Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

Vấn Đề Chứng Minh Thượng Đế

 Có một nguyên tắc rất phổ biến rằng, không ai có thể chứng minh được một điều phủ định. Chẳng hạn, việc chứng minh Thượng Đế không hiện hữu là một việc làm vô phương. Bởi vì chúng ta đang ở trong một hành tinh rất bé nhỏ và có giới hạn trong vũ trụ vô biên, nên không thể nào chúng ta có thể kiểm chứng được toàn cõi vũ trụ này để có thể kết luận được rằng Thượng Đế không hiện hữu.

Thực ra, chính nguyên tắc này tự nó lại mâu thuẩn với chính nó. Khi khẳng định “không ai có thể chứng minh một phủ định” thì lại chính nó đang là một chứng minh phủ định nhưng chưa hề có kiểm chứng. Có nghĩa là không ai có thể chứng minh được nguyên tắc này hiển nhiên đúng; do đó, người ta có đủ lý do để tin tưởng rằng việc chứng minh một phủ định không phải là điều vô phương.

Có rất nhiều thứ mà người ta cần phải tưởng tượng ra sự hiện hữu của chúng như là những hữu thể có thật để giải thích những hiện tượng dị thường trong vũ trụ. Nhưng với thời gian và những khám phá mới, người ta loại bỏ dần những hữu thể đó và không bao giờ còn phải sử dụng đến chúng trong những giải thích khác.

Thực vậy, thí dụ, khoa học đã chứng minh cho chúng ta biết những hữu thể tưởng tượng như “phlogiston”, “ether”, và hành tinh “Vulcan” không bao giờ hiện hữu như những thực thể. Đã có một thời gian dài người ta phải đưa vào các định đề khoa học những hữu thể tưởng tượng như “phlogiston” để giải thích hơi nóng, “ether” để giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong chân không, và hành tinh “Vulcan” để giải thích những xáo trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury. Ngày nay, những thứ đó không còn cần thiết nữa để giải thích bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ. Chúng đã lần lượt đi vào quên lãng vì không phải là những thực thể có thực.

Cũng vậy, Thượng Đế là một ý niệm tưởng tượng được đưa ra để giải thích những gì mà con người chưa biết tường tận. Người ta đã dùng ý niệm này để khỏa lấp mọi khoảng trống của kiến thức con người. Ngày xưa, người ta mang Thượng Đế để giải thích mưa bão, động đất, núi lửa, sóng thần, v/v… Và ngày nay, không ai còn phải mang Thượng Đế để giải thích những hiện tượng như vậy. Những khẳng định của khoa học thực nghiệm không bao giờ mang một ý nghĩa tuyệt đối như trong luận lý học thuần lý, nhưng thường là rất khả tín, nằm bên ngoài sự nghi nghờ có lý lẽ (beyond reasonable doubt). Nếu chúng ta đòi hỏi tính tuyệt đối trong những khẳng định của khoa học thực nghiệm thì chúng ta không thể tin được bất cứ điều gì của khoa học.

Chẳng có nhà vô thần nào bỏ công đi tìm bằng chứng cố gắng chứng minh một phủ định về Thượng Đế, bởi vì họ đều biết rõ ràng về nguyên tắc ai là người phải trưng bằng chứng (burden of proof). Nguyên tắc này sẽ dẫn đến một kết luận ngụy biện, sai lầm khi đặt trách nhiệm trưng bằng chứng không đúng bên.

Để dễ hiểu hơn, chúng ta chỉ cần đưa ra một nguyên tắc căn bản trong luật học, rằng một người được xem là vô tội cho tới khi được chứng minh là có tội. Vậy trách nhiệm chứng minh nằm ở luật sư công tố, không phải nơi bị can. Nếu luật sư công tố không chứng minh được bị can phạm tội thì bị can không cần phải chứng minh rằng mình không có tội mà vẫn vô tội. Trong một cuộc tranh luận, bên có trách nhiệm trưng bằng chứng là bên tuyên bố một vật gì hiện hữu, chẳng hạn như có Thượng Đế, có ma quỉ, có người hành tinh, có ông già Noel, hoặc có những quyền lực siêu nhiên. Nếu người hữu thần không thể chứng minh có Thượng Đế bằng những bằng chứng hẳn hoi thì phải kết luận là không có Thượng Đế, thế là xong; người vô thần không cần phải chứng minh một điều gì khác. Khi người hữu thần đòi hỏi người vô thần phải trưng bằng chứng chứng minh không có Thượng Đế là họ đang sử dụng ngụy biện “burden of proof” để hòng đi đến kết luận là có một Thượng Đế hiện hữu; dĩ nhiên nếu người vô thần không chứng minh được, vì họ dư biết rằng sẽ là rất khó chứng minh hơn cho một phủ định. Lối lý luận như vậy rõ ràng đã đi đến một kết luận sai lầm, ngụy biện vì đã đặt trách nhiệm trưng bằng chứng không đúng bên.

Điều các nhà khoa học muốn chứng minh là không cần phải mang Thượng Đế ra để giải thích bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ như các nhà hữu thần đang làm, và đó chính là công việc của các nhà khoa học. Mang Thượng Đế ra để giải thích chỉ đơn giản là cái cớ để từ chối giải thích, vì phải xây dựng thêm một giả định mới, phức tạp và còn khó giải thích hơn điều đang cố gắng giải thích. Đó là lối giải thích thụt lùi, làm điều muốn giải thích rắc rối và tối tăm thêm.

Những giải thích của các nhà khoa học dựa trên những quan sát và các dữ kiện thâu thập được luôn luôn là những giải thích khả tín hơn cả. Loại trừ Thượng Đế để cố gắng đi tìm những nguyên nhân tự nhiên thì cũng giống như việc các nhà khoa học đã từng làm để loại trừ “phlogiston” trong việc giải thích hơi nóng, “ether” trong việc giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong chân không, và hành tinh Vulcan trong việc giải thích những xáo trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury. Những hữu thể tưởng tượng đó đương nhiên đều là những thứ phi vật chất, cũng hoàn toàn giống như ý niệm Thượng Đế, vì chúng không phải là những thực thể có thực.

Khi tôi đưa bài dịch “Hai Lối Chứng Minh Không Có Thượng Đế” của Quentin Smith vào các diễn đàn thì đã có một số ý kiến cho rằng: “Đối tượng của khoa học là vật chất, mà vật chất là những gì có thể cân đo đong đếm. Thượng Đế đâu có phải là vật chất. Khi được hỏi có Thượng Đế hay không thì nhà khoa học chân chính sẽ trả lời. Tôi không thể trả lời được vì Thượng Đế không phải là đối tượng nghiên cứu của tôi. Ngài là phi vật chất. Người ta không thể chứng minh có TĐ hay không, mà chỉ là cảm nhận” (van hanh phung). Đó cũng là ý kiến chung của nhiều đọc giả, kể cả những quí vị có học vị cao như tiến sĩ, giáo sư, kỹ sư, hay bác sĩ.

Có lẽ cái tựa của bài viết đã làm nhiều người hiểu lầm nếu không đọc kỹ toàn bài. Rõ ràng ở phần kết luận, Smith đã viết:

“Để kết luận, tôi xin khẳng định rằng, thứ nhất khoa học hiện nay không chấp nhận có Thượng Đế hiện hữu. Và thứ hai, lý luận thông thường mà chúng ta sử dụng hằng ngày khi áp dụng vào mọi sự dữ chúng ta trông thấy cũng tự nó không chấp nhận có Thượng Đế. Do đó, tôi nghĩ quan điểm hữu thần rất là vô lý, còn quan điểm vô thần thì hữu lý hơn.”

Và hơn nữa, ngay khi mới vào đề, Smith cũng đã thẳng thừng tuyên bố rõ ràng rằng ông muốn phản bác những lập luận của những nhà hữu thần có kiến thức khoa học đã từng sử dụng thuyết Big Bang để cố chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Điều còn rõ ràng hơn nữa là tất cả các luận chứng của các nhà hữu thần trong suốt tiến trình lịch sử đã thất bại trong việc chứng minh có Thượng Đế. Thuyết Big Bang là cái phao cuối cùng để cho những nhà hữu thần bám víu, bởi vì thuyết này đã bị khựng lại ở một điểm dị thường (singularity), ở đó tất cả mọi sự đều biến mất, và người ta đã đi đến kết luận rằng đó là cái điểm bắt đầu của vũ trụ phải cần có một tác nhân kích hoạt làm vũ trụ khởi động. Chính đó là Thượng Đế toàn năng đã hiện hữu trước khi vũ trụ được thành hình. Như vậy, thuyết này hoàn toàn đối nghịch với câu chuyện tạo dựng trong kinh Sáng Thế Ký, nhưng ít ra cũng còn vớt vát ở điều cần thiết phải có một đấng Sáng Tạo như là nguyên nhân đầu tiên.

Smith dùng hàm số sóng của các nhà khoa học hiện đại để phản biện lại lối lập luận như vậy, vì hàm số này cho xác quyết có một xác suất 95% vũ trụ có thể tự tạo, không cần phải có một ai đó khởi động lúc ban đầu. Mãi gần 15 năm sau, khi xuất bản cuốn Sự Thiết Kế Lớn / The Grand Design, tác giả Stephen W Hawking mới xác nhận quan điểm của Smith nhờ những dữ kiện ông thu thập được khi quan sát. Như vậy, ở điểm này, triết học đã đi trước khoa học. Khoa học chỉ làm công việc kiểm chứng những suy tư của triết học.

Khoa học nào cũng vậy. Ban đầu chỉ là giả thuyết. Nếu những dữ kiện thu thập trái nghịch với giả thuyết thì người ta sẽ điều chỉnh giả thuyết sao cho phù hợp, hoặc có khi phải từ bỏ vĩnh viễn giả thuyết đó. Khoa học không thể đi nghịch với các dữ kiện thâu thập. Cũng như thuyết tiến hóa, ban đầu nó chỉ là một giả thuyết, nhưng càng ngày càng nhiều khám phá mới của các ngành khoa học khác nhau đã xác nhận giả thuyết này. Ngày nay, tiến hóa đã trở thành sự kiện, và người ta đã có thể chứng minh được ở lĩnh vực vi mô. Có bàn cãi về tiến hóa thì chỉ là bàn cãi về cơ chế tiến hóa như thế nào. Và thuyết tiến hóa đã hoàn toàn thay thế thuyết sáng tạo ở trong các bộ môn khoa học. Chính giáo hoàng John Paul II cũng đã công khai công nhận thuyết tiến hóa, cho dù Vatican đã chi phí rất nhiều tiền bạc và công sức để cố gắng phản bác thuyết khoa học này hơn 100 năm qua.

Như vậy, thuyết Big Bang là một giả thuyết khoa học được các nhà hữu thần, không phải các nhà vô thần, sử dụng trong suốt mấy thập niên qua để cố gắng chứng minh sự cần thiết phải có một Thượng Đế. Chúng ta dèm pha thuyết này, phỉ báng và mạ lị các nhà khoa học, thực ra là chúng ta đang mạ lị và phỉ báng những nhà hữu thần mà chúng ta đang cố gắng bênh vực. Quentin Smith và Stephen W Hawking dùng hàm số sóng chỉ để chứng minh cho chúng ta biết một điều, rằng việc các nhà hữu thần mang thuyết Big Bang ra để gán cho Thượng Đế như là nguyên nhân đầu tiên khởi động vũ trụ đã trở thành thừa thãi, không còn cần thiết nữa. Vũ trụ có thể tự sinh. Đó là một khám phá mới của khoa học để trả lời cho câu hỏi từ ngàn xưa: vũ trụ đến từ đâu?

Khi các nhà khoa học dùng vũ trụ học để bàn về Thượng Đế, chính là họ chỉ muốn bàn về Thượng Đế của các nhà khoa học như là nguyên nhân khởi đầu của vũ trụ, không phải là Thượng Đế hữu ngã, có nhân tính của Thiên Chúa giáo. Thượng Đế của Thiên Chúa giáo được gọi là Thiên Chúa và là một hữu thể toàn năng, toàn thiện, toàn trí, công bình vô cùng, hay thương xót, và thường can thiệp vào công việc của loài người. Chỉ cần đơn giản dùng lý luận thuần lý của Parmenides, một triết gia cổ Hy lạp, cũng đủ đánh đổ ý niệm Thiên Chúa, bởi vì không thể có sự hiện hữu của bất cứ thứ gì có những thuộc tính mâu thuẩn loại trừ nhau. Epicurus lý luận như sau từ mấy ngàn năm trước:

● Có phải Thiên Chúa muốn ngăn ngừa sự dữ nhưng lại không thể? Vậy thì Ngài không phải toàn năng.

● Có phải Ngài có thể ngăn ngừa sự dữ nhưng lại không muốn? Vậy thì Ngài độc ác.

● Có phải Ngài có thể và cũng muốn ngăn ngừa sự dữ? Vậy tại sao lại có sự dữ?

● Phải chăng Ngài không có thể và cũng không muốn ngăn ngừa sự dữ? Vậy thì tại sao lại gọi Ngài là Thiên Chúa?

Và Quentin Smith, một triết gia, cũng đã dùng lối lý luận thuần lý này, điều mà ông gọi là lối lý luận trong đời sống hằng ngày, để loại trừ ý niệm Thượng Đế của Thiên Chúa giáo khi ông bàn về vô vàn sự dữ.

Tóm lại, khoa vũ trụ học, một bộ môn thuộc khoa học thực nghiệm, chỉ có thể đi đến kết luận rằng không cần phải mang Thượng Đế để gán cho một nguyên nhân đầu tiên làm vũ trụ khởi động. Thượng Đế ngày nay đã trở thành thứ thừa thãi trong tất cả mọi giải thích của khoa vũ trụ học. Mọi hiện tượng trong trời đất đều có những nguyên nhân tự nhiên. Vai trò của Thượng Đế cũng giống như những hữu thể tưởng tượng “phlogiston”, “ether”, và hành tinh “Vulcan” một thời cần thiết để giải thích những gì khi khoa học chưa giải thích được.

Và Thiên Chúa của Thiên Chúa giáo thì tuyệt đối không thể hiện hữu, bởi vì luận lý học không chấp nhận một hữu thể có những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau. Ý niệm Thiên Chúa cũng vô lý giống như một hình tròn nhưng lại có những góc cạnh vuông, hay con kỳ lân màu tím nhưng lại vô hình. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa giáo dạy chúng ta cần phải có một đức tin mới có thể tin được những điều vô lý.

Còn việc “cảm nhận Thượng Đế” theo nghĩa thông thường, đại chúng, như ông Trời, Đạo… thì hoàn toàn có tính chủ quan, rất là con người. Giống như khi chúng ta đi trong đêm tối, có người cảm thấy như có ma đang theo dõi mọi cử động của họ, có người lại không cảm nhận được điều đó. Và khi họ nói cho chúng ta biết về ma, mỗi người sẽ nói mỗi cách khác nhau, nhiều khi còn mâu thuẩn với nhau. Tâm lý học về ý thức, vô thức, hay tiềm thức có thể giải thích được những điều này. Ngày nay, có rất nhiều người không còn tìm Thượng Đế trong các giáo điều tôn giáo, nhưng tìm Thượng Đế ở tại con tim hay tại lương tâm của mình. Đó là ý niệm về Thượng Đế nội tại thường có trong những thực hành thiền hay yoga.

 

 

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2025

Vài Thủ Thuật Giữ Số Đông Cho Nhà Thờ

 Kitô giáo đã rèn luyện tín đồ của mình từ bỏ khả năng tư duy phản biện và nhìn nhận mọi sự kiện như một sự khẳng định cho niềm tin của họ. Đây là một hình thức kiểm soát tâm trí, và hầu hết các tín đồ không nhận ra rằng họ đã bị mắc kẹt trong cơ chế này.


- Cầu nguyện và đạt được điều bạn mong muốn? Chúa đã đáp lời bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus !
- Không đạt được điều đó? Ngài có kế hoạch khác cho bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus !
- Không tìm được câu trả lời? Bạn không cần phải hiểu. Hãy ca ngợi Chúa Jesus!
- Tìm ra câu trả lời? Ngài đã chọn bạn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus!
- Đau buồn vì mất người thân? Họ đang ở một nơi tốt đẹp hơn. Hãy ca ngợi Chúa Jesus!
- Buồn bã vì cuộc sống khó khăn? Bạn sẽ hạnh phúc sau khi rời khỏi trần thế. Hãy ca ngợi Chúa Jesus !

Thực sự, khi mọi câu hỏi đều được trả lời bằng điều khiến bạn cảm thấy dễ chịu nhất, được an ủi nhất, và ít phải sử dụng trí tuệ của mình nhất, điều đó chẳng phải là một dấu hiệu cảnh báo rõ ràng rằng bạn đang thiếu đi sự khách quan sao ? Những quan sát này không phải là những nhận định sâu sắc, thông minh hay đặc biệt mới mẻ, và tôi cũng không phải là người đầu tiên đề cập đến chúng. Nhưng với tư cách là một người sống hơn nửa đời người, từ bỏ và có kiến thức về Kitô giáo, thì việc tranh luận với các người biện hộ Kitô giáo có lẽ là ngây thơ, và dường như không thực sự cần thiết khi những tiền đề cơ bản nhất của niềm tin tôn giáo đã đầy rẫy những mâu thuẫn không thể dung hòa. Những mâu thuẫn này giải thích tại sao việc truyền bá tôn giáo phải bắt đầu từ khi còn rất nhỏ, và đáng buồn thay, chúng cũng giải thích tại sao thế giới lại rơi vào tình trạng đáng tiếc như hiện nay: bởi chúng khiến con người trở nên thành thạo trong việc hợp lý hóa những điều phi lý, tin vào những điều khó xảy ra, và biện minh cho những hành vi trái đạo đức.

Như Sam Harris từng nói, điều này giống như chơi quần vợt mà không có lưới. Nó giải thích tại sao các tín đồ Kitô giáo thường trở nên sùng đạo hơn sau khi trải qua thiên tai hay bệnh tật nghiêm trọng – họ đã được rèn luyện để nhìn mọi thứ, dù tốt hay xấu đều dẫn đến sự hoàn thành niềm tin của họ. Đây là một công cụ cực kỳ hiệu quả để Nhà thờ duy trì đám đông tín đồ như những chú cừu không tư duy, biết rằng dù không có hàng rào, họ cũng sẽ không lạc lối.


https://www.youtube.com/watch?v=O8a4EFqM-D8

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2025

Chúa Ơi Là Chúa!!! Lễ Vượt Qua - Hãy Bỏ Qua Thiên Chúa

 Cuối tuần này, người Do Thái khắp thế giới sẽ kỷ niệm Lễ Bỏ Qua (mà người TCG Việt Nam đã dịch một cách rất xàm xí và tráo trở là "Lễ Vượt Qua" với ý nghĩa vượt qua Biển Đỏ), có nguồn gốc từ câu chuyện Thiên Chúa "bỏ qua" những căn nhà của các tổ tiên xa xôi của người Do Thái trên đường ông ta đi giết hại những đứa con trai đầu lòng của những người Ai Cập xấu xa. Chuyện kể rằng các tổ tiên Do Thái của chúng tôi đã đánh dấu trên cửa nhà với máu chiên cừu để tránh cho con trai của họ khỏi số phận thê lương như của kẻ thù.


Trong bối cảnh chiến tranh và bạo lực, áp bức và khổ đau ngày nay, tôi đề nghị chúng ta hãy bỏ qua một thứ khác:
Đó là Thiên Chúa.

Có hai điều về câu chuyện cổ tích này mà tôi đã luôn cảm thấy bức xúc kể từ khi được dạy ở trường đạo Do Thái chính thống ở Monsey, New York. Lúc ấy, tôi mới 8 tuổi, và khi ngày kỷ niệm sắp đến, rabbi (thầy đạo) bảo chúng tôi mở cuốn Kinh thánh (tức Cựu ước, vì người Do Thái không xài Tân ước), sách Xuất hành. Để chúng tôi cảm thấy hứng khởi cho ngày lễ, ông kể chúng tôi nghe những câu chuyện khủng khiếp về tra tấn, xử tử. "Bọn Ai Cập" ông nói, "đã sử dụng xác của người Do Thái để xây nhà."

"Ý thầy là họ bắt dân Do Thái xây nhà cho họ phải không ạ? Và họ chết khi làm việc?" tôi hỏi.

"Không", thầy đạo đáp. "Chúng bỏ xác người Do Thái vào giữa những bức tường, dùng xác người làm gạch."

Bố tôi hồi đó làm thầu xây dựng, và tôi hiểu ngay rằng như thế chẳng đúng với quy tắc thi công gì cả, bán được cái nhà đó đi lại càng không thể. Ví dụ một cặp vợ chồng nào đó muốn mua sẽ hỏi "Phải cái này là gạch không thế?" còn anh môi giới bán nhà sẽ bảo "Không, không phải. Đấy là xác chết". Bạn tưởng tượng nổi không?

Nhưng điều thứ hai còn kinh khủng khiếp hơn nữa, là những trận thiên tai địch họa.

Thầy đạo kể Thiên Chúa đã đánh phạt toàn thể dân Ai Cập, không chỉ Pharaoh và quân lính của ông ta. Dân Ai Cập từ trẻ đến già, vô tội hay có tội, đều phải gánh chịu nạn châu chấu và ếch nhái, mưa đá và tối tăm, những con thú dữ xổng chuồng còn nước thì biến thành máu. Thầy còn nói những bà mẹ đang cho con bú cũng thấy sữa biến thành máu.

"Ôi má ơi" cả lớp tôi rú lên.

Thế mà Pharaoh vẫn không chịu từ bỏ nô lệ của mình. Đúng ra thì đó là do Chúa, vì Chúa đã "làm Pharaoh cứng lòng" nhưng khi đó tôi còn bé và chỉ bắt đầu suy nghĩ về cái gọi là tự do ý chí khi tôi được mười mấy tuổi. Và thế là Chúa, với lòng nhân từ của ông ta, chuyển qua giết trẻ con.

"Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của đứa đầy tớ gái ngồi sau cối xay, đến mọi con đầu lòng của loài vật." Đó là câu 5 trong sách Xuất hành chương 11.

Tôi nghĩ thầm chắc chắn cũng phải có người Ai Cập nào đó chưa từng đánh roi người Do Thái, có những người Ai Cập nào đó chẳng có chút thù ghét nào dân Do Thái chứ. Hay cũng phải có người Do Thái không đồng tình với chế độ nô lệ, hay không đồng tình với Pharaoh, cũng như chúng ta không đồng tình với lãnh đạo của chúng ta vậy thôi.

Tôi hỏi "mọi đứa bé sao? Thiên chúa đánh phạt tất cả chúng sao?"

Thầy đáp "phải. Từng đứa một."

"Yeah!!!" cả lớp vui mừng hét lên.

Có vẻ như Thiên chúa rất rộng tay, như một họa sỹ vẽ bằng chổi quét nhà. Thầy đạo giảng rằng ngài thậm chí giết cả những con vật nuôi đầu lòng, kiểu như bò, trong nhà dân Ai Cập. Nếu ngài là con người, thì Thiên chúa của dân Do Thái, của Kito giáo, và của cả Hồi Giáo nữa sẽ bị tóm cổ và đưa ra trước tòa án công lý quốc tế. Ấy vậy mà chúng ta lại ca ngợi ông ta, muốn noi theo ông ta, khuyên bảo con cái mình trở nên giống Chúa.

Có lẽ giờ đây, khi người ta bắn tên lửa vào nhau và những ngôi mộ tập thể được phát lộ, là lúc chúng ta hãy thôi bắt chước vị Thiên Chúa đầy thù hận này. Hãy thôi ngợi ca sự tàn ác của ông ta. Hãy dạy con cái chúng ta bỏ qua Chúa, và trở nên khác với ông ta càng nhiều càng tốt.

Ước gì các thầy đạo, linh mục, thầy tế sẽ kể trong lớp cho học sinh nghe rằng "Thiên Chúa đã giết tất cả trẻ con, và như thế là sai trái, các con hiểu không?" Hay là "Chúa đã đuổi Adam và Eve ra khỏi Eden chỉ vì họ đã ăn một trái táo, và như thế là rất quá đáng." Hay là về vụ nguyền rủa toàn thể phụ nữ đến muôn thuở muôn đời vì Eve đã có một lựa chọn của bà ta, "đó là một hình thức trừng phạt tập thể, và các con đừng bao giờ làm thế với người khác." Còn bọn trẻ sẽ la lên "Thiên chúa thật đáng xấu hổ".

Tôi được nuôi dạy theo đúng truyền thống Do Thái chính thống. Mỗi năm, vào đầu tiệc Seder (bữa ăn kỷ niệm Lễ Bỏ Qua), chúng tôi mời những người Do Thái nghèo đói vào ăn chung. Thật là hết sức nhân văn. Thế nhưng chỉ sau một vài tiếng đồng hồ dành cho Chúa, vào cuối buổi tiệc, chúng tôi sẽ mở cửa ra và hét to với ngài "Hãy giáng sự thịnh nộ của Chúa xuống những dân tộc không nhận biết Chúa!"

Và Chúa đã làm thế. Ngài giáng xuống thế giới này những dịch bệnh, thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn, v.v. trên người trẻ cũng như người già, có tội hay vô tội. Còn loài người được cho là mang hình ảnh của Thiên chúa cũng làm thế. Chúng ta làm với đạn bom, pháo cối, tên lửa nhiệt áp.

Thầy đạo của tôi từng giảng "Chúa giết luôn cả những con vật nuôi đầu lòng là vì dân Ai Cập tin những con vật đó là thần." Nếu thần thánh mà bị giết được, thì tôi cũng đồng ý.

Năm nay, cuối tiệc Seder, hãy mở cửa cho người lạ, cho những người không thuộc cộng đồng của chúng ta. Hãy chào đón những người mà chúng ta cho là kinh khủng, xấu xa, khác biệt với chúng ta, những người mà ta cho là kẻ thù, hay những người cho chúng ta là kẻ thù của họ, nhưng nếu họ chịu ngồi chung bàn với chúng ta, chúng ta chắc chắn sẽ thấy rằng họ cũng căm ghét những pharaoh của thế giới hiện đại này như chúng ta, và cũng mang một ước nguyện như chúng ta, đó là:

Hòa Bình!

Shalom Auslander

(Bài viết trên báo New York Times của tác giả Shalom Auslander ngày 15/4/2022, Vince tạm dịch. Bạn nào đọc được tiếng Anh thì mở link để xem vì Vince Vince có bỏ qua một số chi tiết nhỏ) 

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Giáo Hoàng Muốn Bạn Chấp Nhận Thuyết Tiến Hoá Và Vụ Nổ Lớn

 Trên thực tế, Giáo hội Công giáo La Mã đã công nhận thuyết tiến hóa của Darwin trong 60 năm qua. Nó công khai bác bỏ Thiết kế Thông minh và Chủ nghĩa Sáng tạo Trái đất Lúc Sơ Khai khi nói rằng nó "giả vờ là khoa học."

Giáo hội Công giáo La Mã ủng hộ thuyết tiến hóa và Vụ nổ lớn, nhưng có một chút thay đổi...

Hôm qua, Giáo hoàng Francis, người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã, nói rằng thuyết tiến hóa của Darwin là có thật, và Big Bang cũng vậy, theo Telegraph. Ở một nơi khác trong bài phát biểu trước Viện hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học, Francis nói:

Khi chúng ta đọc về Sáng tạo trong Sáng thế ký, chúng ta có nguy cơ tưởng tượng chúa là một pháp sư, với cây đũa thần có thể làm mọi thứ. Nhưng không phải vậy,” Francis nói.

Mark Neyman/NurPhoto/Corbis

Ông ấy nói thêm: "Chúa đã tạo ra con người và để họ phát triển theo những quy luật nội tại mà ông ấy đã ban cho mỗi người để họ đạt được sự viên mãn của mình."

Tờ Telegraph cho biết lập trường của Giáo hoàng về sự tiến hóa và vũ trụ vẫn dành chỗ cho một đấng sáng tạo thiêng liêng, nhưng đặt vai trò của người đó vào thời điểm trước khi vũ trụ ra đời như chúng ta biết.

Cnet, hệ thống mạng các máy tính, cho biết rõ ràng quan điểm này không hoàn toàn phù hợp với tư tưởng khoa học hiện nay. Tờ Telegraph viết, tuy nhiên, Giulio Giorello, một triết gia khoa học, nói rằng ông nghĩ động thái này (của giáo hoàng) nhằm “giảm bớt cảm giác tranh chấp hoặc tranh cãi được cho là 'với khoa học.'

Như trang web "io9" đã chỉ ra, lúc đầu tiên Francis được phong chức, tuyên bố của tân Giáo hoàng nghe gần như dị giáo, không phải là đầu tiên thuộc loại này. Giáo hội lần đầu tiên đưa thuyết tiến hóa vào năm 1950 (1) với công việc của Giáo hoàng Pius XII, trang io9 viết. “Đồng thời, người Công giáo không có vấn đề gì với thuyết Big Bang, cùng với các tiên đề vũ trụ, địa chất và sinh học mà khoa học đưa ra.”

Trên thực tế, Giáo hội Công giáo La Mã đã công nhận thuyết tiến hóa của Darwin trong 60 năm qua. Nó công khai bác bỏ Thiết kế Thông minh và Chủ nghĩa Sáng tạo Trái đất Lúc Sơ Khai khi nói rằng nó "giả vờ là khoa học." Nhưng quan điểm duy nhất của Giáo hội về lý thuyết, cái được gọi là thuyết tiến hóa hữu thần, vẫn cho thấy rằng người Công giáo phần lớn đã bỏ qua vấn đề.

Dvorsky viết, ý tưởng rằng ý tưởng về một đấng sáng tạo và các nguyên lý của thuyết tiến hóa Darwin chồng chéo lên nhau là một mệnh đề "được voi đòi tiên", mà phần lớn bỏ qua tiềm năng nguy hiểm của ý tưởng Darwin là kẻ giết Chúa."

Lý thuyết của Darwin cung cấp một hệ thống độc lập. Sự tiến hóa là một quá trình hoàn toàn tự động không yêu cầu bất kỳ sự hướng dẫn mang “tính hợp lý” nào (thuật ngữ của Benedict) để hoạt động. Đó là một quá trình cực kỳ chậm chạp, tàn bạo và cực kỳ có phương pháp, nhưng nó hiệu quả."

Những tuyên bố của Giáo hoàng Francis ngày hôm qua đưa lập trường của nhà thờ trở lại phù hợp với vị trí lịch sử của nó về tư tưởng khoa học, và tránh xa quan điểm nghiêng về thiết kế thông minh và thuyết sáng tạo của người tiền nhiệm của ông, tức Giáo hoàng Benedict XVI.

Lê thị Kim Hoa dịch

Source: Smithsonian Magazine, The Pope Would Like You to Accept Evolution and the Big Bang https://www.smithsonianmag.com... by Colin Schultz , October 28, 2014

Nguồn: Lê Thị Kim Hoa ngày 07 tháng 6, 2025

Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2025

Tôn giáo nào là lâu đời nhất?

 Sumeria, hay nền văn minh Lưỡng Hà, và Ai Cập là hai nền văn minh lâu đời nhất vì chúng là nền văn minh chữ viết sớm nhất xuất hiện vào khoảng 5500 năm trước, mặc dù tôn giáo của họ đã tuyệt chủng hơn 2000 năm. Annunaki, một nhóm các vị thần Lưỡng Hà không được nhắc đến cho đến tận khoảng 4000 năm trước.

Ấn Độ giáo (cùng với Do Thái giáo) là hai tôn giáo cổ xưa nhất vẫn còn được thực hành. Ấn Độ giáo có thể nhận biết được ít nhiều đã xuất hiện từ thời kỳ Vệ Đà của Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, mặc dù những gốc rễ Vệ Đà đó dường như đã có từ nhiều thế kỷ trước và bao gồm một số vị thần Hindu. 

Do Thái giáo sơ khai biết rằng họ là một đối thủ độc thần trẻ tuổi đối với nhiều vị thần cổ đại của nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập. Hồi giáo tuyên bố là tôn giáo nguyên thủy của toàn thể nhân loại nhưng bản thân Kinh Qur'an không được tiết lộ cho con người cho đến thời của Tiên tri Muhammad. 

Vì vậy, niềm tin vào Annunaki dường như có trước Ấn Độ giáo như chúng ta biết với biên độ đáng kể và nhiều khả năng là niềm tin vào các vị thần được người Hindu tôn thờ trước đó vài thế kỷ. Nhưng có nhiều tranh luận về việc liệu Nền văn minh Thung lũng Indus, có trước thời kỳ Vệ Đà, có tôn thờ bất kỳ vị thần Hindu nào hay không.

Tiên tri Abraham là người đầu tiên được gọi là “người Do Thái” trong Kinh thánh Hebrew (Sáng thế ký 14:13). Thuật ngữ Hebrew có lẽ bắt nguồn từ động từ vượt qua ranh giới, như sông Euphrates hoặc sông Jordan, hoặc là một người di cư. Mười thế hệ sau, người Philistines ở Canaan đã sử dụng thuật ngữ “Hebrews” để chỉ 12 chi tộc của Israel: “Các chỉ huy người Philistines hỏi, “Còn những người Hebrew này thì sao?” (1 Samuel 29:3); và Tiên tri Jonah tự nhận mình là “một người Hebrew” với những thủy thủ không phải người Do Thái (Jonah 1:9). 

Tiên tri Abraham là người Do Thái theo đạo Hồi đầu tiên như Kinh Qur'an 3:67 đã nêu: “Ông (Abraham) không phải là Yahuudiyyan, “một người Do Thái”, cũng không phải Nasraaniyyan, “một người theo đạo Thiên chúa”, mà là một Haniifan” tức là “một tín đồ Do Thái theo thuyết độc thần, phục tùng (Hồi giáo) một vị Chúa vô hình, Đấng đã tạo ra mọi không gian và thời gian; và Đấng đã biến con cháu của Tiên tri Abraham thông qua các Tiên tri Isaac và Jacob (Israel), thành một đám đông lớn những người theo thuyết độc thần được gọi là Dân tộc Israel-Banu Israel.


Hành trình của Abraham từ Ur đến Canaan, của József Molnár, 1850. Nguồn: Wikipedia Commons

Tiên tri Isaiah đã nói: “Hãy lắng nghe tôi, hỡi những người theo đuổi sự công chính, những người tìm kiếm Chúa: hãy nhìn vào tảng đá mà bạn đã được đục ra, và vào mỏ đá mà bạn đã được đào lên. Hãy nhìn vào Abraham cha của bạn và Sarah người đã sinh ra bạn; vì ông ấy [Abraham] chỉ là một khi tôi gọi ông ấy, để tôi có thể ban phước cho ông ấy và nhân lên ông ấy. (Isaiah 51: 1-2) và Kinh Qur'an nêu: “Bạn có một tấm gương tuyệt vời để noi theo ở Abraham.” (60: 4) và “Hãy noi theo con đường của Abraham như những người có đức tin thuần túy.” (3: 95) 

Hầu hết mọi người trên thế giới đều biết đến Tiên tri Abraham, không phải bằng cách đọc một cuốn sách về lịch sử hay tôn giáo Do Thái, mà bằng cách lắng nghe và đọc Kinh thánh của người Cơ đốc hoặc Kinh Qur'an của người Hồi giáo. Tình huống độc đáo và đáng kinh ngạc này là sự phản ánh lời hứa đã được ban cho Tiên tri Abraham hơn 36 thế kỷ trước, và được ghi lại trong cả Torah và Kinh Qur'an.

“Ta thề (Thiên Chúa phán) vì ngươi đã làm điều này – không giữ lại đứa con trai ngươi, đứa con ngươi yêu thích, Ta sẽ ban phước lành của Ta cho ngươi và làm cho con cháu ngươi đông như sao trên trời và cát trên bờ biển; và con cháu ngươi sẽ chiếm được cổng thành của kẻ thù. Tất cả các quốc gia trên trái đất sẽ tự ban phước cho mình thông qua con cháu ngươi, vì ngươi đã tuân theo lệnh của Ta.” (Sáng thế ký 22:16-18) và “Thật vậy, Chúng ta đã chọn ông ấy (Abraham) là người trong sạch và nổi bật nhất trên thế giới, và chắc chắn ông ấy là một trong những người công chính ở Ngày sau.” (Kinh Qur'an 2:130)

Tiên tri Isaiah cũng nói: Nhưng ngươi, Israel, tôi tớ của ta, Jacob, người mà ta đã chọn, là dòng dõi của Abraham, bạn ta;” (Isaiah 41:8) Vì vậy, con cháu sinh học của Tiên tri Abraham (Banu Israel) đã trở thành cộng đồng độc thần đầu tiên đang tồn tại khi Chúa giải cứu họ khỏi sự áp bức của Ai Cập; và lập một giao ước đang tồn tại với họ tại Núi Sinai. Tiên tri Abraham không sinh ra là người Do Thái, nhưng con cháu của ông từ cháu trai Jacob/Israel đã trở thành Banu Israel—Người Do Thái.

Trong hơn 1200 năm sau Nhà tiên tri Moses, Banu Israel là cộng đồng độc thần duy nhất đang tồn tại trên thế giới. “Tương tự như vậy, không có Sứ giả nào đến với Dân tộc trước họ, nhưng họ nói (về ông ấy) "Một thầy phù thủy, hoặc một người bị ám ảnh'”! (51:52) Và như Kinh Qur'an đã thông báo cho chúng ta: “Những người của Noah đã phủ nhận trước họ, và những người bạn của giếng và Thamūd; và ʿAad và Pharaoh và những người anh em [hàng xóm] của Lot; và những người bạn của khu rừng, và những người của Tubbaʿ. Tất cả đều phủ nhận các sứ giả [Allah đã gửi đến họ] vì vậy lời đe dọa của Ta đã được thực hiện một cách chính đáng.” [50:12-14] 

Và những cộng đồng độc thần đó đã tồn tại trong một vài thế hệ, luôn luôn suy yếu trong những thế kỷ tiếp theo; trong khi hầu hết, nhưng không phải tất cả, Banu Israel vẫn trung thành với giao ước mà Chúa đã lập với họ tại Núi Sinai: "Trước (các Sứ giả Abraham, Moses, David và Jesus) Chúng ta đã phái các sứ giả đến nhiều quốc gia, và Chúng ta đã hành hạ các quốc gia bằng đau khổ và nghịch cảnh, để họ gọi Allah trong sự khiêm nhường. Khi sự đau khổ đến với họ từ Chúng ta, tại sao họ không gọi Allah trong sự khiêm nhường? Ngược lại, trái tim của họ trở nên chai sạn, và Satan đã làm cho những hành vi tội lỗi của họ có vẻ hấp dẫn đối với họ. (Kinh Qur'an 6:42-43)

Nhưng khi nhiều thế kỷ trôi qua, nhu cầu bảo vệ lối sống Do Thái ngày càng trở thành trọng tâm trong nỗ lực của họ; và sau cái chết của các Nhà tiên tri Isaiah và Jeremiah, Banu Israel ngày càng có xu hướng xây dựng hàng rào xung quanh Torah và đưa ra nhiều quy tắc hơn và hạn chế hơn. 

Năm 1065, Giáo hoàng Alexander kêu gọi một cuộc Thập tự chinh chống lại người Moor ở Tây Ban Nha. Sau đó, vào năm 1073, Giáo hoàng Gregory đã ban hành các tuyên bố chính thức thúc giục các hoàng tử Cơ đốc giáo thu hồi các vùng đất do người Hồi giáo chiếm đóng ở Tây Ban Nha, nơi mà ông tuyên bố chủ quyền của giáo hoàng dựa trên quyền cai trị và quyền của Cơ đốc giáo trước đó. Những sắc lệnh này thực sự là khởi đầu cho các cuộc Thập tự chinh của Cơ đốc giáo chống lại Hồi giáo. Những ý tưởng của Giáo hoàng Gregory về chiến tranh của Cơ đốc giáo cũng được mở rộng sang việc chiến đấu chống lại kẻ thù trong nước của Giáo hội (như Tin lành). 

Ví dụ, vào năm 1209, Giáo hoàng Innocent III đã thúc giục một nhóm quý tộc miền bắc nước Pháp tập hợp một đội quân tràn vào miền nam nước Pháp, nơi họ mở một cuộc thập tự chinh đẫm máu đến mức bao gồm cả việc cướp phá Beziers bởi một đội quân dưới quyền của giáo hoàng. Ngay trước cuộc tấn công, giết chết 15-20.000 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em, người của giáo hoàng tại hiện trường, Arnaud Amalric, được cho là đã thốt ra một trong những mệnh lệnh nổi tiếng nhất trong lịch sử: "Giết hết bọn chúng. Chúa sẽ biết người của Người."

4-5 thế kỷ tiếp theo của cuộc chiến tranh quân sự tôn giáo ở châu Âu và Trung Đông là kết quả của 2-3 thế kỷ trước đó của cuộc chiến tranh bằng lời nói toàn diện giữa Kitô giáo và Hồi giáo. Sự thật tôn giáo đã trở thành một trò chơi tổng bằng không: bất kỳ điều gì tích cực được nói về một tôn giáo khác đều được coi là làm suy yếu phe của bạn. Mục tiêu không phải là khiêm tốn cố gắng hài hòa các quan điểm tôn giáo khác nhau về một và chỉ một Chúa; mà là tự cho mình là đúng khi phóng đại những khác biệt tôn giáo, vượt xa mọi sự hiểu biết hợp lý về hai bên.

Trong thế giới Hy Lạp, Đền Jerusalem (Beit HaMikdosh) rất nổi tiếng, trong khi Ka'ba, Nhà của Chúa (Baitullah) ở Mecca hoàn toàn không được biết đến. Tài liệu tham khảo đầu tiên của người La Mã về Baitullah là từ Diodorus Siculus, một nhà sử học La Mã thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, người đã viết rằng ở Ả Rập có một ngôi đền được người Ả Rập rất tôn kính. 

Theo GE Von Grunebaum, người tôi đã học cùng tại Đại học California Los Angeles năm 1959, Mecca cũng được Ptolemy, một nhà toán học, thiên văn học và địa lý người Alexandria thế kỷ thứ hai, nhắc đến và viết rằng: “Cái tên mà ông đặt cho thành phố cho phép chúng ta xác định đây là một nền tảng của người Nam Ả Rập được xây dựng xung quanh một khu bảo tồn.” (GE Von Grunebaum, Classical Islam: A History 600–1258, trang 19)

Tuy nhiên, chỉ bảy thế kỷ sau đó, cả hai thành phố và khu bảo tồn này, một nơi hầu như không được người La Mã biết đến và nơi kia đã bị người La Mã phá hủy hoàn toàn, đã được coi là trái tim, lá phổi hoặc rốn của thế giới trong suốt thời Trung cổ ở cả châu Âu và Tây Á. 

Jerusalem và Mecca thường được người theo đạo Thiên chúa, Do Thái và Hồi giáo mô tả ở trung tâm bản đồ của họ. Nếu Chúa muốn, một ngày nào đó mọi người có thể thấy cả hai thành phố và thánh địa của họ là trung tâm cho mối liên hệ độc thần của chúng ta với Đấng tối cao của các Tiên tri Abraham, Ishmael và Isaac. 

Thật vậy, nhiều câu chuyện dân gian về hai không gian linh thiêng này rất giống nhau. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây, được truyền miệng bằng cả tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái trong nhiều thế kỷ và cuối cùng được viết thành nhiều phiên bản vào thế kỷ 19, minh họa cách hai không gian linh thiêng này có thể được kết nối mặc dù chúng cách nhau hơn 700 dặm. Một số người nói rằng điều này xảy ra vào thế hệ khi Abraham được sinh ra. 

Hai anh em thừa hưởng một trang trại 'từ thung lũng đến đỉnh đồi' từ cha mình đã chia đôi đất để mỗi người có thể canh tác phần đất của mình. Theo thời gian, người anh kết hôn và có bốn người con, trong khi người em vẫn chưa kết hôn.

Một năm có rất ít mưa, và mùa màng rất ít ỏi. Đây là thời điểm bắt đầu của một đợt hạn hán kéo dài sẽ biến toàn bộ thung lũng thành một sa mạc khô cằn, không có cây cối, nơi mà ngay cả ngũ cốc cũng không mọc, và tất cả các suối đều cạn kiệt. 

Người em trai nằm thức một đêm cầu nguyện và nghĩ rằng: “Anh trai tôi có vợ và bốn đứa con để nuôi, còn tôi thì không có con. Anh ấy cần nhiều ngũ cốc hơn tôi; nhất là bây giờ khi ngũ cốc đang khan hiếm.”


Vì vậy, đêm đó, người em trai đã đến chuồng của mình, lấy một bao lúa mì lớn, và để lúa mì của mình trong chuồng của anh trai. Sau đó, anh ta trở về nhà. Vào đầu đêm đó, người anh trai cũng đang nằm thức cầu nguyện cho mưa khi anh ta nghĩ: "Khi về già, vợ tôi và tôi sẽ có những đứa con đã trưởng thành để chăm sóc chúng tôi, cũng như những đứa cháu để vui chơi, trong khi anh trai tôi có thể không có con. Ít nhất anh ấy nên bán nhiều ngũ cốc hơn từ cánh đồng của mình ngay bây giờ, để anh ấy có thể tự lo cho mình khi về già.

Vì vậy, đêm đó, người anh cũng gom một bao lúa mì lớn, để lại trong kho thóc của người em rồi trở về nhà. Sáng hôm sau, người em ngạc nhiên khi thấy lượng lúa mì trong kho thóc của mình dường như không thay đổi, nói rằng: "Tôi không lấy nhiều lúa mì như tôi nghĩ. Tối nay tôi sẽ lấy thêm". 

Cùng buổi sáng hôm đó, người anh cả, đứng trong chuồng của mình, cũng nghĩ như vậy. Sau khi màn đêm buông xuống, mỗi người anh em thu thập một lượng lúa mì lớn hơn từ chuồng của mình và trong bóng tối, bí mật chuyển đến chuồng của người em trai. 

Sáng hôm sau, các anh em lại bối rối và hoang mang. “Làm sao mình có thể nhầm được?”, mỗi người đều nghĩ. “Số lượng ngũ cốc ở đây vẫn như trước. Không thể nào như vậy được! Tối nay mình sẽ không nhầm lẫn nữa—Mình sẽ lấy hai bao lớn.”

Đêm thứ ba, quyết tâm hơn bao giờ hết, mỗi anh em lấy hai bao lúa mì lớn từ chuồng của mình, chất lên xe đẩy và từ từ kéo xe về phía chuồng của anh trai. Dưới ánh trăng, mỗi anh em đều nhận thấy một bóng người ở đằng xa. 

Khi hai anh em đến gần nhau hơn, mỗi người đều nhận ra hình dáng của người kia và gánh nặng mà người kia đang kéo, và cả hai đều nhận ra điều gì đã xảy ra! Không nói một lời, họ thả dây thừng của xe, chạy đến bên nhau và ôm chầm lấy nhau.

Thiên Chúa đã ghi nhận hành động của hai anh em và nghĩ rằng tình yêu thương và sự quan tâm của họ dành cho nhau sẽ là tấm gương sáng cho con cháu họ, và khiến họ xứng đáng xây dựng một Ngôi Nhà thánh trên ngọn đồi đó; và xây dựng lại một Ngôi Nhà thánh trong thung lũng này.

Khi tất cả những người, cả gần và xa, tôn kính những nơi linh thiêng này như một chuẩn mực, chia sẻ nó trong tình yêu thương với tất cả những người khác tôn kính nó, thì lời cầu xin của Tiên tri Abraham với Allah "biến nơi này thành vùng đất hòa bình và cung cấp cho người dân nơi đây sản vật của vùng đất đó" (Kinh Qur'an 2:126) sẽ được lan tỏa khắp thế giới; và tất cả con cháu của Noah và Abraham sẽ sống trong sự Thánh thiện, Hòa bình và Thịnh vượng. 

Người Do Thái và người theo đạo Thiên Chúa tin rằng ngọn đồi là Jerusalem. Người Hồi giáo tin rằng thung lũng là Mecca. Tôi tin rằng cả hai đều đúng và một ngày nào đó nếu chúng ta có thể sống theo lý tưởng rằng chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo là ý muốn của Chúa, chúng ta sẽ giúp hoàn thành tầm nhìn 2700 năm tuổi của Tiên tri Isaiah: 

“Trong ngày đó sẽ có một xa lộ từ Ai Cập đến Assyria. Người Assyria sẽ đi đến Ai Cập, và người Ai Cập sẽ đến Assyria. Người Ai Cập và người Assyria sẽ cùng nhau thờ phượng. Trong ngày đó, Israel sẽ tham gia một liên minh ba bên với Ai Cập và Assyria, một phước lành trên trái tim. Chúa các đạo quân sẽ ban phước cho họ nói rằng, “Phước cho Ai Cập dân Ta, Assyria công trình của Ta, và Israel cơ nghiệp Ta.”… (Ê-sai 19:23-5)

Vì vậy, lời hứa của Chúa với Tiên tri Abraham rằng các gia đình khác của nhân loại cuối cùng sẽ tự ban phước cho mình và cho nhau, do đó khao khát trở nên giống như con cháu của Abraham (Sáng thế ký 12:3; 18:18; 22:18; 26:4; 28:14), sẽ được ứng nghiệm trong ba tôn giáo bắt nguồn từ Abraham là Cơ đốc giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo.