Thánh Rosalia, được gìn giữ ở Palermo (miền Nam nước Ý; TCN), đã "chữa khỏi" cho nhiều người, ngay cả sau khi người ta khám phá ra rằng đó chỉ là xương của một con dê" (The bones of St. Rosalia preserved at Palermo "cured" many people even after they were discovered to be the bones of a goat; Joseph L. Daleiden, in “The Final Superstiton”, p. 113).
Những sự kiện này chứng tỏ không có phép lạ nào dự phần trong đó. Nhưng vấn đề ở đây không phải là phép lạ, vì phép lạ, nếu thực sự là phép lạ, có tính cách nhỏ giọt này có bao nhiêu giá trị cho nhân loại? Những phép lạ hiện thân của bà Mary trong Công giáo đã làm được những tích sự gì cho nhân loại ngoài phục vụ cho thủ đoạn đẩy mạnh và củng cố sự mê tín của tín đồ ngu dốt của giáo hội? Bảo rằng phải có lòng tin phép lạ mới ứng. Như vậy là cho rằng trong cả triệu người đến Lộ Đức mỗi năm, lâu lâu mới có một người tin. Vấn đề ở đây là giáo hội đã khai thác lòng mê tín của quần chúng để kiếm tiền cho những mục đích chính trị nhơ bẩn và tối tăm như André Lorulot đã viết ở trên. Nhưng tại sao vẫn còn nhiều người tin vào những chuyện hiện thân nhảm nhí và những phép lạ đi kèm theo đó.
Ethan Allen, một người Mỹ nổi tiếng vào cuối thế kỷ 18 đã viết rất đúng như sau:
“Trong những nơi ở thế giới mà sự hiểu biết và khoa học đã thắng thế, thì không còn phép lạ nữa; nhưng ở những nơi còn man rợ và ngu dốt, phép lạ vẫn còn thịnh hành.” [In those parts of the world where learning and science have prevailed, miracles have ceased; but in those parts in it as are barbarous and ignorant, miracles are still in vogue.]
Ethan Allen nhận định không sai, chúng ta thấy rõ, phép lạ của Công giáo không còn xuất hiện trong phương trời Âu Mỹ nhưng vẫn còn thịnh hành trong các xóm đạo Việt Nam ở ngoại quốc cũng như ở trong nước.
(Miracles happen to those who believe in them. Otherwise why does not the Virgin Mary appear to Lamaists, Mohammedans, or Hindus who have never heard of her?)
Sự thật về "phép lạ hiện thân của bà Mary" ở Lộ Đức (Lourdes) ra sao? Chúng ta có thể tìm thấy chi tiết trong cuốn “Lộ Đức: Sự thật về những cái thấy của Bernadette. Tính cách thương mại của hang đá (Lourdes)” (Lourdes: La Vérité sur les Visions de Bernadette. Le mercantilisme de la Grotte), của André Lorulot .
Sau đây tôi xin trích dẫn những đoạn quan trọng về cái gọi là "phép lạ" ở Lourdes.
"Giáo hội có những phương tiện quyền thế để truyền bá những chuyện không tưởng. Giáo hội phát hành hàng triệu cuốn sách chứa đầy những lời dối trá trắng trợn và những sai lầm cố ý.
Thí dụ, cuốn sách nổi tiếng của Henri Lasserre viết về Đức Mẹ ở Lộ Đức đã được phát hành tới một triệu cuốn. Thực ra, văn phẩm thuộc loại đó chỉ nhằm những người trí tuệ thô thiển. Đó là tác phẩm của một tín đồ mù quáng và cuồng tín.
Một Linh mục dòng Tên, ông Cros, thú nhận rằng "cái mớ tài liệu đưa cho Henri Lasserre ngày trước" thực sự trống rỗng. "Không có gì trong đó có thể dùng để viết một cách xác thực về câu chuyện hiện thân của Đức Mẹ."
Larrerre giới thiệu Francois Soubirous (cha của Bernadette) như là một con người gương mẫu. Trái lại, Linh mục Cros biết rõ rằng, đó chỉ là một tên nghiện rượu, mang tiền của gia đình đi la cà tửu quán uống rượu, vào tháng 3, 1858, đã bị tù vì tội ăn cắp.
Em nhỏ Bernadette Soubirous, con gái tên nghiện rượu kể trên, cùng với vài đứa bạn đi kiếm củi.
Khi tới gần cái hang, em nhìn thấy một người đàn bà đẹp "không giống người nào trên trái đất" mỉm cười. Em quỳ xuống. Người đàn bà kia tay làm dấu Thánh giá.
Chủ nhật tới, em trở lại cái hang trên cùng mấy đứa bạn. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện. Sau một hồi, mặt Bernadette rạng rỡ lên. Em lại thấy người đàn bà áo trắng kia xuất hiện. Các bạn em không ai thấy cả nhưng xúc động trước cảnh tượng ngây ngất xuất thần của em bé chăn cừu (Bernadette).
Người đàn bà mà Bernadette nhìn thấy trong hang cũng đọc riêng cho em ba điều bí mật. Người ta đã không tiết lộ ba điều bí mật này.
Làm sao mà Bernadette có thể nhớ được những điều trên (giả thử có người thực sự đọc cho em điều gì đó)? Trí nhớ của em nhỏ đáng thương kia rất kém cỏi đến độ em không thể nhắc lại cho đúng hai tiếng "Immaculée Conception" (Thụ thai vô nhiễm).
Bernadette đã mang tới một mảnh giấy và một cái bút chì để Đức Mẹ đồng trinh viết. Nhưng "Bà" đã lẩn tránh, không viết và thật là đáng tiếc. Chúng ta đã có thể có được một văn kiện tỉ mỉ, chắc chắn là đáng tin cậy hơn là những lời tả lại của em bé nhà quê. Nhưng Bernadette không biết viết, và đó là lý do, lý do duy nhất, bắt em phải trình lại mảnh giấy còn trinh nguyên.
"Hãy nói với những Linh mục là phải xây một nhà thờ ở đây và mọi người phải diễn hành đến đó."
Những lời trên, theo Bernadette, là của người đàn bà đã xuất hiện, không thể làm các ông Linh mục phật ý. Tới đây, âm mưu đã rõ rệt.
Khi người ta làm cho Đức Mẹ phát ngôn thì, do một sự trùng hợp khó xử, bao giờ cũng là để phục vụ quyền lợi của giới giáo sĩ.
L.M. Dominique Peyramale Tất cả cái trò hề đó đã được Linh mục Peyramale ở Lourdes (Lộ Đức) dàn dựng và sau đó được giám mục Laurence ở Tarbes khuyến khích và ủng hộ .
Bernadette đã được hai linh mục khác, LM Ader và LM Ponian chuẩn bị tư tưởng và mớm lời.
Người ta đã đem cô gái nhỏ bệnh hoạn tới một làng nhỏ, Bartrès, để săn sóc.
Thật là khá thú vị khi ta nhận xét là Bà đồng trinh luôn luôn chọn những tâm hồn mộc mạc để giao phó riêng những bí mật.
Tại sao Bà đồng trinh lại chỉ xuất hiện trước em nhỏ bệnh hoạn đó?
Ngoài Bernadette ra còn có hàng trăm, hàng ngàn người. Bà đồng trinh có thể làm cho sự thổ lộ của mình có một giá trị nổi bật hơn nếu xuất hiện trước tất cả mọi người một cách không ai có thể nghi ngờ và để lại một vài văn kiện vô hiệu hóa mọi sự phản đối? Tại sao chỉ chọn những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần?
Vậy thì, những ảnh tượng Bernadette nhìn thấy đã được sắp xếp một cách hoàn toàn từ trước bởi Linh mục Ader, vì, ít lâu sau những việc làm vụng về đó (mang Bernadette đi xa để chuẩn bị; TCN), Bernadette trở lại Lourdes để phóng mình vào những cơn hoang tưởng cuồng loạn.
Thật ra, ngày 28 tháng 12, 1857 (45 ngày trước lần xuất hiện đầu tiên) bộ Tư Pháp đã biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra. Quan Trưởng Tòa ở Pau, ông Falconnet, đã gửi cho ông Tòa ở Lourdes một văn thư báo trước chuyện này.
"Tôi được biết rằng có những biểu lộ về một nhân vật siêu nhiên và mang tính chất của phép lạ, đã được sửa soạn để đưa ra vào dịp cuối năm. Tôi yêu cầu ông hãy để ý canh chừng sự thực về những việc này.""
(L'Église possède des moyens puissants pour répandre ses récits fantastiques.
C'est par million d'exemplaires qu'elle diffuse des publications remplies
de mensonges flagrants et d'erreurs voulues.
Le fameux livre d'Henri Lasserre, par exemple, Notre Dame de Lourdes, a été répandu à un million d'exemplaires...Ce genre de littérature est, en effet, tout désigné pour des intellects rudimentaires...C'est l'oeuvre d'un partisan aveugle et fanatique.
Un Jésuite, le P. Cros, avoue que la "liasse des documents confiés autrefois à M. Henri Lasserre" était vide. "Rien n'y pouvait servir à une histoire vérédique des apparitions."
...Lasserre présente Francois Soubirous (le père de la voyante Bernadette) comme un homme modèle. Le P. Cros reconnait, au contraire, que c'était un alcoolique, qui buvait au cabaret l'argent de la famille et qui avait été emprisonné, en Mars 1857 pour vol.
...La petite Bernadette Soubirous, fille de l'alcoolique précité, s'en va ramasser du bois mort, avec quelques compagnes.
En arrivant auprès de la grotte, elle apercoit une belle et souriante dame "qui ne ressemblait à personne de la terre". Elle tombe à genoux. La dame fait le signe de la croix...
...Elle retourne, le dimanche suivant, à la Grotte, avec d'autres enfants. Tous s'agenouillent et se mettent à prier. Bernadette, au bout d'un moment, se transfigure. Elle apercoit de nouveau la dame blanche. Ses compagnes ne voient rien, mais sont émues au spectacle de la petite bergère en extase.
...La vision de la Grotte dicta aussi à Bernadette trois secrets confidentiels. On ne les a pas divulgués.
Comment Bernadette est-elle été capable de s'en souvenir, du reste? (en supposant qu'on lui eut vraiment dicté quelque chose) La pauvre gosse avait si peu de mémoire qu'elle ne parvenait même pas à répéter ces deux mots: Immaculée Conception.
...Bernadette avait apporté à la Vierge, pour qu'elle écrive, un crayon et du papier. Mais la "dame" se déroba et c'est dommage. Nous aurions possédé là un document curieux, plus original sans doute que les descriptions de la jeune paysanne. Mais...Bernadette ne savait pas écrire - et c'est la raison, la seule raison, qui la contraignait à rapporter son papier vierge (comme la "dame".)
"Allez dire aux prêtres qu'il doit se bâtir ici une chapelle et qu'on y doit venir en procession".
Ces paroles, attribuées par Bernadette à sa radieuse "apparition", ne pouvaient déplaire à ces messieurs prêtres, on les concoit. La trame est ici bien visible.
Lorsqu'on fait parler Madame la Vierge-Mère, c'est toujours, par une coincidence inquiétante, pour servir les intérêts du clergé.
...Toute cette farce a été combinée par l'abbe Peyramale, curé de Lourdes, encouragé et soutenu ensuite par l'évêque de Tarbes, M. Laurence.
Bernadette avait été savamment préparée et suggestionnée par deux autres prêtres, l'abbé Ader et l'abbé Ponian.
On avait envoyé la gamine, malade, se soigner dans un tout petit village de la montagne: Bartrès.
... Il est assez piquant de remarquer que la Vierge choisit toujours des simples d'esprit pour confidents. Cà aussi, c'est une indication précieuse.
...Pourquoi la Vierge ne voulait-elle se montrer qu'à cette petite malade?
Aux côtés de Bernadette il y avait des centaines, puis des milliers de personnes. La Vierge pouvait donner à sa manifestation une valeur plus éclatante en se montrant à tout le monde, d'une facon indiscutable - et laisser quelque document qui aurait réduit à néant toutes les objections. Pourquoi choisir toujours des petits enfants névropathes?
....Les visions de Bernadette étaient donc parfaitement combinées à l'avance par l'abbé Ader, car, peu de temps après qu'il eut tenu ces imprudents propos, l'enfant rentrait à Lourdes et se livrait à ses hallucinations hystériques.
En effet, le 28 Décembre 1857 (45 jours avant la première apparition), la justice était déjà au courant de ce qui allait se passer. Le Procureur Général de Pau, M. Falconnet, envoyait ce jour-là une note de service au Procureur de Lourdes, pour le prévenir.
"Je suis informé que les manifestations affectant un caractère surnaturel et prenant un aspect miraculeux, se préparent pour la fin de l'année. Je vous prie de veiller à ce que ces faits soient exactement surveillés...")
Le fameux livre d'Henri Lasserre, par exemple, Notre Dame de Lourdes, a été répandu à un million d'exemplaires...Ce genre de littérature est, en effet, tout désigné pour des intellects rudimentaires...C'est l'oeuvre d'un partisan aveugle et fanatique.
Un Jésuite, le P. Cros, avoue que la "liasse des documents confiés autrefois à M. Henri Lasserre" était vide. "Rien n'y pouvait servir à une histoire vérédique des apparitions."
...Lasserre présente Francois Soubirous (le père de la voyante Bernadette) comme un homme modèle. Le P. Cros reconnait, au contraire, que c'était un alcoolique, qui buvait au cabaret l'argent de la famille et qui avait été emprisonné, en Mars 1857 pour vol.
...La petite Bernadette Soubirous, fille de l'alcoolique précité, s'en va ramasser du bois mort, avec quelques compagnes.
En arrivant auprès de la grotte, elle apercoit une belle et souriante dame "qui ne ressemblait à personne de la terre". Elle tombe à genoux. La dame fait le signe de la croix...
...Elle retourne, le dimanche suivant, à la Grotte, avec d'autres enfants. Tous s'agenouillent et se mettent à prier. Bernadette, au bout d'un moment, se transfigure. Elle apercoit de nouveau la dame blanche. Ses compagnes ne voient rien, mais sont émues au spectacle de la petite bergère en extase.
...La vision de la Grotte dicta aussi à Bernadette trois secrets confidentiels. On ne les a pas divulgués.
Comment Bernadette est-elle été capable de s'en souvenir, du reste? (en supposant qu'on lui eut vraiment dicté quelque chose) La pauvre gosse avait si peu de mémoire qu'elle ne parvenait même pas à répéter ces deux mots: Immaculée Conception.
...Bernadette avait apporté à la Vierge, pour qu'elle écrive, un crayon et du papier. Mais la "dame" se déroba et c'est dommage. Nous aurions possédé là un document curieux, plus original sans doute que les descriptions de la jeune paysanne. Mais...Bernadette ne savait pas écrire - et c'est la raison, la seule raison, qui la contraignait à rapporter son papier vierge (comme la "dame".)
"Allez dire aux prêtres qu'il doit se bâtir ici une chapelle et qu'on y doit venir en procession".
Ces paroles, attribuées par Bernadette à sa radieuse "apparition", ne pouvaient déplaire à ces messieurs prêtres, on les concoit. La trame est ici bien visible.
Lorsqu'on fait parler Madame la Vierge-Mère, c'est toujours, par une coincidence inquiétante, pour servir les intérêts du clergé.
...Toute cette farce a été combinée par l'abbe Peyramale, curé de Lourdes, encouragé et soutenu ensuite par l'évêque de Tarbes, M. Laurence.
Bernadette avait été savamment préparée et suggestionnée par deux autres prêtres, l'abbé Ader et l'abbé Ponian.
On avait envoyé la gamine, malade, se soigner dans un tout petit village de la montagne: Bartrès.
... Il est assez piquant de remarquer que la Vierge choisit toujours des simples d'esprit pour confidents. Cà aussi, c'est une indication précieuse.
...Pourquoi la Vierge ne voulait-elle se montrer qu'à cette petite malade?
Aux côtés de Bernadette il y avait des centaines, puis des milliers de personnes. La Vierge pouvait donner à sa manifestation une valeur plus éclatante en se montrant à tout le monde, d'une facon indiscutable - et laisser quelque document qui aurait réduit à néant toutes les objections. Pourquoi choisir toujours des petits enfants névropathes?
....Les visions de Bernadette étaient donc parfaitement combinées à l'avance par l'abbé Ader, car, peu de temps après qu'il eut tenu ces imprudents propos, l'enfant rentrait à Lourdes et se livrait à ses hallucinations hystériques.
En effet, le 28 Décembre 1857 (45 jours avant la première apparition), la justice était déjà au courant de ce qui allait se passer. Le Procureur Général de Pau, M. Falconnet, envoyait ce jour-là une note de service au Procureur de Lourdes, pour le prévenir.
"Je suis informé que les manifestations affectant un caractère surnaturel et prenant un aspect miraculeux, se préparent pour la fin de l'année. Je vous prie de veiller à ce que ces faits soient exactement surveillés...")
Một mặt khác, ở Lourdes, "người ta" đã khai thác triệt để sự mê tín của quần chúng để thu vào những nguồn lợi khổng lồ. Giáo hội không làm gì để ngăn cản, trái lại còn khuyến khích.
Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của André Lorulot (Ibid., trg. 7):
" Cái xí nghiệp Lourdes cung cấp cho giáo hội những nguồn lợi vật chất mà giáo hội dùng trong chính trị nhơ bẩn và mờ ám.
Cái hang đá (Lourdes) không chỉ mang những lợi tức đến cho công đoàn. Nó còn là một phương tiện để duy trì và phát triển sự cuồng tín, gia tăng cường độ ngu xuẩn, đẩy sự tin vào siêu nhiên đến cực độ.
Chúng ta thấy ở đó mọi dạng khai thác. Mới đây giáo sư A. Chide chứng tỏ rằng đĩ điếm rất phát triển ở Lourdes. Và tôi không nói đến vô số các cha xứ, linh mục tới đây "như là một hỏa tiễn" với các cô "cháu gái" hay tệ hơn nữa.
Nếu các bạn có đi tới Lourdes thì hãy cẩn thận và đừng tin ở đám người cuồng tín đó, những người này thực sự là những con vật hung hăng, đầu óc ngu đần bị thống trị bởi giáo hội và không đủ khả năng để hiểu một lý lẽ có ý nghĩa.
Chúng ta phải đi tới Lourdes - và biết quan sát một cách bình tĩnh với óc phán đoán - mới nhận ra tầm rộng lớn của căn bệnh tôn giáo."
(L'entreprise de Lourdes fournit à l'église d'incalculables resources
matérielles, qu'elle emploie à sa politique malsaine et obscure.
La Grotte ne fournit pas seulement des revenus à la congrégation. Elle constitue un moyen excellent d'entretenir et de développer le fanatisme, d'exacerber la bêtise, de pousser au paroxysme la croyance au surnaturel.
...Toutes les formes d'exploitation sont du reste représentées. Le professeur A. Chide a montré naguère que la prostitution était très developpée à Lourdes... Et je ne parle pas des innombrables curés qui viennent ici "en bombe" avec leur "nièce" ou pis encore..
...Si vous allez à Lourdes, soyez prudent et méfiez-vous de ces fanatiques, véritables bêtes furieuses, cerveaus inintelligents dominés par l'Église et incapables de comprendre un raisonnement sensé.
... Il faut aller à Lourdes - et savoir observer avec calme et discernement - pour saisir l'étendue du mal religieux.)
La Grotte ne fournit pas seulement des revenus à la congrégation. Elle constitue un moyen excellent d'entretenir et de développer le fanatisme, d'exacerber la bêtise, de pousser au paroxysme la croyance au surnaturel.
...Toutes les formes d'exploitation sont du reste représentées. Le professeur A. Chide a montré naguère que la prostitution était très developpée à Lourdes... Et je ne parle pas des innombrables curés qui viennent ici "en bombe" avec leur "nièce" ou pis encore..
...Si vous allez à Lourdes, soyez prudent et méfiez-vous de ces fanatiques, véritables bêtes furieuses, cerveaus inintelligents dominés par l'Église et incapables de comprendre un raisonnement sensé.
... Il faut aller à Lourdes - et savoir observer avec calme et discernement - pour saisir l'étendue du mal religieux.)
"Tôi đã đi tới Lourdes ở miền Nam nước Pháp. Tôi đứng trong cái công trường rộng lớn đằng trước thánh đường và quan sát những tín đồ Công giáo ở khắp nơi trên thế giới chờ đợi một ân sủng đặc biệt của cái đền thờ thiêng liêng này. Tôi bị các bà người Ý đầu đội khăn xô đẩy, những người Đông Âu to tiếng thì thầm những lời cầu nguyện làm cho tôi sao lãng. Tôi thấy những người bệnh hoạn nằm trên cáng, những nhà kinh doanh Mỹ với những chiếc sơ mi trắng. Tôi thấy những linh mục trong những bộ áo thầy tu của thế giới, những người Phi Châu hồ hởi trong các bộ quần áo sặc sỡ. Nhưng phần lớn là tôi thấy những bộ mặt nhăn nheo, nói lên một cách thành thực sự đau đớn của họ. Họ đã tới để xin một ân huệ, giống như những đám người Hồi Giáo tại nơi hành hương, và để hưởng một sự tiếp xúc đặc biệt với Gót của họ. Họ uống nước ở đó, nổi tiếng về những tác dụng lạ lùng. Họ mua nước đựng trong những chai plastic để mang về nhà (và để biếu. TCN). Họ mua từng rổ tràng hạt và mề đay và nhờ những bàn tay mập mạp nhễ nhại mồ hôi của các linh mục ban phúc lành cho những thứ này. Họ đông như châu chấu, cúi xuống ngấu nghiến từng cọng ân sủng đặc biệt. Họ hôn chân các ngôi tượng và rên rỉ trong những đền thờ mốc mếch. Họ thú tội bằng đủ mọi thứ tiếng và nhai nhóp nhép phó mát của miền núi. Rồi, giống như một đàn cừu vĩ đại đã no nê hài lòng, họ về nhà đi ngủ. Và tôi cũng về nhà đi ngủ, cũng khó chịu và rối răm bởi sự mê tín như là tôi đã chứng kiến vào một ngày mùa thu đó khi đội banh Spartans thắng đội banh Rome. (Đội banh Rome, theo lời kể của Linh Mục Kavanaugh, trước khi ra quân, quỳ trước nhà thờ yêu cầu được Linh Mục ban phép lành và cho ăn bánh Thánh, hiệp thông với Thượng đế để Thượng đế phù hộ cho thắng trận đấu, nhưng rút cuộc bị thảm bại. TCN). Tôi không những chỉ khó chịu và rối răm mà tôi còn cảm thấy thật là xấu hổ. Đó là giáo hội của tôi, và họ là những tín đồ mà tôi góp phần đào tạo, những con số thống kê mà chúng tôi cộng vào khi chúng tôi đếm số người theo đạo. Đầu óc tôi đầy những tư tưởng làm tôi ngủ không được...Tôi nghĩ đến những con người Công giáo sợ sệt, lo lắng cầu nguyện trong mọi giáo xứ mà tôi đã phục vụ. Tôi nghĩ đến con người mà là tín đồ Công giáo và một lần nữa tôi lại nghĩ đến họ."
(I took a trip to Lourdes in southern France. I stood in the giant
square in front of the Basilica and watched the Catholics of the world
await the special blessing of this sacred shrinẹ I was jostled by
the Italian ladies in their shawls, distracted by Eastern Europeans
who whispered their prayers out loud. I watched the sick on their
litters, the American businessmen in their clean white shirts. I saw
priests wrapped in the cassocks of the world, excited Africans in their
multi-colored native garb. But most of all I saw the wrinkled faces,
speaking out the sincerity of their pain. They had come to ask a favor,
like the Moslem hordes at Mecca, and to know a special contact with
their God. They drank the water there, which is noted for its miraculous
effects. They bought the plastic bottles to bring the water homẹ
They bought rosaries and medals by the basketful and had them blessed
by the pudgy hands of sweating priests. They covered the grounds like
locusts, bent on devouring each shred of special grace. They kissed
the feet of statues and groaned in mildewed shrines. They confessed
in every language and munched their mountain cheese. Then, like a
giant, content herd, they went home to bed. And so did I, as sick
as confused by superstition as I had been on that autumn day when the
Spartans conquered Rome.
Not only was I sick and confused, I was deeply ashamed as well. This was my Church and there were the Catholic men I had helped to form, the statistics we added up when we counted the catholicity of our Church. My mind was crowded with thoughts that refused to let me sleep. I thought of the frightened catholics who worried and prayed in every parish I had served. I thought of the man who is a Catholic and I think of him once again....)
Not only was I sick and confused, I was deeply ashamed as well. This was my Church and there were the Catholic men I had helped to form, the statistics we added up when we counted the catholicity of our Church. My mind was crowded with thoughts that refused to let me sleep. I thought of the frightened catholics who worried and prayed in every parish I had served. I thought of the man who is a Catholic and I think of him once again....)
Người Catô giáo nhìn thế giới qua một hệ thống ngăn cấm họ là chính họ. Hắn có thể đi ngoài đường phố và coi mọi khuôn mặt, mọi trường hợp như là rơi vào đúng loại của nó. Hắn chưa từng bao giờ thực sự biết đến sự thích thú của tìm tòi, sự kỳ lạ của khám phá, sự lý thú của sự tự do trong những quyết định cá nhân. Thế giới là một kẻ lạ đối với hắn vì hắn xét đoán những công dân của thế giới trước khi biết họ hay hiểu họ. Hắn được dạy phải đọc những gì, suy tư làm sao, và coi ai là bạn.
Tôi quan sát người Công giáo đến xem lễ và thương hại cho cách đào tạo đã vặn vẹo đầu óc của hắn và làm méo mó ý thức về tôn giáo của hắn. Hắn tới vì hắn được các bậc lãnh đạo tôn giáo bảo tới, những người cũng ngoan ngoãn và vô danh như hắn. Hắn đọc những lời kinh cầu nguyện gói ghém trong những câu giả tạo và làm những cử chỉ (quỳ gối làm dấu thánh giá. TCN) hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn sống trong thời đại của máy bay phản lực và bom nguyên tử, và cầu nguyện trong thế giới ma thuật của thời Trung Cổ. Hắn cảm thấy buồn chán trước mặt Gót của hắn (trong nhà thờ. TCN). Tuy nhiên hắn vẫn tới, vì hắn đã được dạy từ khi còn nhỏ là "Hỏa ngục là nơi đầy những kẻ không đi xem lễ". Hắn quá sợ hãi để thú nhận rằng hắn thật là buồn chán.
Trong hoạt động thường ngày, mắt của hắn hòa điệu với sự hữu hiệu và tiến bộ. Hắn tìm những cách có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, đường lối mới để đến với đại chúng, dịch vụ mới để hấp dẫn đồng bào. Hắn có những quan điểm về hòa bình của thế giới, về cải tiến ngân sách, những suy tư về ngăn ngừa phạm pháp, về sự lành mạnh tâm thần, và về vấn đề giao thông trong những vùng có thị trấn lớn. Nhưng về tôn giáo hắn là một người máy chỉ biết đọc lại những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn. Hắn chấp nhận mọi quyết định của giới linh mục mà không phản đối, có vẻ phân vân khi nghe đến một sự xào xáo, hâm lại những chân lý mà hắn đã học trong những trường đạo, và ủng hộ cái giáo hội đã tước đoạt đi đầu óc của hắn.
Người Công giáo, nam hay nữ, đã mất đi sự tiếp cận với đời sống. Hắn sợ phải đọc những sách mà người khác đọc, sợ coi những phim truyện phản ánh đời sống hiện đại...
Giáo hội, giống như là những bậc cha mẹ sợ hãi và giận dữ, vơ vào phần mình mọi công trạng trong việc giúp đỡ mà giáo hội có thể cống hiến cho con người. Kết quả là những người Công giáo bị đối xử như những đứa trẻ và chúng tiếp tục cư xử như những đứa trẻ...
Người Công giáo chống thuyết tiến hóa và hắn đã sai lầm. Hắn tiếp tục ủng hộ chế độ quân chủ lâu sau khi chế độ dân chủ đã khiến cho con người được tự do. Hắn đẩy mạnh thành kiến chủng tộc cho đến khi những người "ngoại giáo" chứng tỏ là hắn đã lầm. Hắn chống lấy người ngoại giáo và tiếp tục chống cho đến ngày nay tuy rằng hắn đang được hưởng những sự tự do mà chế độ đa tôn giáo đã thắng. Hắn đòi hỏi phải được tự do ý thức nhưng hắn lại muốn những người Tin Lành phải nuôi con cái trong đức tin của hắn..
Hắn không có quyền hành động theo lương tâm của chính mình, hay có quyền chọn lựa những nguyên lý sống có thể giúp hắn. Hắn là một tín đồ Công giáo, một đứa trẻ đòi người khác chọn lựa thay cho hắn..
Do đó, người Công giáo không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại, chỉ biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ...
Người Công giáo là một dịch vụ trả lời có tổ chức mà nhiệm vụ đầu tiên của hắn là bảo vệ giáo hội của hắn...
(The Catholic man sees the world through a system which forbids him
to be himself. He can walk the city streets and watch every face and
every situation fall neatly into its proper category. He has never
really known the joy of search, the wonder of discovery, the exciting
freedom of personal decision. The world is a stranger to him since
he judges its citizens before he really knows and understands. He
has been taught what to read, how to think, and whom to call his friend.
I watch the Catholic come to Mass and pity the formation that warped his mind and distorted his religious sense. He comes because he has been told to come by religious leaders who are as docile and listless as he. He read the prayers wrapped in stilted phrases and make the gestures totally foreign to his modern way of life. He lives in a world of jet and atomic bombs, and prays in a world of medieval magic. He is bored in the presence of his God. And yet he comes, because he has learned from his youth that hell is the home of those who miss Mass. He is too frightened to admid he is bored.
In his business his eye is tuned to efficiency and progress. He looks for shorcuts, for new way to reach the public, for another service that will attract his fellow man. He has views on world peace, opinions on fiscal reform, thoughts on crime prevention, mental health, and transportation in megalopolis. But in religion he is a robot who can only recite the answers he has learned. He will accept the priestly decisions without protest, appear thoughful when he hears a rehash of the truths he learned in school, and support the Church which has robbed him of his mind...
The man or woman who is a Catholic has lost his touch with life. He is afraid to read the books that others read, to see the movies that reflect our modern life...
The Church, like a frightened and angry parent, takes too much credit for the help that it can offer man. Consequently Catholics are treated as children and they continue to behave as such...
The Catholic man opposed evolution and he was wrong. He supported monarchy long after democracy had made the people free. He promoted racial prejudice until "pagans" showed him he was wrong. He fought mixed marriages and fights them still, although he enjoys the freedoms that pluralism has won. He asks for freedom of conscience and expects protestants to raise their children in his faith...
He has not the right to follow his own conscience, or the power to select the principles that give him help. He is a Catholic, a child, who demands that another make for him his choice...
Thus, the Catholic man cannot truly know the meaning of dialogue, but only give arguments to defend the position he has inherited from his youth...
The Catholic man is an organized answering service whose first obligation is to protect his Church.)
I watch the Catholic come to Mass and pity the formation that warped his mind and distorted his religious sense. He comes because he has been told to come by religious leaders who are as docile and listless as he. He read the prayers wrapped in stilted phrases and make the gestures totally foreign to his modern way of life. He lives in a world of jet and atomic bombs, and prays in a world of medieval magic. He is bored in the presence of his God. And yet he comes, because he has learned from his youth that hell is the home of those who miss Mass. He is too frightened to admid he is bored.
In his business his eye is tuned to efficiency and progress. He looks for shorcuts, for new way to reach the public, for another service that will attract his fellow man. He has views on world peace, opinions on fiscal reform, thoughts on crime prevention, mental health, and transportation in megalopolis. But in religion he is a robot who can only recite the answers he has learned. He will accept the priestly decisions without protest, appear thoughful when he hears a rehash of the truths he learned in school, and support the Church which has robbed him of his mind...
The man or woman who is a Catholic has lost his touch with life. He is afraid to read the books that others read, to see the movies that reflect our modern life...
The Church, like a frightened and angry parent, takes too much credit for the help that it can offer man. Consequently Catholics are treated as children and they continue to behave as such...
The Catholic man opposed evolution and he was wrong. He supported monarchy long after democracy had made the people free. He promoted racial prejudice until "pagans" showed him he was wrong. He fought mixed marriages and fights them still, although he enjoys the freedoms that pluralism has won. He asks for freedom of conscience and expects protestants to raise their children in his faith...
He has not the right to follow his own conscience, or the power to select the principles that give him help. He is a Catholic, a child, who demands that another make for him his choice...
Thus, the Catholic man cannot truly know the meaning of dialogue, but only give arguments to defend the position he has inherited from his youth...
The Catholic man is an organized answering service whose first obligation is to protect his Church.)
Y khoa đã chứng minh rằng, nếu con người tin tưởng mãnh liệt vào bất cứ một cái gì, có khả năng chữa "bách bệnh tiêu tan, vạn bệnh tiêu trừ", thì có thể trong vài trường hợp cơ thể con người tiết ra những chất kháng độc và làm lui hay khỏi một số bệnh, và họ cho đó là những "phép lạ". Trong những công cuộc nghiên cứu y khoa, người ta đã cho nhiều bệnh nhân uống thuốc giả (placebo), nghĩa là không phải thuốc thật mà chỉ là bột thường chế tạo giống viên thuốc, mà một số bệnh nhân cũng khỏi bệnh như thường. Vậy thì tác dụng của nước ở Lộ Đức nhiều nhất là tương đương với "tàn hương, nước giải", đôi khi cũng có thể làm cho nhẹ bớt hay khỏi bệnh, nhưng tuyệt đối không phải là tác dụng nhiệm mầu của nước lấy trong hang đá.
Trong Công Giáo cũng có chuyện sau đây: "Những mẩu xương của Thánh Rosalia, được gìn giữ ở Palermo (miền Nam nước Ý; TCN), đã "chữa khỏi" cho nhiều người, ngay cả sau khi người ta khám phá ra rằng đó chỉ là xương của một con dê" (The bones of St. Rosalia preserved at Palermo "cured" many people even after they were discovered to be the bones of a goat; Joseph L. Daleiden, in “The Final Superstiton”, p. 113).
Những sự kiện này chứng tỏ không có phép lạ nào dự phần trong đó. Nhưng vấn đề ở đây không phải là phép lạ, vì phép lạ, nếu thực sự là phép lạ, có tính cách nhỏ giọt này có bao nhiêu giá trị cho nhân loại? Những phép lạ hiện thân của bà Mary trong Công giáo đã làm được những tích sự gì cho nhân loại ngoài phục vụ cho thủ đoạn đẩy mạnh và củng cố sự mê tín của tín đồ ngu dốt của giáo hội? Bảo rằng phải có lòng tin phép lạ mới ứng. Như vậy là cho rằng trong cả triệu người đến Lộ Đức mỗi năm, lâu lâu mới có một người tin. Vấn đề ở đây là giáo hội đã khai thác lòng mê tín của quần chúng để kiếm tiền cho những mục đích chính trị nhơ bẩn và tối tăm như André Lorulot đã viết ở trên. Nhưng tại sao vẫn còn nhiều người tin vào những chuyện hiện thân nhảm nhí và những phép lạ đi kèm theo đó.
Ethan Allen, một người Mỹ nổi tiếng vào cuối thế kỷ 18 đã viết rất đúng như sau:
“Trong những nơi ở thế giới mà sự hiểu biết và khoa học đã thắng thế, thì không còn phép lạ nữa; nhưng ở những nơi còn man rợ và ngu dốt, phép lạ vẫn còn thịnh hành.” [In those parts of the world where learning and science have prevailed, miracles have ceased; but in those parts in it as are barbarous and ignorant, miracles are still in vogue.]
Ethan Allen nhận định không sai, chúng ta thấy rõ, phép lạ của Công giáo không còn xuất hiện trong phương trời Âu Mỹ nhưng vẫn còn thịnh hành trong các xóm đạo Việt Nam ở ngoại quốc cũng như ở trong nước.