Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Tra tấn tội " Dị đoan " của Giáo Hội La Mã

ttp://www.jesusneverexisted.com/murderers.htm

1.- Bánh Xe ‘tử thần’ (Breaking on the Wheel)


Những người dị giáo (không theo đạo Kitô), sẽ bị tra tấn bằng bánh xe này như sau :
- bị lột da từ đầu, mặt, xuống khắp châu thân,
- mũi, đầu vú, vú bị tướt đứt ra bằng các chiếc kẹp đun nóng đỏ,
- miệng bị rạch đến lỗ tai,
- đóng đinh lộn ngược: đầu xuống đất, chân lên trời,
- bị ném qua cửa sổ cho thân thể rơi trên các cọc sắt nhọn,
- chặt đứt hai cánh tay,
- thiêu sống chậm, bắt đầu từ chân, lên tới đầu gối cho tới sọ dừa v.v...,
- phụ nữ bị lột quần áo, treo trên cây bằng núm tóc, hay treo một giò cho tới lúc chết,
- dùng dụng cụ tourniquet, đặt trên đầu nạn nhân và xoáy thắt lại cho đến lúc hai con ngươi lòi ra ngoài.

2.- Trái Lê của Giáo hoàng (The Pope’s Pears)



Tùy theo đối tượng nạn nhân là nam, nữ hay đồng tính luyến ái, hình phạt ‘trái Lê Giáo hoàng’ được áp dụng vào các vị trí khác nhau trên cơ thể. Nếu là phụ nữ bị buộc tội đã giao hợp với “ma quỉ”, thì trái Lê sẽ được đặt ở âm hộ. Nếu là đồng tính luyến ái sẽ bị đặt ở hậu môn. Nếu là các người dám to tiếng phê bình chỉ trích giáo hội, các tu sĩ địa phương nơi nạn nhân cư ngụ thì sẽ bị đặt ở miệng. Sau khi trái Lê được đặt vào các cơ phận nói trên, người thi hành xử tội sẽ vặn nút xoáy ở phía đầu cho phần dưới mở rộng ra làm cho tan nát phần xương thịt ở phía trong. Xin quan sát vào hình vẻ, phần mũi nhọn ở trong thường làm cho các cơ phận ở cuống họng, ruột và cổ tử cung nát ra. Các nạn nhân thường chết sau khi bị hình phạt này.

3.- Chiếc Bệ của Juda (The Juda’s Cradle)



Nạn nhân sẽ bị kéo lên thòng xuống bởi một sợi dây thừng hay sắt, cho tới lúc nào các cơ phận như âm hộ, hậu môn hay cột tuỷ sống còn sót lại mới thôi. Có khi nạn nhân còn bị tạo thêm đau đớn bằng cách cột thêm vật nặng vào, nâng dây lên cao, hoặc động tác kéo lên xuống nhanh hơn.

4.- Nhện sắt (Iron Spider)



Nhện sắt được đun nóng đỏ lên, dùng để tước đứt các chiếc vú ra khỏi ngực. Được dùng cho các phụ nữ bị buộc tội là loạn luân, ngoại tình, phá thai, nói xấu giáo hội, Chúa, hay bị vu cáo có tội mà dấu diếm.

5.- Lò Nướng thịt (Grilled)


Dùng để :

- bứt lỗ tai,
- kéo đứt lưỡi,
- đưa cơ thể thấp xuống cho độ nóng gia tăng,
- nướng sơ nạn nhân rồi ném cho chó cấu xé,
- dùng thêm vật nhọn bằng sắt để đâm vào các đầu móng tay, chân và đến khắp thân thể,
- treo ngược chân lên trời, rồi hun khói ở dưới cho nạn nhân chết ngạt.
- mổ bụng cho lòi ruột ra,
- cột tay chân vào bánh xe, quay tròn cho đến khi hậu môn bị lòi ra ngoài,
- dùng dao chặt thịt để cắt cổ,
- dùng búa rìu đánh vào đầu nạn nhân.

6.- Dụng cụ Strapado


Dụng cụ này được chế tạo để làm cho phần vai của nạn nhân bị tước đứt ra ngoài thân thể, bằng cách làm cho thân rơi thật nhanh, bất thần ngưng lại, phần xương thịt bị tước nứt ra. Để làm cho thịt xương tước ra nhiều hơn, người ta còn buộc thêm các vật nặng từ 50 đến 500 cân (pounds) vào cơ thể.

7.- Móng Mèo (Cat’s Paw)

- Chiếc cào sắt có móng nhọn dùng để cào da, thịt nạn nhân cho tới xương.
Thiêu sống chậm (Slow Burn)
Dụng cụ trong thế kỷ 16, dùng để đưa nạn nhân vào, ra ngọn lửa thiêu sống nạn nhân chậm lại, gia tăng sự đau đớn.

8.- Phòng Tra tấn
(Torture Chambers),



Trong 1500 năm, Giáo hội Kitô đã xử dụng Phòng Tra tấn một cách hệ thống khắp Âu châu. Tra tấn là luật lệ, không phải là trường hợp ngoại lệ. Bên cạnh Kinh thánh, còn có cuốn sách Chiếc Búa dành cho Ma quỉ (Hammer of Witches) được viết ra để hướng dẫn từng điểm cho các tu sĩ Công giáo các cấp thi hành trên các nạn nhân – là những người bị bắt và bị buộc vào các tội “ma quỉ” và “phù thủy” (witches anhd sorcerers). [Science Shams & Bible Bloopers, David Mills, trang 361). Ông linh mục Nguyễn Thế Thuấn đã dịch các danh từ này cho phù hợp với xã hội Việt Nam thành “đồng bóng và dị đoan”.

9.- Hình Phạt Thánh Ba Ngôi (The Holy Trinity)


Khi một nạn nhân mang tội “phạm thánh’, hay vì tội dám can đảm nói sự thật ô trọc của các tu sĩ địa phương, nạn nhân bị hình phạt “holy trinity”. Mặt nạ sắt sẽ được nung nóng đỏ lên, xong đặt vào đầu nạn nhân. Chiếc roi sắt cũng được nung nóng lên, quất vào phía sau. Sau khi mặt nạ sắt nguội đi, sẽ được lấy ra khỏi đầu nạn nhân, nhưng da và hai con ngươi còn dính trong đó. Chưa hết, miệng nạn nhân bị banh rộng ra, dùng chiếc kẹp sắt đã được nung nóng để kéo lưỡi nạn nhân ra ngoài.
Màn tra tấn này thường làm nạn nhân chết, nhưng đôi khi nạn nhân vẫn được sống sót, dù đã bị câm điếc, đui mù... nhưng nạn nhân được dùng làm công cụ để đe dọa các người khác, tạo thêm mối đau khổ cho thân nhân gia đình.
Dù các dụng cụ và hình thức tra tấn trên là do lòng hung ác, cuồng tín tạo ra, nhưng đã được dựa vào tinh thần Kinh thánh hướng dẫn cho hành động. Thí dụ (Chúa Giêsu nói) :


“Ai không lưu lại trong Ta, thì bị quăng ra ngoài, như nhánh nho, và khô đi, người ta sẽ lượm chúng, quăng vào lửa, và chúng sẽ bị thiêu.” (Yoan 15:6, Kinh thánh dẫn như trên, trang 236)
Nguyên văn từ Humphreys : (If a man abide not in me, he is cast forth as a branch, and is withered; and men gather them, and cast them into the fire, and they are burned.)
Hoặc : “Bởi lôi đình của Yavê, các cơ binh, đất thành hỏa tai, dân như thế làm mồi lửa thiêu. Ai nào còn nể anh em.” (Ysaya 9:18, Kinh thánh dẫn như trên)
Nguyên văn : (Through the wrath of the LORD of hosts is the land darkened, and the people shall be as the fuel of the fire: no man shall spare his brother. Isaiah, 9:19) (2)

Ghi chú :

(1) Để khỏi mang tiếng là “xuyên tạc” Kinh thánh, những đoạn về Kinh Thánh, chúng tôi không tự ý dịch ra nhưng lại mượn bản dịch Kinh thánh của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn, do Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản 1976, là cuốn Kinh Thánh nền tảng của Giáo hội Công Giáo Việt Nam.
(2) Độc giả lưu ý : Trong nguyên tác của K. Humphreys trích đoạn Kinh thánh này ghi là Isaiah 9:19, nhưng trong bản Kinh Thánh của Nguyễn Thế Thuấn ghi là Ysaya 9:18.
Sources của K. Humphreys :
- Alan Hall, The History of Papacy, PRC, 1998
- Alice K. Turner, The Witch-hunt in Early Modern Europe, Longman, 1995.
- A.F. Ide, The Pope..., AAP, 1987.
- George Scott, A History of Torture, Senate, 1995.
- Helen Elberbe, The Darkside of Christian History, Morningstar & Lark, 1995.
[V-Z]