Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

Sự Tự Do và Sức Mạnh của Một Người Phi Tôn Giáo

Có người hỏi ngay cả nếu tín ngưỡng và tôn giáo là ảo tưởng đi nữa nhưng nếu ảo tưởng đó có thể xoa dịu đau khổ và đem lại hy vọng cho người khác được thì tại sao tôi không muốn điều đó cho họ và cho chính tôi?
Theo tôi, nếu một người chọn lựa sống trong ảo ảnh và dùng ảo ảnh để tạm thời xoa dịu những buồn phiền, đau khổ hay để tạo dựng những hy vọng cho họ thì đó là quyền của họ. Họ cũng có quyền cho rằng đó là sự chọn lựa độc lập và sáng suốt của họ, họ không hề chịu ảnh hưởng của ai cả, họ không hề bị tẩy não bởi gia đình họ từ ấu thơ, v.v.
Tôi không phải là họ. Tôi không thể cảm thấy an tâm hay hạnh phúc khi áp dụng ảo ảnh vào đời sống thực tế khi tôi thấy rõ rằng đời sống thực tế không hề thể hiện những ảo ảnh nầy.
Theo tôi, cho đến nay không có bằng chứng gì thích đáng đủ để làm tôi tin về:
- Một thiên đàng hay địa ngục đang chờ đợi tôi.
- Sự sống của mỗi cá thể trong cuộc đời nầy sẽ còn tồn tại vĩnh viễn sau khi họ chết.
- Sự hiện hữu của một đấng thiêng liêng nào cũng như khả năng cứu rỗi của họ.
- Sự cầu khẩn cũng như tu sĩ hay tăng sư nào có thể làm thay đổi "vận mạng" của người khác bằng sự cúng tụng, vái lạy, bùa chú.
- Quan niệm tội phước.
Và vì vậy nên tôi không lệ thuộc vào tín điều của bất cứ tổ chức tôn giáo nào.
Tôi không sợ bị tội, tôi không cần làm phước. Đó là vì những việc làm của tôi, những quyết định trong đời sống của tôi chỉ dựa vào nguyên tắc đạo đức và tiêu chuẩn chân thiện mỹ cơ bản sẵn có của con người chớ không tùy thuộc vào các điều ngăn cấm hay sự hứa hẹn của tôn giáo.
Tôi không xem các tu sĩ hay tăng sư cần phải được tín cẩn hay kính nễ hơn bất cứ ai khác chỉ vì họ mặc chiếc áo tu trên người họ. Tôi xem họ chỉ là những người sống bằng nghề truyền giảng đạo lý của tôn giáo của họ, không hơn không kém.
Theo nhận xét của tôi, hầu như tất cả những niềm tin, những giáo điều, những thực hành trong các tôn giáo chỉ là những mê tín dị đoan đã được hệ thống hóa và công nhận bởi các giới tu sĩ. Tôi không muốn bị chi phối bởi linh mục hay tăng sư nào khi họ đem những mê tín dị đoan nầy phối hợp với sự hiểu biết cùng những thành kiến cá nhân của họ áp đặt lên đời sống của tín đồ chung quanh họ.
Theo tôi, có một sự thật rất thực tế nhưng lạnh lùng đến độ tàn nhẫn trong vũ trụ, đó là “sự sống của mỗi cá thể chỉ xảy ra và hiện hữu một lần mà thôi”. Nếu một người hiểu và chấp nhận được điều đó rồi thì họ sẽ nhìn sự sống và đời sống một cách khác hẳn. Đồng thời, họ sẽ không còn bị bận tâm bởi những sự việc mê tín huyễn hoặc đã từng thường làm họ bận tâm.
Một sự thay đổi lớn nhất xảy ra là họ sẽ quý trọng hơn mọi thứ dù là đơn giản nhất trong đời sống chung quanh họ.
Đó là vì họ nhận biết rằng họ chỉ có thể sống cuộc đời ngắn ngủi của họ duy nhất một lần nầy mà thôi. Đó là vì họ nhận biết rằng cá thể lẫn tri thức của họ hầu như chắc chắn sẽ không tồn tại sau sự chết. Họ nhận biết rằng không có một cuộc đời nào chờ đợi họ sau cuộc đời nầy cả. Không có Thiên Đàng lẫn Địa Ngục hay Niết Bàn lẫn Âm Phủ cũng như họ sẽ chẳng đầu thai thành một sinh vật nào khác.
Khi nhìn thấy được sự mong manh và ngắn ngủi của sự sống như vậy thì một người sẽ có khuynh hướng cảm nhận rằng mỗi giây phút, mỗi sự vật, mỗi sự việc trong cuộc đời hiện tại của họ đều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn bội phần.
Những người đã trải qua kinh nghiệm sắp mất hay suýt mất hay vừa mất một người thân thương sẽ hiểu điều tôi nói ở trên rất rõ.
Khi ở trong tình cảnh sắp mất, suýt mất hay vừa mất một người thân thì tự nhiên cảm giác của bạn đối với người nầy sẽ đột nhiên thay đổi hẳn. Bạn sẽ có những giá trị, những cảm xúc, những gắn bó, những kỷ niệm về người nầy mà trước đây bạn thường không bận tâm lắm để nghĩ đến. Đó là vì trước đây người thân nầy lúc nào cũng hiện diện chung quanh bạn. Đến khi bạn sắp, suýt hay đã mất người nầy thì những giá trị, những cảm xúc, những gắn bó, những kỷ niệm đó lại đột nhiên trở thành quan trọng và quý giá vô cùng đối với bạn.
Sống mà nhận biết rằng sự chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào và cuộc sống nầy sẽ vỉnh viễn tan biến đi cũng tương tự. Đây không phải là một điều yếm thế hay bi quan hóa sự sống. Nhận biết được sự việc trên sẽ đem đến cho tất cả mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi phút giây trong đời sống một giá trị và ý nghĩa khác hẳn.
Từ sắc xanh của bầu trời đến thể dạng của những cụm mây trắng, từ nụ cười của một người lạ qua đường đến tiếng khóc của đứa trẻ hàng xóm, từ cây viết chì cũ nằm trên bàn viết cho đến sự chuyển động linh hoạt của từng bắp thịt trong bàn tay, từ cọng cỏ mọc hoang bên lề đường cho đến những rặng cây đứng hiên ngang giữa cánh đồng lộng gió, từ những viên đá cuội cho đến các rặng núi già mòn, từ con bướm đêm bay lạc vào nhà cho đến bầy ngỗng trời thiên di trú rét mỗi năm ghé ngang khu đầm nước mặn gần thành phố, v.v. và v.v. đều có những cái đẹp đặc biệt và kỳ diệu của nó.
Mỗi hơi thở của bạn sẽ ngọt ngào hơn, mỗi chén cơm sẽ thơm ngon hơn, mỗi làn gió lùa qua tóc sẽ mát mẻ hơn, mỗi tia nắng trên da mặt sẽ dịu dàng hơn, màu hoàng hôn sẽ rực rỡ hơn, tiếng chim hót sẽ rộn ràng hơn, sự yên tỉnh trong đêm sẽ thanh thản hơn, giọng người rao mời ngoài chợ sẽ sinh động hơn. Nói cách khác, tất cả mọi sự vật lớn nhỏ trên đời đều mang đầy ý nghĩa của sự sống hơn và bạn sẽ hấp thu sự sống nầy một cách tràn trề và tận tình hơn.
Và nhiều sự mất mát, nhiều buồn phiền hay lo lắng hàng ngày trong đời bạn cũng sẽ tự nhiên không còn đáng kể nữa. Vài vụ thua lỗ thất thoát trong việc làm ăn sẽ không còn là các đại họa nữa, một chứng bệnh dù trầm kha cũng không còn là nỗi khổ đau cùng cực trong cuộc đời nữa, bị kẹt xe phải ngồi chờ giữa buổi trưa nắng gắt không còn là một cực hình nữa, bữa cơm không có các món ăn vừa miệng không còn là một điều bực bội khó chịu nữa. Đó là vì bạn biết rằng ngay cả những mất mát, buồn phiền hay lo lắng trên cũng không tồn tại mãi mãi. Đó là vì bạn biết rằng tất cả những điều trên chỉ là một giá rất rẻ phải trả cho cái cơ hội ngẫu nhiên quý báu được hiện diện trong sự sống trên hành tinh nầy.
Nếu nhớ sự kiện nầy hàng ngày, hàng giờ và đừng để bị phân tâm bởi những bận rộn không cần thiết thì quan điểm trên sẽ mang lại một sức mạnh và một cơ bản trong triết lý sống không cần lệ thuộc vào những đấng thiêng liêng tưởng tượng nữa.
Tôi là một trong những người đó.
Một điều phải công nhận là cái khái niệm “mỗi người đứng một mình đơn độc giữa vũ trụ bao la trong cuộc đời nầy” có thể rất đáng sợ hãi đối với những người xưa nay quen lệ thuộc vào niềm tin có các đấng thiêng liêng để che chở.
Tuy vậy, cái khái niệm nầy cũng có thể đem đến sự độc lập và sức mạnh của một người nhận thức được rằng không có huyền lực nào hiện hữu để tưởng thưởng hay trừng phạt mình. Với quan niệm nầy, nếu tôi chủ tâm làm một việc gì trên đời thì đó là vì tôi lựa chọn và muốn làm điều đó cho chính tôi chớ không phải vì hy vọng một phần thưởng hay e sợ một hình phạt gì cả về sau. Đối với tôi đó là một niềm tự hào và một hạnh phúc không nhỏ.
Có người cho rằng với những quan điểm nầy của tôi về tôn giáo thì tôi luôn luôn sẽ là người đơn độc.

Có lần nọ tôi xem một cuốn phim tài liệu về những đàn cừu của dân du mục trên các cánh đồng hoang ở Siberia. Chúng chen chúc, dựa lấn lẫn nhau, lấm la lấm lét, luôn luôn sợ sệt không con nào muốn đứng ở gần ngoài bìa cả. Trong đầu chúng, lúc nào cũng lởn vởn các răng nanh nhọn đâu đó của những con sói dữ vô hình. Trên đầu chúng, mây trắng nuột giữa bầu trời xanh biếc. Nhưng dĩ nhiên là đàn cừu không thể nào có tâm trí, và khả năng, thưởng lãm được cái đẹp thiên nhiên tuyệt vời của những cánh đồng hoang nầy.