Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

CÁC NHÓM ĐẠO CHÚA: TRƯỜNG PHÁI DUY LINH



Trường Phái Duy Linh (Spiritualism)  phát triển ở Mỹ và có số hội viên lên đến đỉnh cao từ thập niên 1840s đến thập niên 1920s,  đặc biệt trong các xứ nói tiếng Anh. Cho tới năm 1897,  người ta nói là ở Mỹ Quốc và ỏ Âu Châu có hơn tám triệu tín hữu, phần lớn thuộc tấng lớp trung và thượng lưu.
Tôn giáo này đã phát triển trong nửa thế kỷ mà không có thánh kinh hay tổ chức chánh thức nào, liên kết với nhau được nhờ có các tập san, các sự lưu giảng của những người có khả năng xuất thần (trance lecturers) , các cuộc cắm trại và những hoạt động truyền giáo do các đồng tử thực hiện.
Nhiều nhà Duy Linh lỗi lạc là phụ nữ. Hầu hết những tín hữu ủng hộ các chính nghĩa như sự xóa bỏ chế độ nô lệ và quyền bầu cử cho phụ nữ.
Cho tới cuối thập niên 1880s, sự tín nhiệm vào phong trào không chính thức suy giảm đi, do có các cáo buộc về đồng tử giả và các tổ chức Duy Linh chánh thức bắt đầu xuất hiện. Trường Phái Duy Linh hiện nay được thực hành chủ yếu qua nhiều chi phái của các Nhà Thờ Duy Linh (Spiritualist Churches) ở Hoa Kỳ và Vương Quốc Anh.

Sự kích động của khách bàng quan có thể được nhận thấy rõ rệt khi một nhà Mesmerist dùng phép thôi miên tạo ra sự xuất thần.
(Tranh vẽ của họa sĩ Thụy Điển Richard Bergh, 1887)


8.1.       NGUỒN GỐC

Trường phái Duy Linh lần đầu xuất hiện trong thập niên 1840 trong Địa Hạt Bị Cháy Rụi (Burned-over District) của phần đất phía bắc thành phố New York (upstate New York), nơi mà những phong trào tôn giáo trước đó như Trường Phái Miller, (Millerism), Chúa Sắp Tái Lâm Ngày Thứ Bảy (Seventh-Day Adventism), và Đạo Mormon (Mormonism) đã nổi lên trong thời Đại Thức Tỉnh Lần Thứ Hai.

8.2.       CÁC NHÓM DUY LINH

8.2.1.           SWEDENBORG VÀ MESMER

Trong “Khu vực bị cháy rụi” ở New York, khu vực mà người ta tin rằng sự câu thông trực tiếp với Thượng Đế và Thần Tiên có thể thực hiện được, những bài viết của Emanuel Swedenborg (1688-1772) và những lời dạy của Franz Mesmer (1734-1815) đã cung ứng một thí dụ cho những ai đi tìm kiến thức trực tiếp về cuộc sống bên kia cửa tử.
Swedenborg, người bảo rằng có thể thông công được với các hồn linh ngay khi tỉnh thức, đã mô tả cấu trúc của thế giới hồn linh. Hai sắc thái của quan điểm này đã đặc biệt cộng hưởng với những người tin theo các giáo huấn duy linh trước đó: thứ nhất, không phải chỉ có một thiên đàng hay một địa ngục duy nhất, mà là một loạt những thiên đàng địa ngục cao thấp khác nhau; thứ hai, rằng các hồn linh là những bậc phẩm trung gian giữa Thượng Đế và loài người, cho nên Đấng Thiêng Liêng thỉnh thoảng sử dụng họ như là một phương tiện để giao tiếp. Dù rằng Swedenborg cảnh giác không nên tìm cách liên hệ với hồn linh, sách của ông dường như đã khơi dậy ước muốn đó trong lòng người khác.
Mesmer không đóng góp vào đức tin tôn giáo, nhưng ông mang lại một kỷ thuật, về sau được biết là phép thôi miên, làm cho có thể đưa đến sự xuất thần và khiến cho những cá nhân bị thôi miên báo cáo là có câu thông được với các sinh linh siêu nhiên. Có rất nhiều những ngón nghề tự đề cao trong các mà biểu diễn của Mesmerism, và các nhà thực hành đi thuyết giảng trong khoảng giữa thế kỷ 19 ở Bắc Mỹ tìm cách vừa làm vui thính chúng vừa biểu diễn các phương pháp để có sự tự mình câu thông với các Đấng Thiêng Liêng.

8.2.2.           ANDREW JACKSON DAVIS

Có lẽ người nổi tiếng nhất trong số những kẻ liên kết Swedenborg với Mesmer theo một kiểu tổng hợp của Bắc Mỹ là  Andrew Jackson Davis, ông gọi hệ thống của mình là Triết Lý Hài Hòa (the Harmonial Philosophy). Davis trước đó hành theo pháp của Mesmer, là người trị bệnh bằng đức tin và là người có thần nhản ở xứ Poughkeepsie, New York. Quyển sách năm 1847 của ông, The Principles of NatureHer Divine Revelations,  A Voice to Mankind (Pháp của Tự Nhiên Những Tiết Lộ của Nàng, Một Lời Kêu Gọi Loài Người), được đọc cho một người bạn chép trong khi ông đang trong trạng thái xuất thần, sau đã trở thành thứ gần gủi nhất với một quyển kinh trong phong trào Duy Linh mà chủ nghĩa cá nhân cực độ của nó đã ngăn cản sự phát triển một nhân sinh quan và  vũ trụ quan có tính mạch lạc.


8.2.3.           NHNG MC XÍCH CA PHONG TRÀO CANH TÂN

Những nhà duy linh coi ngày 31-3-1848 như ngày bắt đầu của giòng vận động của mình. Vào ngày ấy,Kate  Margaret Fox, ở Hydesville, New York, báo cáo là họ đã câu thông được với linh hồn của một người bán ma túy bị ám sát.
Điều làm cho việc này thành ra một sự cố lạ thường là rằng hồn linh ấy đã giao tiếp qua những tiếng  gỏ mà người bàng quan có thể nghe được. Bằng chứng của giác quan làm cho những người Mỹ có đầu óc thực tiễn thích thú và sự cố chị em nhà Fox trở thành một nguồn xúc động mạnh.
Amy  Isaac Post, những Quakers thuộc phái của Elias Hick, từ Rochester, New York, từ lâu quen thuộc với gia đình Fox, đưa hai cô gái về nhà mình vào cuối mùa xuân 1848. Bị thuyết phục ngay bởi sự chơn thật trong việc câu thông của mấy chị em, họ trở thành những người cải đạo buổi đầu và giới thiệu các đồng tử trẻ tuổi này cho giới bạn bè thuần thành với giáo phái Quakers của mình. 
Do vậy mà nhiều trong số những người tham gia vào trường phái Duy Linh từ buổi đầu là những người Quakers thuần thành và những kẻ khác là những người vào phong trào cải cách của giữa thế kỷ thứ 19. Những nhà cải cách này không thoải mái với  các nhà thờ đã được chính thức hóa, vì họ đã làm rất ít để chiến đấu chống lại chế độ nô lệ và còn ít hơn nữa trong việc thúc đẩy chánh nghĩa đòi nữ quyền.
Phụ nữ đặc biệt bị hấp dẫn vào phong trào, vì nó cho họ vai tuồng quan trọng là đồng tử và các người thuyết giảng xuất thần. Thực vậy, trường phái Duy Linh đã cung ứng một trong những diễn đàn đầu tiên trong đó phụ nữ Mỹ có thể nói chuyện nơi công cộng trước một cử tọa có cả hai giới tính nam lẫn nữ.
Nhà thuyết giảng xuất thần được nhiều người biết đến trước cuộc nội chiến là Cora L. V. Scott (1840–1923). Trẻ, đẹp, sự xuất hiện của cô trên diển đàn làm cho đàn ông say mê. Cử tọa của cô bị ấn tượng bởi sự tương phản giữa hình dáng con gái và sự hùng biện khi cô nói tới những chuyện tinh thần và thấy rằng trong  cái tương phản ấy có điểm tựa cho nhận xét rằng hồn linh đang nói qua cô. Cora lập gia đình bốn lần, và mỗi lần cô đều mang họ nhà chồng. Trong thời gian hoạt động mạnh nhất, cô được biết với tên là Cora Hatch.
Một người Duy Linh phụ nữ khác là Achsa W. Sprague, sinh ngày 17-11-1827, ở Plymouth Notch, Vermont. Vào tuổi 20, cô bị sốt do bệnh thấp khớp và tin rằng mình được khỏi bệnh hẳn là do các hồn linh đã cầu nguyện cho. Là một người thuyết giảng xuất thần được quần chúng cực kỳ ưa thích, cô đi khắp nước Mỹ cho tới khi cô chết năm 1861. Sprague là một người theo chủ nghĩa bãi nô và là người bênh vực nữ quyền.
Còn một nhà duy linh lỗi lạc và là một đồng tử xuất thần trước cuộc nội chiến là Paschal Beverly Randolph (1825–75), một người Mỹ gốc Phi Châu (Người tự do có da màu), cũng có một vai tuồng trong phong trào đòi bãi nô. Dù vậy, nhiều người theo chủ trương bãi nô và những nhà cải cách giữ mình tách biệt với phong trào; trong số những người hoài nghi có  một cựu nô lệ có tài hùng biện, Frederick Douglass.


8.2.4.           NGƯI TIN TƯNG VÀ K NGHI NG

Nhưng những năm theo sau cuộc xúc động của quần chúng đón mừng chị em Fox, các cuộc biểu dương việc câu thông (thí dụ như các buổi gọi hồn và sự chấp bút) tỏ ra là một vụ làm ăn có lợi nhuận nên sớm trở thành một hình thức giải trí và là một việc gây hưng phấn tâm linh. Việc hẳn nhiên đến là chị em nhà Fox đã kiếm sống kiểu này và những kẻ khác theo đường họ đã tiên phong.
Nghệ thuật tự đề cao trở thành một phần ngày càng quan trọng trong trường phái Duy Linh,và bằng chứng nghe được, thấy được, sờ mó được của các chơn linh  ngày càng leo thang khi các đồng tử cạnh tranh nhau để có khán thính giả trả tiền tham dự. Lừa đảo hẳn nhiên phổ biến, vì những ủy ban điều tra độc lập mãi được tái lập, đáng lưu ý nhất là bản báo cáo năm 1887 của Ủy Ban Seybert (Seybert Commission). Một số trường hợp lừa đảo được thực hiện dưới  chiêu bài Duy Linh đã bị truy tố ra Tòa. 
Những nhà điều tra nổi trội phơi bày các trường hợp gian lận đến từ nhiều tầng lớp giáo dục khác nhau, có những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp như  Frank Podmore của Hội Nghiên Cứu Siêu Linh (Society for Psychical Research)[15] hay Harry Price của Phòng Thí Nghiệm Quốc Gia Nghiên Cứu Siêu Linh (National Laboratory of Psychical Research)[16], và những nhà ảo thuật chuyên nghiệp như John Nevil Maskelyne. Maskelyne đã vạch trần anh em Davenport bằng cách xuất hiện giữa cử tọa của họ và giải thích các mánh khóe họ đã thực hiện.
Tong thập niên 1920s, nhà ảo thuật chuyên nghiệp Harry Houdini đã dấn tân vào cuộc thánh chiến khá công khai chống lại những đồng tử giả mạo. Xuyên suốt các nổ lực của mình, Houdini luôn giữ kỷ cương là ông không chống lại tự thân trường phái Duy Linh, mà chỉ chống lại sự thực hành gian lận và lừa đảo cố ý vì mục tiêu tiền bạc.
Bất chấp những sự lừa đảo đang phổ biến,  sự hấp dẫn của phong trào Duy Linh vẫn mạnh.  Nổi trội nhất trong số những người tin theo là những kẻ đau khổ vì thân nhân mình thương yêu mới mất. Một trường hợp được nhiều người biết đến là trường hợp bà Mary Todd Lincoln khi đang buồn khổ vì con trai bị mất, đã tổ chức buổi cầu tiếp chơn linh trong Tòa Bạch Ốc, có chồng mình, Tổng Thống Abraham Lincoln, tham dự. Sự gia tăng quan tâm vào trường phái Duy Linh trong và sau cuộc Nội Chiến Mỹ Quốc và cuộc Đại Chiến thứ nhất là một phản ứng trực tiếp từ các cuộc thương vong to lớn.
Thêm vào đó, phong trào cố tình hấp dẫn những người đòi cải cách, họ ngẫu nhiên thấy là các chơn linh tán thành những chánh nghĩa thời thượng như bình quyền. Nó cũng hấp dẫn những người có khuynh hướng theo chủ nghĩa duy vật và từ chối tôn giáo có tổ chức. Nhà duy vật và vô thần có thế lực Robert Owen[17] qua các kinh nghiệm của mình với giới Duy Linh đã  quay sang tin tưởng tôn giáo này cho tới mãn đời.
Nhiều khoa học gia nghiên cứu hiện tượng này cũng trở thành những người đổi Đạo. Trong số đó có các nhà hóa học kiêm vật lý học William Crookes (1832–1919), nhà sinh vật học cách mạng Alfred Russel Wallace (1823-1913) và người đoạt giải Nobel về vật lý Charles Richet. Những người tin tưởng nổi trội khác nữa là nhà báo theo chủ nghĩa hòa bình William T. Stead (1849-1912) và bác sĩ kiêm văn sĩ Arthur Conan Doyle (1859-1930). Nhà tâm lý học tiên phong người Mỹ William James đã ngiên cứu việc tâm linh và cho ấn hành những kết luận có tính ủng hộ. Những buổi thiết lễ cầu linh của Eusapia Palladino đã có sự tham dự của các nhà nghiên cứu kể cả Pierre và Marie Curie.

8.2.5.           PHONG TRÀO TÂM LINH KHÔNG THUC T CHC NÀO

Phong trào tâm linh mau lẹ bành trướng trên khắp thế giới; dù chỉ ở Anh nó mới trở thành phổ biến như ở Mỹ. Ở Anh, năm 1853, những cuộc mời nhau uống trà trong số các người giàu có và theo thời thường có kèm theo màn xây bàn, một kiểu đàn cầu thỉnh trong đó các hồn linh sẽ thông công giao tiếp với những người ngồi quanh một cái bàn bằng cách làm nó nghiêng hoặc xoay.  
Một người quan trọng dấn thân theo việc này là nhà mô phạm Allan Kardec (1804-1869) nói ở mục 2 của phần Phụ Lục này, đã tiên phong nỗ lực hệ thống hóa các ý tưởng và sự thực hành của phong trào để thành ra một hệ thống triết học nhất quán. Sách của ông, được viết trong mười lăm năm cuối đời, đã trở thành nền tảng hữu tự cho những người theo phái Thông Linh, phổ biến ở các xứ La Tinh. Ở Brazil, nhiều tín hữu ngày nay còn chấp giữ ý tưởng của Allan Kardec. Ở Puerto Rico, sách của ông được nhiều người thuộc giới thượng lưu đọc, và rốt cuộc đã làm nảy sinh ra phong trào được biết với tên là Cái Bàn Trắng (Mesa Blanca).
Phong trào Duy Linh chủ yếu là một phong trào của giới trung và thượng lưu, và đặc biệt phổ biến trong giới phụ nữ. Các nhà Duy Linh Mỹ thường gặp nhau tại tư gia để cầu thỉnh hồn linh, ở các thính đường để dự buổi thuyết giảng xuất thần, ở các  buổi hội nghị tiểu bang hay quốc gia và ở các trại Hè có nhiều ngàn người tham dự.
Trong số những buổi gặp gỡ cắm trại đáng kể nhất, có Trại Etna ở Etna, Maine, Rừng Onset Bay Grove ở Onset, Massachusetts; Thung Lũng Lily Dale, ở miền tây tiểu bang New York State; Trại Chesterfield, ở Indiana; the Trại Các Nhà Duy Linh Wonewoc Spiritualist Camp, ở Wonewoc, Wisconsin; và Hồ Pleasant, ở Montague, Massachusetts. Để thành lập một cuộc gặp gỡ cắm trại (camp meetings), các người Duy Linh đã biến cải cho thích nghi một mẫu mà những giáo xứ Tin Lành Hoa Kỳ đã tạo ra từ đầu thế kỷ thứ 19. Những cuộc cắm trại họp mặt của người Duy Linh thường tổ chức nhiều nhất ở New England và California, nhưng cũng có được tổ chức xuyên qua phía trên của miền Trung Tây.  Cassadaga, Florida, là trại Duy Linh đáng lưu ý nhất thuộc các tiểu bang miền Nam.
Một số các tập san của người Duy Linh đã xuất hiện trong thế kỷ 19, và những tập san này đã làm được nhiều điều để giữ cho phong trào được cùng nhau gìn giữ. Trong số những tập san quan trọng nhất, có Ngọn Cờ Ánh Sáng (The Banner of Light -Boston), Tạp Chí Tôn Giáo Triết Học (The Religio-Philosophical Journal -Chicago), Tinh Thần và Vật Chất (Mind and Matter -Philadelphia), Những Nhà Duy Linh (The Spiritualist-  London), và Đồng Tử (The Medium -London).
Những tập san có uy tín khác nữa là Tạp Chí Thông Linh (Revue Spirite -Pháp), Thiên Sứ (Le Messager –Bỉ), Annali dello Spiritismo (Ý), El Criterio Espiritista (Tây Ban Nha), và Tiên triệu của Ánh Sáng (The Harbinger of Light -Úc). Cho tới  1880, có khoản ba tá nguyệt san Duy Linh được in trên khắp thế giới. Những tập san này khác nhau rất nhiều, phản ảnh sự khác biệt lớn trong sô những người Duy Linh. Một số, như tờ Tạp Chí Tâm Linh của Anh Spiritual Magazine là thuộc Công Giáo và bảo thủ, công khai chỉ trích. Một số khác như tờ Bản Chất Con Người (Human Nature), lại nhấn mạnh là không theo Công Giáo và ủng hộ cho các nổ lực canh tân và xã hội chủ nghĩa.  Cũng có những tờ khác, như Nhà Duy Linh (The Spiritualist), lại toan coi hiện tượng Duy Linh từ một góc độ khoa học, kiêng cử không bàn luận tới cà hai vấn đề thần học và cải cách.
Phong trào có tính cách cực kỳ cá nhân, mỗi người dựa vào kinh nghiệm riêng của mình và đọc sách báo để phân định bản chất của cuộc sống bên kia cửa tử. Các tổ chức do vậy mà chậm phát triển và khi nó xuất hiện, nó lại bị các đồng tử và các nhà thuyết giảng xuất thần phản đối. Hầu hết hội viên chịu đi nhà thờ Công Giáo, và đặc biệt các nhà thờ Phổ Độ, nơi tụ tập của nhiều nhà Duy Linh.
Khi phong trào bắt đầu mờ nhạt đi, môt phần qua sự mất lòng tin cậy của quần chúng vì các cáo buộc gian lận, một phần qua sự hấp dẫn của các hoạt động tôn giáo nhưKhoa Học Công Giáo (Christmas Science), Nhà Thờ Duy Linh (Spiritualist Church) được thành lập. Nhà thờ này nói rằng mình là dấu tích chính yếu của phong trào ngày nay còn lại ở Hoa Kỳ.

8.2.6.           NHNG ĐNG T KHÁC

William Stainton Moses (1839–92) là một giáo phẩm Anglican trong thời gian từ 1872 đến 1883, đã chấp bút (automatic writing) viết đầy 24 tập vở phần lớn trong đó được nói là để mô tả các hoàn cảnh trong thế giới tâm linh.
Cô đồng Emma Hardinge Britten (1823–99) sinh ở London di cư sang Mỹ năm 1855 và là người năng nổ làm việc thuyết giảng xuất thần và tổ chức trong giới duy linh. Cô ta được biết đến nhiều nhất như là một người  viết biên niên sử về sự phát triển của phong trào, đặc biệt trong quyển sách năm 1884 của cô Phép lạ trong Thế Kỷ 19: Các Nhà Duy Linh và Những Hoạt Động Của Họ Trong Mỗi Nước Trên thế Giới (Nineteenth Century Miracles: Spirits and their Work in Every Country of the Earth.)
Eusapia Palladino (1854-1918) là một đồng tử Duy Linh người Ý từ những khu vực nghèo nàn của Naples đã lập nên sự nghiệp trong việc đi du hành qua Ý, Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga và Ba Lan. Nhiều lần mưu mẹo của bà bị lật tẩy dù rằng  một vài nhà điều tra, kể cả các khoa học gia có được giải Nobel, đã công nhận là bà có các khả năng đồng tử.
Người ta tin rằng nhà tâm lý học Ba Lan  Julian Ochorowicz, năm 1893 đã đưa bà từ St. Petersburg, Nga, tới Warsaw, Ba Lan. Ông giới thiệu bà với tiểu thuyết gia Bolesław Prus, người này tham dự vào cuộc cầu hồn của cô ta và đã kết hợp các yếu tố duy linh vào tiểu thuyết lịch sử Pharaoh của mình.
Ochorowicz cũng còn nghiên cứu, 15 năm sau, trường hợp của một đồng tử tên Stanisława Tomczyk, phát lên tại Wisla, Ba Lan.

8.3.       TÍN NGƯỠNG CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI DUY LINH

Một số tín ngưỡng của trường phái Duy Linh thì giống nhau nhưng cũng có những điều khác nhau tùy nhóm.

8.3.1.           TÍN NGƯNG HU THN (THEISM)

Hầu hết các người trong trường phái Duy Linh tin vào thuyết Nhất Thần, vào Đức Thượng Đế Đại Từ Bi, giống như Công Giáo. Nguyên lý tiên khởi của Hiệp Hội Quốc Gia Duy Linh là “Phận Làm Cha của Thượng Đế”

8.3.2.           ĐNG T VÀ CÁC CHƠN LINH

Người thuộc trường phái Duy Linh tin vào các cuộc thông linh với những người đã chết. Họ tin rằng:
Các đồng tử có khả năng câu thông với hồn linh là các người có năng khiếu bẩm sinh để làm việc này. 
Hồn linh có thể tiến hóa và hoàn thiện, bước sang các hành tinh hay các cảnh giới khác.
Cõi sống bên kia cửa tử không phải là một chỗ tĩnh đọng, mà là nơi mà hồn linh có thể tiến hóa. Hai thứ đức tin này – rằng có thể liên lạc được với hồn linh và hồn linh có thể ở một cảnh giới cao hơn – dẫn đến một đức tin thứ ba rằng
Hồn linh có thể cung ứng các kiến thức về phẩm hạnh và đạo đức cũng như về Thượng Đế và về  cuộc sống bên kia cửa tử.
Cho nên nhiều thành viên của trường phái Duy Linh nói tới sự hướng dẫn tâm linh, từ những chơn linh đặc trưng, thường câu thông được và được tín cẩn trong các sự hướng dẫn về việc trần thế và việc tâm linh.
Nhưng một số người Công Giáo cho trường phái Duy Linh là yêu thuật. Bảng biểu ngữ này năm 1865 ở Hoa Kỳ cũng lên án các liên kết của Phái Duy Linh với  chủ nghĩa bãi nô và qui tội cho phái này đã gây ra cuộc Nội Chiến.

8.4.       SO SÁNH VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC

8.4.1.           CÔNG GIÁO

Vì Phái Duy Linh xuất phát từ môi trường Công Giáo, nó có các sắc thái giống với Công Giáo, từ một hệ thống đạo đức chủ yếu là thuộc Công Giáo cho tới các thực hành nghi thức tế lễ như các buổi lễ ngày chủ nhật và các cuộc hát thánh ca.
Dù vậy, về những điểm  quan trọng, Công Giáo và Phái Duy Linh có khác nhau. Những người tin theo các giáo huấn duy linh không tin rằng việc làm hay đức tin của một người còn trong vòng sinh tử trong một kiếp sống ngắn ngủi lại có thể coi như một cơ bản để chỉ định hồn vào cõi Thiên Đàng hay Địa Ngục đời đời.
Họ coi cuộc sống bên kia cửa tử như có chứa các bầu (sphere), qua đó mỗi hồn linh có thể tiến hóa. Quan điểm này liên hệ tới  ý tưởng của người Công Giáo về Lò Luyện Tội.
Những người theo trường phái duy linh khác với người theo Đạo Tin Lành ở chỗ Kinh Thánh Judeo Công Giáo không phải là nguồn gốc chính yếu từ đó họ rút ra những hiểu biết về Thượng Đế và về cuộc sống bên kia cửa tử: đối với họ, những sự tiếp xúc cá nhân với những hồn linh cung ứng điều này.

8.4.2.           CÁC TÔN GIÁO BN X

Đức tin của người theo giáo thuyết Vật Linh (Animist), với truyền thống của giáo thuyêt  shamanism[18] và sự tiếp xúc với hồn linh, cũng tương tự như giáo thuyết Duy Linh.
Trong những thập niên đầu tiên của phong trào này, nhiều đồng tử đã tuyên bố rằng mình có câu thông được với những Linh Hồn Hướng Đạo Của Người Mỹ Bản Địa, coi như cách thừa nhận rõ ràng có các tương đồng này.
Dù vậy, không như những người theo giáo thuyết Vật Linh, người theo giáo thuyết Duy Linh nói tới hồn của con người đã chết chớ không tán thành tín ngưỡng vào hồn linh của cây cối, sông suối hay những biểu hiện thiên nhiên khác.

8.4.3.           HỒI GIÁO (ISLAM)

Trong Hồi Giáo, một số các tập tục, đặc biệt là Sufism[19], coi các sự câu thông với hồn linh là có thể được. Thêm nữa, quan niệm của Tawassul[20] nhìn nhận có sự tồn tại của những hồn linh tốt lành trên cao hơn và gần hơn với Thượng Đế, và do đó có thể nhân danh nhơn loại mà đứng ra can thiệp.
Ấn Giáo, dù không đồng nhất, có chung tín ngưỡng với trường phái Duy Linh về sự tồn tại của linh hồn bên kia cửa tử. Nhưng Ấn Giáo khác ở chỗ họ  tin vào sự luân hồi và chấp giữ quan điểm rằng mọi sắc thái của nhân cách người ta triệt tiêu hẳn lúc chết. Trường phái Duy Linh tin chắc rằng hồn linh còn giữ bản sắc nhân cách mà nó có trong cuộc tồn sinh nhân loại.

8.4.4.            TRƯNG PHÁI THÔNG LINH (SPIRITISM)

Trường  phái Thông Linh, một chi của trường phái Duy Linh phát triển bởi Allan Kardec và được tìm gặp ở phần lớn các quốc gia La Tinh, nhấn mạnh vào sự luân hồi.
Nhưng theo Arthur Conan Doyle, hầu hết trường phái Duy Linh của đầu thế kỷ thứ hai mươi không quan tâm tới giáo thuyết về luân hồi, ít người ủng hộ thuyết ấy, trong khi có một thiểu số đáng kể chống đối lại vì vấn đề đó không hề được các hồn linh đề cập tới trong các đàn giao tiếp.
Cho nên, theo Doyle,  chính cái khuynh hướng thực nghiệm của trường phái Duy Linh nói tiếng Anh — nổ lực phát triển quan điểm tôn giáo từ sự quan sát các hiện tượng — đã giữ không cho các thành viên Duy Linh của thời kỳ náy ủng hộ quan điểm về luân hồi.

8.4.5.        TRƯNG PHÁI BÍ GIÁO (OCCULTISM)

Dòng tu bí giáo từ cuối thế kỷ 19 là dòng tu duy nhất còn ảnh hưởng mạnh trên trường bí giáo cho đến thế kỷ 20, được thành lập bởi Dr. William Robert Woodman, William Wynn Westcott, và Samuel Liddell MacGregor Mathers.
Westcott cũng thuộc Thông Thiên Học nữa và dường như ông là người lãnh đạo chính yếu và là người đã giải mã bảng sách viết tay Cipher Manuscript. Từ sự giải mã này, ông biết tên và địa chỉ của Anna Gprengel. Tháng 10 năm 1887, ông viết thư đến và được khen ngợi, ba người được phong Adeptus Exemptus và được trao cho đồ biểu để lập đền Golden Dawn xây dựng năm phẩm cấp mà bản viết tay nói tới.
Cấp Một là Ngoại Môn (The Outer Order) bắt đầu được mở khi xây dựng xong Đền Isis-Urania năm 1888. Khóa tu này  thu nhận nam nữ số lượng ngang nhau (khác với Societas Rosicruciana in America và Masonry). Chương trình cho cấp một là triết học và siêu hình học.
Nhưng năm 1891, thư từ với Anna Sprengel bị đình chỉ, Wescott nhận tin từ Đức nói rằng hoặc bà ấy đã chết hoặc các người đồng sự với bà không tán thành việc lập trường bí giáo, muốn liên hệ với các Đấng Lãnh Đạo vô hình thì phải tự thực hiện thôi. Cũng trong năm 1891, Woodman chết.
Năm 1892, Mathers tuyên bố là đã lập được liên hệ với các Đấng Lãnh Đạo vô hình và tiếp tục lập chương trình cho Cấp Hai (Nội Môn) bắt đầu năm 1892 cho các đệ tử đã học xong Ngoại Môn. Năm 1897, Westcott rời Golden Dawn. Một mình Mathers chống đỡ với các cuộc phản đối và chia rẻ.
Khoảng giữa 1901 và 1913, Mathers đặt tên lại cho chi phái còn trung thành với sự lãnh đạo với ông là Alpha et Omega. Ông giao quyền các đền thờ ở Anh và Scotland cho Brodie-Inne để lo mở rộng sang Mỹ. Đền Thoth-Hermes đã được lập ở Chicago và trước đại chiến thứ nhất, Mathers đã lập được từ tới 3 đền ở Mỹ. Hầu hết các đền Alpha & Omega và Stella Matutina đã đóng cửa hay vô chủ trước thập niên 1930 trừ hai đền: Hermes Temple ở Bristol và Whare Ra ở Havelock North, New Zealand còn hoạt động đều đặn cho tới lúc đóng cửa năm 1978. (http://en.wikipedia.org/wiki/Hermetic_Order_of_the_Golden_Dawn)
Trường phái Duy Linh khác với các phong trào Bí Giáo như  Dòng Tu Kín của Buổi Bình Minh Hoàng Kim (Hermetic Order of the Golden Dawn) hay các tổ chức  Wiccan (thuộc các nhà phù thủy hiện đại) ở chỗ người ta không câu thông với hồn linh để được các quyền năng pháp thuật (trừ phi để có quyền năng chữa bệnh).
Thí dụ, bà Blavatsky (1831–1891) của Hội Thông Thiên Học chỉ thực hành việc đồng tử để câu thông với những chơn linh có quyền thế có thể đem tới các kiến thức bí truyền. Bà Blavatsky không tin rằng những chơn linh này là những con người đã khuất và bền giữ lòng tin vào sự luân hồi khác với quan điểm của hầu hết những nhà duy linh.

8.5. SAU THẬP NIÊN 1920

Sau thập niên 1920s, trường phái Duy Linh phát triển theo ba chiều hướng khác nhau, tất cả đến nay còn tồn tại.

8.5.1.           THUY HP NHT

Chiều hướng thứ nhất trong số này tiếp tục truyền thống của các hành giã cá nhân, tổ chức thành những nhóm tập trung quanh một đồng tử và các khách hàng mà không có hệ cấp chúc phẩm hay giáo điều nào.
Cho tới cuối thế kỷ thứ 19, phong trào duy linh đã trở nên ngày càng hỗn tạp, một phát triển tự nhiên trong một phong trào không có một quyền lực trung ương hay một giáo điều. Ngày nay, trong số những nhóm không tổ chúc này, phái duy linh không sẵn sàng phân biệt được so với phong trào cũng hổn độn tương tự là phong trào Thời Đại Mới ( New Age).
 Những nhà duy linh này thực là không đồng nhất nhau trong tín ngưỡng của mình liên quan tới các vấn đề như luân hồi hay sự tồn tại của Thượng Đế. Một số mô phỏng đức tin của mình theo tín ngưỡng của Thời Đại Mới (New Age và Neo-Pagan beliefs, trong khi những người khác tự gọi mình là những người duy linh công giáo (Christian Spiritualists), tiếp tục truyền thống cẩn trọng hội nhập các kinh nghiệm duy linh của mình vào với đức tin Công Giáo.

8.5.2.           NHÀ TH DUY LINH

Hướng thứ hai được theo là hướng chấp nhận tổ chức chánh thức, làm theo kiểu mẫu các giáo xứ Công Giáo, có tín điều và nghi lễ được thiết lập và có các đòi hỏi phải huấn luyện đồng tử.
Ở Hoa Kỳ, các Nhà Thờ Duy Linh thoạt đầu  nhận làm hội viên của Liên Hiệp các Nhà Thờ Duy Linh Toàn Quốc ( National Spiritualist Association of Churches), và ở Anh Hiệp Hội Quốc Gia Các Nhà Duy Linh (Spiritualists' National Union), thành lập năn 1901.
Giáo dục chánh thức về phép tu Duy Linh nổi lên từ năm 1920, ngày nay còn tiếp tục với Trường Trung Học Arthur Findlay tại Stansted Hall.
Những khác biệt tín ngưỡng giữa các nhà duy linh có tổ chúc đã dẫn tới một vài sự ly giáo, đáng kể nhất là việc xảy ra ở vương quốc Anh năm 1957 giữa những người bảo thủ ý kiến rằng phong trào là môt tôn giáo có sắc thái độc đáo riêng của mình (sui generis) và một thiểu số muốn giữ nó như một giáo đoàn nằm trong Công Giáo.
Phép tu của phong trào Duy Linh có tổ chức ngày nay giống như của bất cứ tôn giáo nào khác, đã loại bỏ hầu hết những điều có tính biểu dương, đặc biệt là những yếu tố  giống như thuật phù thủy. Cho nên có sự nhấn mạnh nhiều vào loại đồng “cõi trí” và một sự tránh né hầu như hoàn toàn kiểu đồng tạo phép lạ trong vật chất vốn đã làm say mê những tín hữu ban đầu như Arthur Conan Doyle.

8.5.3.           TRƯNG PHÁI CUC SNG BÊN KIA CA T     

Hướng thứ ba được theo là tiếp nối của chiều hướng thực nghiệm cho các hiện tượng tôn giáo. Từ năm 1882, với sự thành lập Hội Nghiên Cứu Tâm Linh, đã có các tổ chức thế tục nổi lên để điều tra nghiên cứu những tuyên bố tâm linh.
Ngày nay, nhiều người với khảo hướng thực nghiệm tránh cái nhãn hiệu duy linh và ưa cái nhãn hiệu “sống tiếp” (survivalism).  Những người này kiêng kị tôn giáo, và đặt cơ bản đức tin của mình vào cuộc sống bên kia cửa tử dựa vào các hiện tượng có thể thông qua được với ít nhất là cuộc điều nghiên có tính khoa học, như là hiện tượng đồng tử, các kinh nghiệm cận kề cái chết, các kinh nghiệm bên ngoài thân thể, các hiện tượng tiếng nói điển lực, và các nghiên cứu về luân hồi.
Nhiều người theo trường phái “Sống Tiếp” tự coi mình như những thừa kế trí tuệ của phong trào duy linh.

Source: http://www.daotam.info/

CÁC NHÓM ĐẠO CHÚA: TRƯỜNG PHÁI QUAKERS

      

Hiệp Hội Tôn Giáo Các Tín Hữu (The Religious Society of Friends), còn được gọi là The Quakers, là một phong trào bắt đầu ở Anh từ đầu thập niên 1650s. Từ "Quakers" có nghĩa là run rẩy giữa đường Chúa đi. Từ lúc phôi thai, phong trào đã phải đối mặt với chống đối và bức hại; dù vậy, nó tiếp tục bàng trướng ra nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ Châu và Phi Châu.
Hiệp Hội Các Tín Hữu đã có ảnh hưởng mạnh trên lịch sử thế giới. Tiểu bang Pensylvania của Hoa Kỳ được thành lập bởi William Penn, như là một chỗ an toàn cho những người Quakers để sống và để tu hành theo đức tin của mình. Người Quakers đã có vai tuồng quan trọng trong sự bãi nô, sự thừa nhận bình quyền nam nữ, và sự chấm dứt tình trạng chiến tranh. Họ cũng đã  xúc tiến giáo dục và sự đối xử nhân đạo với tù nhân và với người bệnh tâm thần, qua sự thành lập và canh tân nhiều định chế.
Nhiều Hội Đoàn Quakers đã xuất hiện ở Mỹ trong thế kỷ 19 và dù có phân rả như vậy, họ vẫn thống nhất cùng nhau ở chỗ hết lòng truy tìm và xúc tiến cái thực.

4.1.       NGUỒN GỐC

Phong trào Quakers là một phong trào không tùng phục quốc giáo à đứng ngoài các tổ chức Anglicanism (giáo phái Anh) và Roman Catholicism (Công Giáo La Mã). George Fox, được coi là người sáng lập hay ít nhất cũng là người quan trọng nhất bên cạnh James Nayler và Edward Burrough những người Thanh Giáo[3] (Puritans) cực đoan.  Họ khởi đầu độc lập nhưng rồi đến với nhau và bắt đầu phối hợp hoạt động với nhau trong sự giảng đạo.
 Dù sao, vì Fox sống lâu hơn tất cả nhóm Sáu Mươi Người Quả Cảm – nhóm người Evangelists Quakers  đầu tiên – những điều ông kể lại trong Sổ Nhật Ký ( Journal) ông viết cho ta biết nhiều chi tiết nhất về thời đó.
Nhóm Sáu Mươi Người Quả Cảm đã nhấn mạnh một điều làm cho họ bị gạt khỏi tổ chức đang có, đó là yếu tố đức tin Công Giáo từ lúc đầu rằng mọi người đều có thể có được kinh nghiệm tiếp cận Thượng Đế, không cần phải tham thiền (nghĩa là không cần phải qua một mục sư hay qua các lễ ban phép bí tích). Các Tín Hữu này nói “Thượng Đế là của mọi người” là “ánh sáng nội tại”, là Đấng Christ quay vào bên trong”, là “Tinh Thần Đấng Christ từ bên trong”, và nhiều từ khác nữa.
Fox bỏ nhà tầm Đạo ở tuổi 19 (1644) và ba năm sau được nghe tiếng nói của Đức Christ và qua một tiến trình chuyển hóa bản thân nhờ huy động ánh sáng nội tâm. Từ 1648 ông bắt đầu thuyết đạo nơi công cộng. Thời đó, Thanh Giáo (Puritanism) đang nổi trội ở Anh và dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell, nhưng những bất đồng về tôn giáo và chánh trị đang gia tăng. Fox là một người lớn tiếng tỏ ý bất đồng và ông coi nhiều sự thực hành tôn giáo lúc ấy là không phù hợp với đức tin Công Giáo.
Ông đặc biệt phản đối chế độ giáo sĩ có lương bổng và các thánh đường do nhà nước chuẩn lập. Ông gọi đó là các nhà có tháp chuông (steeple-houses). Ông tin rằng ai cũng có thể là một giáo sĩ và bất cứ nhóm thờ phượng nào tụ tập những tín hữu Công giáo thực sự cũng hợp pháp cả. Cho nên những người Quakers truyền thống thờ phượng mà không có cá nhân nào chịu trách nhiệm hướng dẫn trong buổi lễ theo chương trình sẵn có. Thay vào đó, các người thờ phượng im lặng tụ tập với nhau, và sự im lặng chỉ bị ngăn trở khi  có người tham dự cảm thấy môt Chơn Linh nào đó muốn nói chuyện. Fox cho rằng người Thanh Giáo sai lầm khi coi nghĩa đen của Thánh Kinh có quyền lực cao hơn các kinh nghiệm cá nhân về sự thiêng liêng. Ông nhắc ại lời thánh Paul trong 2 Corinthians rằng "Chữ thì giết nhưng Tâm Linh thì cho cái Sống
Ông bắt đầu thuyết giảng tại các chỗ công cộng và trong các nhóm giáo dân – điều mà ông làm suốt đời và thường đem lại cho ông sự tù rạc và sĩ nhục – đặc biệt khi ông vào các “nhà có tháp chuông”  để phản đối các bài thuyết pháp sau khi dứt lễ.
Từ 1652 trở đi, Fox liên hệ chặt chẻ với một phong trào các người bất đồng ý trước đó, phong trào các Người Tầm Đạo  (The Seekers). Những người này tin rằng bấy giờ không thánh đường nào thực là Thánh Đường cả và họ lui mình về chỗ chờ đợi Thượng Đế tái lập lại Thiên quốc của mình, hoặc về Đời hoặc về Đạo.  Họ có nhiều phương tu giống với người Quakers, bỏ hết các nghi thức trong thờ phượng và và bắt đầu thực hành việc gặp gỡ nhau trong im lặng và Fox nhận nhiều tín hữu từ phong trào này nên từ đó bắt đầu thực hành đường lối Hội Tín Hữu.
Fox cũng công kích nhiều sắc thái văn hóa Anh Quốc ngoài các giáo lý tôn giáo, đặc biệt những cái ông cho là triệu chứng của kiêu hãnh và sử dụng quyền thế một cách sai lầm. Năm 1661, ông cùng các người lãnh đạo Quakers khác lần đầu tiên công khai tuyên ngôn lời minh thị theo chủ trương hòa bình (peace testimony) rằng họ chống lại và không tham gia bất cứ hình thức chiến tranh nào. Họ giữ lập trường rằng để chống lại bất công, không buôc phải dùng bạo lực hoặc sự phục tùng, mà là sự bất hợp tác một cách thanh bình.
Những chỉ trích của Fox về xã hội cũng giống như của những người thuộc nhóm Seekers, Ranters hay Levellers, và ông ta thu thập tín hữu từ tất cả các nhóm này (cũng như từ các thành viên bất mãn của phong trào Cromwell), nhưng khác với họ ở chỗ ở ông có cái nhu cầu bức thiết muốn kêu gọi sự sống dậy của đức tin và pháp tu Công Giáo nguyên thủy, đặt cơ bản trên những lời Thiên Khải từ bên trong và trên sự công khai chống đối bất công. Các Tín Hữu trong phong trào tự coi mình như những “Người Công Giáo Nguyên Thủy hôi sinh lại và theo William Peenn, họ coi kẻ Thanh Giáo (Puritan) và Anh Giáo (Anglican) đàn áp họ đồng như những người Pharisees[4].
Buổi họp mặt đầu tiên của các Bạn tại Ireland xảy ra trong năm 1654.

4.2.       SỰ CỐ JAMES NEYLER

Năm 1656, một giáo sĩ nổi tiếng của Quakers, James cỡi ngựa vào Bristol trong cơn mưa, theo sau bởi một nhóm nam nữ hô lên “Linh, Linh, Linh” (Holy, holy, holy) rồi  bỏ quần áo mình xuống đất –bắt chước lúc Jesus vào Jerusalem. Trong khi đây là một toan tính muốn nhấn mạnh ý rằng “Đấng Christ đang ở trong mọi người”, hầu hết người chứng kiến đều tin rằng Neyler và các tín hữu của ông tin mình là Jesus Christ. Nhóm ấy bị chánh quyền địa phương bắt nộp cho  Quốc Hội và họ bị xử án. Quốc Hội đã được mớm cho biết là Neyler có quan điểm không chính thống đến nỗi họ xử phạt anh ta một cách tàn nhẫn và  gởi trả ông ta về Bristol để bỏ tù vô hạn định.
Vì những người lãnh đạo Thanh Giáo tưởng Neyler là lãnh đạo Quakers, chứ không phải Fox (lúc ấy cũng đang ở tù), họ càng kém nể trọng phong trào hơn. Sự cố này làm cho các chức quyền trong nhóm, đặc biệt là Fox, nổ lực hơn nữa để gia tăng quyền năng của nhóm, hầu ngăn ngừa thái độ tương tự. Nổ lực này dẫn tới kết quả là “Lời Chứng Thực của Chư Đồng Đạo (Testimony from the Brethren),  nhăm vào những người, theo lời của họ, đã khinh thường cái qui luật rằng “không có nó, chúng ta… không thể giữ mình cho bất khả xâm phạm và linh thánh được.” Lời chứng thực ấy tiếp nối tiến trình tập quyền từ vụ Neyler và nhằm cô lập hóa bất cứ kẻ xé lẻ nào còn lẩn núp trong xã hội.
Fox cũng tổ chức cho các nữ tín hữu gặp nhau và cho họ vai tuồng quan tọng  trong việc giám sát hôn nhân, nhằm vừa cô lập hóa sự chống đối vừa thêm dầu cho sự  bất bình với những người mới bỏ đi. Trong thập niên 1660 và 1670s, Smith đi khắp nước Anh để tổ chức một cấu trúc họp tháng cho địa phương và họp ba tháng cho vùng, cho tới nay cách ấy vẫn còn áp dụng.

4.3.       NHỮNG KHÓ KHĂN BUỔI ĐẦU

George đi tù lần đầu năm 1650 và từ đó cho đến suốt thập niên 1670, ông ta và các người Quakers khác cũng bị thảy vào tù nhiều lần với tội danh là làm nhiễu loạn, là phỉ báng giáo hội hay từ chối không thề. Hai đạo luật của Quốc Hội làm cho Hiệp Hội Các Tín Hữu lâm cảnh khó khăn là:
Luật Quakers năm 1662 định rằng không tuyên thệ trung thành và tổ chức những buổi gặp gỡ tôn giáo khác với cái mà giáo hội chánh thức thiết lập là vi luật,
Luật về sự Họp Mặt Tôn Giáo Bí Mật (Conventicle Act) năm 1662 tái xác định rằng tổ chức các buổi họp tôn giáo bí mật là một hình tội.
Bất chấp những luật này, Hiệp Hội Các Tín Hữu tiếp tục họp mặt công khai. Họ tin rằng làm như vậy họ xác minh được sức mạnh và sự tin chắc rằng họ sẵn sàng chịu hình phạt khi họ làm điều họ tin là đúng.
Năm 1689, Luật Ân xá được thông qua, theo đó tự do tâm thức (freedom of conscience) được cho phép và sự ngược đãi được ngăn ngừa bằng cách định rằng quấy nhiễu bất cứ ai trong việc thờ phượng đều là vi luật. Cho nên người Quakers được tha dù họ không được nhiều người thông cảm và chấp nhận.

4.4.       NHỮNG KHÓ KHĂN TẠI TÂN THẾ GIỚI

Khi Các Tín Hữu di cư sang Mỹ và truyền bá đức tin của mình, họ cũng bị ngược đãi. Năm 1656 Mary Fisher  Ann Austin làm như thế và bị người Thanh Giáo của Massachusetts Bay Colony cầm tù và trục xuất. Sách của họ bị đốt, và hầu hết tài sản của họ bị tịch thu. Họ bị cầm tù trong hoàn cảnh tồi tệ, không có thực phẩm và ánh sáng. Nếu không có người lén đưa thức ăn cho họ, họ ắt đã chết đói trong tù. Rốt cuộc, họ bị trục xuất.
Năm 1657 một nhóm các Tín Hữu đáp tàu từ Anh đến Long Island ở chỗ hồi đó gọi là New Amsterdam. Một trong các tín hữu ấy giảng thuyết cho những đám đông. Anh ta bị bắt, bị bỏ tù và đánh đập. Một vài người định cư Hòa Lan có cảm tình đã làm cho họ được thả. Sự giảng Đạo mang đến một số kết quả khích lệ nhưng cũng kèm theo sự tiếp tục bị ngược đãi.
Sau cùng, ngày 27-12-1657, một số công dân ở Flushing viết một kháng nghị gởi Thống Đốc Peter Stuyvesant nói rằng theo bản tuyên bố của thuộc địa tự do tín ngưỡng được cho phép. Tài liệu đó được gọi là Bản Phản Kháng Flushing (the Flushing Remonstrance). Ấy là trường hợp đầu tiên có việc dân định cư tại những thuộc địa ở Mỹ Châu đòi tự do tôn giáo.
Vài Tín Hữu ở New England chỉ bị bỏ tù hay trục xuất. Một số ít bị đánh bằng roi da, bị đóng dấu bắng sắt nung đỏ, hay còn bị những hình phạt thể chất khác. Thí dụ như Christopher Holder bị xẻo tai phải. Một số ít khác bị các nhà lãnh đạo Thanh Giáo hành hình, khinh miệt lệnh trục xuất. Mary Dyer bị xử như vậy năm 1660. Ba kẻ tử đạo khác nữa ở Massachusetts là William Robinson, Marmaduke Stephenson, và William Leddra[5].
Ngược với những người Thanh Giáo cố chấp, nhiều thuộc địa khác cung cấp chỗ dung thân an toàn cho các Tín Hữu ở Tân Thế giới. Rhode Island được thành lập trên nguyên tắc tự do tín ngưỡng và nhiều Tín Hữu đã di cư đến đó. Delaware, New Jersey, North Carolina,  Pennsylvania cũng dung chấp các Tín Hữu. Thực vậy, Pensylvania được thành lập bởi William Penn, là một nơi mà người Quakers có thể sống an lành. Maryland, được thành lập như chỗ ẩn náu của người ông Giáo La Mã, cũng vui vẻ tiếp nhận các Tín Hữu nữa.

4.5.       THẾ KỶ 18

Năm 1691 George Fox chết. Cho nên phong trào Quakers bước qua thế kỷ 18 mà không còn người lãnh đạo có uy tín như hồi mới đầu. Nhờ Đạo Luật Khoan Hồng năm 1689 mà người dân Anh khỏi bị kết tội hình sự chỉ vì mình là người Quakers.
Trong thời gian này, người khác bắt đầu nhận ra người Quakers do tính chính trực của họ trong những vấn đề xã hội và kinh tế.  Nhiều người Quakers đi vào ngành sản xuất hay thương mại vì lúc đó họ không được cho phép có bằng cấp đại học. Những doanh nhân Quakers này đã thành công, một phần nhờ sự tin tưởng của quần chúng. Khách hàng biết người Quakers cảm nhận chắc chắn rằng phải đặt giá hàng cho công bằng và không được cò kè mặc cả. Họ cũng biết rằng người Quakers tận tụy với công việc có phẩm chất tốt, và rằng những gì họ sản xuất là đáng với cái giá của nó.
Một số mặt hàng mà các doanh nghiệp Quakers cung cấp là sắt và thép do Abraham Darby và  dược phẩm do William Allen. Một nhà gặp gỡ đã được thiết lập ỡ Broseley, Shropshire bởi gia đình Darbys.
Đông thời với lúc họ thành công trong sản xuất và thương mại, các tín Hữu Quakers cũng quan tâm hơn tới  các vấn đề xã hội và trở nên năng động hơn với việc lớn trong xã hội. 
Một trong những vấn đề đó là nạn nô lệ. Cuộc gặp gỡ hằng tháng ở Germantown (Pennsylvania) đặt sự phản đối chế độ nô lệ của họ vào biên bản năm 1733, nhưng sự bãi nô chưa được phổ biến trong các Tín Hữu cho tới khi nó được các Tín Hữu quan tâm tới như Anthony Benezet và John Woolman. Woolman là một nông dân, một người buôn bán lẻ và là thợ may của xứ New Jersey đã được thuyết phục rằng chế độ nô lệ là không đúng. Trước lúc ấy, vài Tín Hữu cũng có nô lệ nữa. Nói chung họ chống đối lại sự bạc đãi nô lệ và xúc tiến sự dạy Đạo Cơ Đốc cho họ. Woolman lập luận rằng mọi việc thực hành mua, bán và sở hữu nô lệ trên nguyên tắc đều là sai lầm. Những tín hữu khác bắt đầu đồng ý và trở nên rất năng động trong phong trào bãi nô. Cuộc họp thường niên năm 1776 ở Philadelpha cấm các hội viên sở hữu nô lệ.
Một vấn đề khác cũng trở thành điều quan tâm của các Tín Hữu, đó là sự đối xử với những người có bệnh tâm thần. Nhà buôn trà William Tuke mở ra một trại cứu tế ở York năm 1796. Ấy là một nơi mà người bệnh tâm thần được đối xử  bằng sự trang trọng mà cácTín Hữu tin rằng mọi con người đều đáng được hưởng. Hầu hết các dưỡng trí viện thời đó ép buộc những người như vậy vào các điều kiện tệ hại và không làm gì để giúp họ.
Cuối thế kỷ 18, người Quakers đã được thừa nhận đầy đủ và được chấp nhận đến đỗi Hiến Pháp Liên Bang Mỹ Quốc có chứa ngôn ngữ riêng hướng vào các công dân Quakers[6] – đặc biệt  là sự minh thị thừa nhận đặc cách “xác nhận”, khác với sự “thề” trong nhiều phép tuyên thệ khác nhau

4.6.       NHỮNG NGƯỜI QUAKERS CÓ THẾ LỰC TRONG THẾ KỶ 19

Trong thế kỷ thứ 19, các Tín Hữu tiếp tục có ảnh hưởng lên thế giới chung quanh. Nhiều cơ sở kỹ nghệ đước các Tín Hữu mở ra trong thế kỷ 18 tiếp tục hoạt động cùng với những cơ sở khác mới bắt đầu. Các Tín Hữu cũng tiếp tục và gia tăng họat động của mình trong lãnh vực công bằng và bình đẳng xã hội. Họ cũng đóng góp trong các lãnh vực khoa học, văn chương, nghệ thuật, luật pháp và chánh trị.
Trong thế giới công nghệ, Edward Pease mở ra Đường Hỏa Xa Stockton and Darlington ở phía Bắc nước Anh trong năm 1825. Đó là đường xe lửa tân tiến đầu tiên trên thế giới, và chở than đá từ các mỏ tới các hải cảng. Henry và Joseph Rowntree làm chủ một hảng chocolat ở York, Anh Quốc. Khi  Henry mất, Joseph toàn quyền sở hữu. Ông ta cung cấp cho công nhân nhiều lợi lộc hơn bất cứ ông chủ nào của thời ấy. Ông cũng tài trợ các nhà giá rẻ cho người nghèo. John Cadbury thành lập một hảng chocolat khác, mà các đứa con trai của ông là George và Richard về sau này làm chủ. Một hảng chocolat khác cũng được Joseph Fry lập ra ở Bristol.
Người Quakers cũng năng động xúc tiến bình quyền trong thế kỷ này. Sớm từ năm 1811, Elias Hicks đã in một tập sách nhỏ chứng tỏ rằng nô lệ là "prize goods"—nghĩa là, sản phẩm do cướp biển mà có – và do đó, kiếm lợi từ họ là vi phạm nguyên tắc của Quakers; từ đó chỉ có một bước ngắn nữa là tới việc từ chối sử dụng tất cả những sản phẩm do lao động nô lệ làm ra, cái gọi là phong trào "thành quả tự do “ (free produce) được các Tín Hữu và những người khác ủng hộ nhưng rồi nó cũng đưa tới sự không đồng thuận trong quần chúng. Phụ nữ Quakers như Lucretia Mott và Susan B. Anthony tham gia phong trào để bài trừ chế độ nô lệ, khiến họ cảm động mà hợp tác về chánh trị với những người không phải Quakers trong nổ lực chống lại cơ chế đương quyền. Cũng phần nào từ kết quả của sự không cho hưởng quyền lợi từ những vận động bãi nô, họ chuyển tiêu điểm sang quyền đầu phiếu và ảnh hưởng lên xã hội của phụ nữ. Thomas Garret dẫn đầu trong phong trào bãi nô, cá nhân mình hỗ trợ Harriet Tubman trốn khỏi số phận nô lệ và phối hợp điều hành Đường Xe Lửa Ngầm (the Underground Railroad)[7]. Richard Dillingham chết trong một nhà tù Tennessee nơi ông bị kết tội cố gắng giúp người nô lệ trốn thoát. Levi Coffin cũng là một người theo chủ nghĩa bãi nô đã giúp hằng ngàn người nô lệ trốn qua Canada và mở ra cửa hiệu bán những sản phẩm do cựu nô lệ sản xuất,
Cải thiện nhà tù cũng là một quan tâm khác của những người Quakers thời đó. Elizabeth Fry và ông anh Joseph John Gurney đã cố tranh đấu để có sự đối xử nhân đạo hơn với tù nhân và để hủy án tử hình. Họ đạt được chút ít thành công ở chỗ Quốc Hội rốt lại đã thông qua luật cải thiện chế độ lao tù và giảm thiểu số trọng tội hình sự.
Lúc đầu, người Quakers không được cho phép có giáo dục cao cấp. Về sau vài người quả thực có cơ hội học đại học hay hơn nữa, có nghĩa là càng ngày càng có nhiều người Quakers trong các lãnh vực khác của khoa học. Thomas Young một người Anh  Quakers, đã thực hành những thí nghiệm quang học, đóng góp nhiều vào lý thuyết sóng ánh sáng. Ông cũng khám phá ra cách mà thấu kính trong con mắt hoạt động, mô  tả chứng loạn sắc và hình thành giả thuyết về sự cảm nhận màu sắc. Ông cũng tham gia vào việc dịch thuật Rosetta Stone[8]. Ông dịch loại chữ Ai cập theo lối viết thông thường và bắt đầu tiến trình hiểu biết kiểu chữ tượng hình. Maria Mitchell là một nhà thiên văn khám phá ra một sao chổi. Cô ta cũng tích cực trong phong trào bãi nô và phong trào đòi quyền đầu phiếu cho phụ nữ. Joseph Lister xúc tiến sự sử dụng kỹ thuật tiệt trùng trong y khoa, căn bản trên công trình của Pasteur về phôi. Thomas Hodgkin là một nhà nghiên cứu bệnh học đã tạo đột phá mới trong khoa giải phẩu. Ông là người đầu tiên mô tả loại ung thư hạch bạch huyết mang tên ông. John Dalton hình thành nên lý thuyết nguyên tử vật chất, ngoài những thành tựu khoa học khác.
Người Quakers không cò khả năng tham gia vảo các việc nghệ thuật nơi công cộng. Đối với nhiều người Quakers, những việc này vi phạm lời cam kết về sự đơn giản và bị coi là quá “phàm phu”. Dù vậy, vài người Quakers ngày nay cũng được biết đến qua các tác phẩm sáng tạo của họ. John Greenleaf Whittier là một thi sĩ và nhà biên tập ở Hoa Kỳ. Trong công trình của ông có một số thơ về lịch sử phong trào Quakers và những bài thánh ca diển tả môn thần học Quakers, Ông cũng hoạt động trong phong trào bãi nô. Edward Hicks vẽ tranh tôn giáo và lịch sữ theo phong cách chất phác còn Francis Frith là một nhà nhiếp ảnh người Anh có thư mục nhiều ngàn quang cảnh địa hình.
Thoạt đầu luật lệ và chính những nhận thức của người Quakers cũng cấm họ tham gia trong lãnh vực luật pháp và chánh trị. Nhưng theo dòng hời gian, một số người Quakers ở Anh và Mỹ cũng bước vào nhưng lãnh vực này. Joseph Pease là con của Edward Pease nói ở phần trên đã mở rộng doanh thương của cha và năm 1832 là người Quakers đầu tiên được đắc cử vào Hạ Viện. Noah Haynes Swayne là người Quakers duy nhất phục vụ ở Tòa án Tối Cao của Liên Bang. Ông ta là một Phụ Thẩm từ 1862-1881. Ông mạnh mẽ chống đối chế độ nô lệ, từ lúc mới trưởng thành đã di cư từ một tiểu bang có nô lệ là Virginia sang một tiểu bang tự do là Ohio.
Từ cuối thế kỷ 19, nhiều người Quakers thuộc nhóm Gurney Ở Mỹ chấp nhận chế độ trả lương cho giáo sĩ, các bài thuyết giáo có soạn sẵn, Thánh ca và những yếu tố khác trong việc thờ phượng theo kiểu Tin Lành. Kiểu họp mặt này của người Quakers gọi là họp mặt theo chương trình (programmed meeting). Một số Quakers khác thì thuần túy không theo chương trình chi cả hoặc có nhóm lại có một giai đoạn hát thánh ca hay các hoạt động khác nữa.
Trong thế kỷ 20 thoạt đầu có các hoạt động thống nhất nhưng đến cuối thế kỷ lại chia rẻ hơn bao giờ hết. Cho tới đại chiến thứ nhất người Quakers tự coi mình là những người theo chủ nghĩa tự do (liberalism), không coi những phát biểu về thần học là quan trọng mà chú tâm vào các hoạt động xã hội và hòa bình hơn.
Sự phân rã phong trào Quakers thành nhiều nhóm có lúc tưởng có thể chấm dứt khi ở New Jersey xuất hiện một Tín Hữu tên Lewis Benson, tự nhận là mình hiểu George Fox và các thông điệp của ông. Năm 1966, Benson cho in quyển sách nhỏ Catholic Quakersism, nhằm qui tụ hiệp hội Tôn Giáo các Tín Hữu vào một vị thế gần với Fox và đích thực Cơ Đốc Giáo hơn, khác hẳn với chủ thuyết tự do về thần học, và những chia phe phân phái theo từng giáo hội hay theo thành thị thôn quê. Ông tạo ra một  Cơ Sở Ái Hữu mới (New Foundation Fellowship), bộc phát trong khoảng hơn một thập niên nhưng rồi cũng không còn mạnh nữa.
Thoạt đầu luật lệ và chính những nhận thức của người Quakers cũng cấm họ tham gia trong lãnh vực luật pháp và chánh Trong thế kỳ 20, hai người Quakers đã là tổng thống Hoa Kỳ, đó là Herbert Hoover và Richard Nixon, cả hai đều từ cánh theo Phúc Âm Tây Phương và chánh sách của cả hai không được phía Quakers Đông Mỹ hoan nghênh lắm.
Có lẽ có khoảng 400.000 người trên thế giới hiện nay, phần lớn trong số những người theo phái Phúc Âm (Evangelicals) ở Phi Châu và Mỹ Châu La Tinh.

Source: http://www.daotam.info/

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Giáo hội Anh giáo chính thức chấp thuận phong chức giám mục cho phụ nữ, còn Công giáo ???

Các thông tin từ báo chí Anh Quốc và xứ Wales ra ngày 24-10 cho biết: Từ nay việc tấn phonggiám mục cho phụ nữ đã được chấp thuận trong Giáo hội Anh giáo tại Anh Quốc và xứ Wales. Sau khi được Quốc hội Anh phê chuẩn, Nữ hoàng Anh đã ký sắc lệnh chính thức vào ngày thứ Sáu 24-10, cho phép phụ nữ gia nhập hàng giám mục Anh giáo.



Các thông tin từ báo chí Anh Quốc và xứ Wales ra ngày 24-10 cho biết: Từ nay việc tấn phonggiám mục cho phụ nữ đã được chấp thuận trong Giáo hội Anh giáo tại Anh Quốc và xứ Wales. Sau khi được Quốc hộiAnh phê chuẩn, Nữ hoàng Anh đã ký sắc lệnh chính thức vào ngày thứ Sáu 24-10, cho phép phụ nữ gia nhập hàng giám mục Anh giáo.

Sau Thượng viện Anh, Hạ viện Anh cũng đã phê chuẩn việc cho phép phụ nữ gia nhập hàng giám mục Anh giáo tạiAnh Quốc vào tuần trước. Thượng Hội đồng chung Anh giáo –sẽ nhóm họp vào tháng Mười Một sắp tới–, bây giờ phảighi thêm sửa đổi này vào Bộ Giáo luật Anh giáo. Các giám mục phụ nữ đầu tiên có thể được tấn phong trong thời gian từ nay đến cuối năm.
Giáo hội Anh giáo tại Anh Quốc, trong Thượng Hội đồng chung nhóm tại York hồi tháng Bảy 2014, đã phê chuẩn việccho phép phụ nữ làm giám mục. Ba viện của Thượng Hội đồng chung (giám mục, giáo sĩ và giáo dân) đã bỏ phiếu thuận cho cải tổ này, vốn đã bị Viện giáo dân bỏ phiếu chống hồi tháng Mười Một 2012.

Cuộc cải tổ không thành hồi tháng Mười Một 2012 đã khơi lại những chia rẽ sâu sắc trong Anh giáo cách nay 22 năm,khi cho phép truyền chức linh mục cho phụ nữ. Các Giáo hội Anh giáo khác đã chấp thuận cho phụ nữ làm giám mục gồm có: Hoa Kỳ, Australia, Canada và Swaziland.